1. Những ghi chép và hình ảnh vào thời cổ đại.

Kiểu chào La Mã là một cử chỉ mà một tay giơ cao về phía trước với lòng bàn tay úp xuống. Trong một vài phiên bản thì tay giơ cao hơn hoặc song song với mặt đất. Đây là một cử chỉ xuất hiện lâu đời, khoảng thời gian Cộng Hòa La Mã chuyển mình thành Đế Quốc La Mã. Kiểu chào này được phát triển mạnh mẽ và lan rộng hơn trong các tác phẩm nghệ thuật thời kì Phục Hưng.
Tay phải tượng trưng cho rất nhiều đức tính tốt đẹp của con người. Nó thể hiện niềm tin thông qua hành động bắt tay, thể hiện tình bạn qua hành động vẫy tay, và thể hiện sự quyết tâm khi giơ cao trong lúc tuyên thệ. Đối với nhựng chiến binh và tướng lĩnh thì tay phải còn là tay cầm kiếm. Vì vậy hành động giơ tay phải còn tượng trưng cho lòng trung thành của người lính, sự uy quyền của người lãnh đạo.
Những tác phẩm điêu khắc kỉ niệm chiến thắng quân sự thường xuất hiện cử chỉ chào La Mã. Có thể kể đến một số mẫu vật như các bức điêu khắc trên Cổng Vòm Titus, Cổng Vòm Constantine hay trên cột Trajan... Tuy nhiên, chúng không thể hiện cử chỉ chào này một cách đồng nhất. Mỗi người dân lại chào mừng chiến thắng theo một cách khác nhau, nên có thể cho rằng cách chào này không thịnh hành trong tầng lớp nhân dân vào thời cổ đại.
Bức điêu khắc trên cột Trajan, mọi người đang chào hoàng đế của họ bằng kiểu chào La Mã, nhưng mỗi người lại giơ tay phải theo một kiểu khác nhau.
Bức điêu khắc trên cột Trajan, mọi người đang chào hoàng đế của họ bằng kiểu chào La Mã, nhưng mỗi người lại giơ tay phải theo một kiểu khác nhau.
Những hình ảnh được mô tả giống với cách chào nhất là trong các dịp khi hoàng đế, tướng lĩnh nói với cá nhân hay một nhóm, thường là quân nhân. Không giống như phong tục hiện đại, trong đó cả nhà lãnh đạo và những người mà anh ta xưng hô đều giơ tay, hầu hết những cảnh này chỉ cho thấy quan chức cấp cao giơ tay. Đôi khi nó là một dấu hiệu của lời chào hoặc sự nhân từ, nhưng thông thường nó được sử dụng như một biểu hiện của quyền lực. Một mô tả ngược lại là hành động chào của một diogntic, một sĩ quan quân cảnh, người giơ cánh tay phải của mình lên để chào chỉ huy của mình trong cuộc phiêu lưu của anh ta ở một khu cứu trợ từ Ephesus thế kỷ thứ 2. Do đó, hành động chào kiểu La Mã vào thời cổ đại là một cử chỉ của tầng lớp binh sĩ và giới cầm quyền.

2. Thế kỉ 18-19 ở Pháp

Bắt đầu với bức tranh Lời thề của Horatii (1784) của Jacques-Louis David. Bức tranh vẽ ba người con trai của Horatius thề trên thanh kiếm của cha họ, rằng họ sẽ bảo vệ thành Rome cho đến chết. Ba anh em cùng nhau giơ tay để nhận lấy thanh kiếm từ cha mình, thể hiện sự quyết tâm, ý chí của tinh thần "chiến thắng hoặc chết" và tinh thần đoàn kết. Và từ đây, ý nghĩa của cử chỉ này đã thay đổi. Nó không còn là thể hiện quyền lực của nhà cầm quyền nữa mà chuyển sang thể hiện sự đoàn kết, quyết tâm và tinh thần yêu nước của người dân.
Lời thề của Horatii (1784)
Lời thề của Horatii (1784)
Sau Cách Mạng Pháp 1789, họa sĩ Jacques Louis David được giao nhiệm vụ miêu tả sự hình thành của chính phủ cách mạng theo một phong cách tương tự. Trong tác phẩm Lời thề trên sân quần vợt (1792), tất cả Quốc hội được mô tả với cánh tay dang rộng, đoàn kết trong một cử chỉ hướng lên tương tự như của Horatii, khi họ thề sẽ tạo ra một hiến pháp mới. Bức tranh không bao giờ được hoàn thành, nhưng một bức vẽ khổng lồ đã được triển lãm vào năm 1791 cùng với Lời thề của Horatii. Như trong Lời thề của Horatii, David đã truyền tải sự thống nhất của trí óc và cơ thể để phục vụ lý tưởng yêu nước.
Lời thề trên sân quần vợt (1791), được vẽ bởi J-L David
Lời thề trên sân quần vợt (1791), được vẽ bởi J-L David
Sau khi chính quyền cộng hòa bị thay thế bởi thể chế đế quốc của Napoleon, David một lần nữa thể hiện cử chỉ La Mã trong tác phẩm The Distribution of the Eagle Standards vào năm 1810. Nhưng khác với tác phẩm trước, cử chỉ này không thể hiện tinh thần cộng hòa, cử chỉ lần này thể hiện lời thề trung thành với một người trung tâm (Hoàng Đế Napoleon). Hành động chào La Mã một lần nữa được thay đổi ý nghĩa thành sự trung thành tuyệt đối đến với nhà lãnh đạo.
The Distribution of the Eagle Standards (1810)
The Distribution of the Eagle Standards (1810)

3. Thế kỉ 19-20 tại Mỹ

Vào ngày 12 tháng 10 năm 1892, kiểu chào Bellamy với cách chào tương tự được xuất hiện như một cách chào cờ ở Mỹ. Người phát minh ra cử chỉ chào là James B. Upham, cộng sự và biên tập viên của Đoàn Thanh Niên. Bellamy nhớ lại Upham, khi đọc bản cam kết, đã đến tư thế chào, bắt gót vào nhau và nói "Bây giờ trên kia là lá cờ; Tôi đến để chào; khi tôi nói 'Tôi cam kết trung thành với lá cờ của tôi,' tôi duỗi tay phải ra và giữ nó giơ lên trong khi tôi nói những lời khuấy động sau đó. "
Khi chủ nghĩa phát xít bành trướng ở châu Âu, tranh cãi ngày càng tăng về việc sử dụng kiểu chào Bellamy do nó giống với kiểu chào của người La Mã. Khi chiến tranh nổ ra vào năm 1939, cuộc tranh cãi ngày càng gay gắt. Các hội đồng trường học trên toàn quốc đã sửa lại cách chào để tránh sự giống nhau. Đã có phản ứng dữ dội từ Hiệp hội Cờ Hoa Kỳ và Hội Phụ Nữ Cách mạng Hoa Kỳ, những người cảm thấy không phù hợp khi người Mỹ phải thay đổi cách chào truyền thống chỉ vì một nước khác đã áp dụng một cử chỉ tương tự.
Vào ngày 22 tháng 6 năm 1942, với sự thúc giục của Hội Quân đoàn Mỹ (American Legion) và Hội Cựu chiến binh viễn chinh (The Veterans of Foreign Wars), Quốc hội Mỹ đã thông qua Luật Công vụ 77-623, trong đó đã hệ thống hóa các nghi thức được sử dụng để hiển thị và cam kết trung thành với lá cờ. Điều này bao gồm việc sử dụng cách chào Bellamy, cụ thể là lời cam kết "được thực hiện bằng cách đứng với tay phải giơ cao hơn tim; mở rộng bàn tay phải, lòng bàn tay hướng lên, về phía lá cờ và giữ vị trí này cho đến hết, khi bàn tay hạ xuống một bên. " Quốc hội đã không thảo luận hoặc tính đến tranh cãi về việc sử dụng cách chào. Quốc hội Mỹ sau đó đã sửa đổi bộ luật vào ngày 22 tháng 12 năm 1942, khi nó thông qua Luật Công vụ 77-829. Trong số những thay đổi khác, nó đã loại bỏ kiểu chào Bellamy và thay thế bằng quy định rằng lời cam kết "được thực hiện bằng cách đứng với tay phải đặt trước trái tim."
Học sinh Mỹ thực hiện nghi thức chào cờ bằng kiểu chào Bellamy.
Học sinh Mỹ thực hiện nghi thức chào cờ bằng kiểu chào Bellamy.

4. Kiểu chào Phát Xít

D'Annunzio, một nhà thơ, nhà báo, nhà viết kịch và cựu quân nhân Ý, đã sáng tạo ra kiểu chào Phát Xít dựa trên nghi thức chào La Mã khi ông chiếm được Fiume vào năm 1919. Ông còn sáng tạo ra rất nhiều nghi thức khác trong thời gian này, mà về sau chúng được các Đảng Phát Xít sử dụng.
Giống như các nghi lễ Hoàng gia cách tân khác được D'Annunzio sử dụng, màn chào đã trở thành một phần của tiết mục biểu tượng của phong trào phát xít Ý. Vào ngày 31 tháng 1 năm 1923, Bộ Giáo dục đã thiết lập một nghi lễ tôn vinh lá cờ trong các trường học bằng cách sử dụng cách chào La Mã. Vào năm 1925, khi Mussolini bắt đầu mê hoặc nhà nước, cách chào dần dần được chế độ áp dụng và đến ngày 1 tháng 12 năm 1925, tất cả các quản lý dân sự của bang bắt buộc phải sử dụng nó.
Achille Starace, bí thư Đảng Phát xít Ý, đã thúc đẩy các biện pháp để việc sử dụng cách chào kiểu La Mã nói chung là bắt buộc, tố cáo bắt tay là hành động của bọn tư sản. Ông còn ca ngợi cách chào là "hợp vệ sinh hơn, thẩm mỹ hơn và ngắn hơn." Ông cũng gợi ý rằng cách chào của người La Mã không ám chỉ sự cần thiết phải cởi mũ ra, trừ khi đang ở trong nhà. Đến năm 1932, cách chào đã được chấp nhận để thay thế cho cái bắt tay. Vào ngày 19 tháng 8 năm 1933, quân đội được lệnh sử dụng cách chào bất cứ khi nào một đội binh lính không vũ trang được kêu gọi để tôn vinh nhà vua hoặc Mussolini.
Giá trị biểu tượng của cử chỉ ngày càng tăng, và người ta cảm thấy rằng cách chào có tác dụng thể hiện tinh thần quyết đoán của phát xít, gần với tinh thần của La Mã cổ đại. Màn chào được coi là để thể hiện "tinh thần quyết đoán, sự kiên định, nghiêm túc, cũng như sự thừa nhận và chấp nhận cấu trúc thứ bậc của chế độ" của trùm phát xít.
Ở Đức, cách chào, được Đảng Quốc xã (NSDAP) sử dụng không thường xuyên kể từ năm 1923, sau đó nó được thực hiện bắt buộc trong phong trào vào năm 1926. Nó được gọi là cách chào của Hitler (Hitlergruß), nó hoạt động như một biểu hiện của sự cam kết trong đảng và như một đặc trưng của phát xít với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, bất chấp nhu cầu thể hiện ra cho thế giới bên ngoài, người dân vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận, ngay cả trong phong trào. Những ý kiến phản đối ban đầu tập trung vào việc nó giống với cách chào của người La Mã mà Phát xít Ý sử dụng, và do đó nó không phải là của người Đức. Nhưng cuối cùng, người Đức cũng dần chấp nhận kiểu chào này.
Việc sử dụng bắt buộc kiểu chào Hitler đối với tất cả nhân viên công chức tuân theo chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Wilhelm Frick vào ngày 13 tháng 7 năm 1933, một ngày trước khi có lệnh cấm đối với tất cả các đảng không thuộc Quốc xã. Lực lượng Wehrmacht từ chối áp dụng cách chào của Hitler và duy trì phong tục của riêng mình trong một khoảng thời gian. Quân đội được yêu cầu chỉ sử dụng cách chào của Hitler khi hát bài Horst Wessel Lied và quốc ca Đức, và trong các cuộc gặp gỡ phi quân sự như chào các thành viên của chính phủ dân sự. Chỉ sau Âm mưu ám sát Hitler thất bại ngày 20 tháng 7 năm 1944, các lực lượng quân sự của Đệ tam Đế chế được lệnh thay thế kiểu chào tiêu chuẩn của quân đội bằng kiểu chào Hitler.
Với việc khối Phát Xít gây ra chiến tranh thế giới thứ 2, và hàng loạt hành động diệt chủng chống lại loài người. Kiểu chào Phát Xít được cho là gắn liền với tư tưởng phân biệt chủng tộc, cực đoan, hiếu chiến. Nhiều người vì bị ám ảnh bởi chế độ Phát Xít mà trở nên ghét kiểu chào này, ở một số quốc gia còn ban hành lệnh cấm thực hiện kiểu chào này. Một số quốc gia chính thức ban lệnh cấm là Đức, Áo, Cộng Hòa Séc, Slovakia. Còn tại Thụy Điển và Thụy Sĩ, kiểu chào này được xem là một sự thù địch bất hợp pháp nếu được vận dụng để tuyên truyền hệ tư tưởng Quốc xã. Còn đối với các vận động viên thể thao thì dù bất cứ quốc tịch nào cũng không nên thực hiện nghi thức chào này, vì họ có thể bị phạt bởi các tòa án thể thao. Trường hợp này đã xảy ra với cầu thủ bóng đá Paolo Di Canio (Ý) và Giorgos Katidis (Hy Lạp) vì họ đã chào kiểu này trên sân bóng.