
Đẹp, đúng không? Những cánh hoa tim tím mỏng tựa tơ lụa mang dáng vẻ mềm mại, bồng bềnh, thanh thoát mà mong manh...
Hoa anh túc.
I. Lịch sử

Một miếng gạch lát có hình hoa anh túc được tìm thấy ở thành phố cổ el-Amarna, Ai Cập cổ đại

Tờ giấy cói này, thường được biết đến trong giới khảo cổ với tên gọi Văn bản Edwin Smith (một nhà Ai Cập học người Mỹ), là một trong những văn bản quan trọng nhất về y học Ai Cập cổ đại. Trên đây có nhắc đến việc sử dụng thuốc phiện và cần sa như các vị thuốc. Ảnh
Ba ngàn năm trước, chính loài hoa này đã lần đầu tiên xuất hiện trong các ghi chép về y khoa và thuốc thời Ai Cập cổ đại. Hoa anh túc cũng đã được thể hiện một cách rộng rãi trong những bức phù điêu hay những đồ trang sức bởi bàn tay những người nghệ nhân Ai Cập xưa.
Phía bên kia biển Địa Trung Hải, người Minoan (những thương nhân cổ đại, những người đã dong buồm vượt ra ngoài Crete tới tận Ai Cập cổ đại, Canaan và Anatolia) có vẻ cũng đã tìm ra cách sử dụng sự "phê pha" từ loài cây này. Theo các bằng chứng từ các nhà khảo cổ, thuốc phiện đã được sử dụng rộng rải ở phía Đông Địa Trung Hải và đảo Crete trong các nghi lễ tôn giáo hoặc các mục đích chữa bệnh ít nhất là từ thế kỷ 5 trước Công nguyên. Hình ảnh những bông hoa anh túc trong nền văn hóa Minoan mang nhiều ý nghĩa - sự phồn vinh, sự trường sinh, khả năng sinh sản và sức mạnh chữa lành vết thương.

Mặt của một chiếc nhẫn vàng từ cố đô Mycenae mô tả một nữ thần đang ngồi cầm những bông hoa thiêng, hoa anh túc trắng, trong khi hai người phụ nữ khác dâng hoa anh túc và hoa loa kèn. Biểu tượng rìu đôi, hoa anh túc và các chi tiết khác xung quanh thể hiện ảnh hưởng đến từ nền văn minh Minoan. Askitopoulou et al., 2002; Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Athens

Tượng Theophrastus ở Vườn bách thảo Palermo, Ý
Tài liệu tham khảo xác thực đầu tiên về nhựa cây anh túc được tìm thấy là của Theophrastus vào đầu thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Đến thế kỷ thứ nhất, cây anh túc và thuốc phiện đã được Dioscorides, Pliny và Celsus biết đến, và sau đó là Galen. Celsus gợi ý sử dụng thuốc phiện trước khi phẫu thuật, và Dioscorides khuyên bệnh nhân nên dùng rễ cây mandrake (chứa các hợp chất tropane alkaloid như scopolamine, hyoscyamine, atropine và mandragorine có tác dụng rất mạnh lên hệ thần kinh trung ương, giúp giảm đau) trộn với rượu trước khi tiến hành cắt bỏ chi của bệnh nhân.

Bìa một ấn bản của cuốn De materia medica xuất bản ở Lyon, Pháp năm 1554
Sau này, nhiều công trình y học quan trọng của Hy Lạp cổ đại, như De materia medica của Dioscorides, đã được dịch sang tiếng Ả Rập và trở thành nền tảng cho sự phát triển của dược lý học Ả Rập. Tiếp nối người Hy Lạp, thuốc phiện theo đó cũng được các thầy thuốc Ả Rập sử dụng rộng rãi; như vào khoảng năm 1000 Công nguyên, Ibn Sina (còn được biết đến với tên gọi Avicenna – nhà bác học, thầy thuốc và triết gia kiệt xuất người Ả Rập) đã khuyên dùng thuốc phiện, đặc biệt trong điều trị tiêu chảy và các bệnh về mắt.
Đúng vậy, các nền văn minh cổ đại này đều chú ý đến một thứ - đó chính là thuốc phiện. Thuốc phiện, là mủ khô thu được từ vỏ mầm của cây anh túc, vừa có công dụng giảm đau lại có thể kích thích sự khoái lạc.

Hai người hút thuốc phiện ở Trung Quốc, khoảng TK XIX.

Friedrich Sertürner.
Xuyên suốt hàng ngàn năm sau, thuốc phiện vẫn được dùng thường xuyên bởi các bác sĩ và những kẻ nghiện hút, nhưng phải cho đến thế kỷ 19, cụ thể là vào năm 1804, vào cùng lúc Napoleon lên chức Hoàng đế nước Pháp, thì một dược sĩ người Đức tên Friedrich Sertürner mới tách thành công morphine ra khỏi thuốc phiện cho mục đích y học.

Cấu trúc phân tử của morphine. Ảnh: Jynto/Wikipedia

Một lọ thuốc giảm đau Hydrocodone/APAP
Các chất như morphine, codeine,... được chiết xuất trực tiếp từ cây anh túc được gọi là các chất ma túy nhóm Opiat. Trong thế kỷ XX, các công ty dược phẩm lớn đã tổng hợp hàng loạt các hợp chất có các đặc tính giống các chất nhóm Opiat, như heroin, hydrocodone, oxycodone và fentanyl. Danh từ chung để chỉ các chất này, dù là tự nhiên hay là tổng hợp, là Opioid.
II. Cuộc khủng hoảng
Tất cả các chất opioid đều có khả năng giảm đau rất tốt, nhưng nguy cơ gây nghiện cũng rất lớn.

Viên uống Percodan.
Vào năm 1950, FDA (Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ) đã chấp thuận oxycodone dưới dạng Percodan® (tên thương hiệu của oxycodone + aspirin). Việc này đã mở đường cho sự lạm dụng rộng rãi oxycodone ở Mỹ từ đầu những năm 60 trở đi.
Đến những năm 80 và 90 của thế kỷ trước, các tập đoàn dược phẩm bắt đầu triển khai các chiến dịch marketing thuốc giảm đau opioid quy mô lớn, và hạ thấp sự nguy hiểm của chúng trong mắt người tiêu dùng và cộng đồng y khoa một cách cố ý. Một ví dụ tiêu biểu là tập đoàn dược phẩm Purdue Pharma, công ty được biết đến với việc sản xuất OxyContin (tên thương mại của hợp chất oxycodone hydrochloride), đã khơi mào bằng cách bắt đầu tích cực tiếp thị OxyContin là một loại thuốc giảm đau ít gây nghiện ngay sau khi loại thuốc này được tung ra thị trường vào năm 1996, và vẫn tiếp tục kể cả khi đã có những báo cáo về những ca lạm dụng OxyContin (những kẻ nghiện ngập nghiền nát các viên OxyContin và hít lấy hít hoặc pha vào nước thứ bột đó để đạt trạng thái "phê" một cách nhanh chóng).

Một lọ OxyContin. Ảnh: PBS/AP Photo/Toby Talbot
Kết quả? Số lượng các đơn thuốc có kê thuốc giảm đau opioid tăng đột biến, kéo theo sự tăng vọt về số lượng người nghiện, tạo ra một cuộc khủng hoảng lớn vẫn còn kéo dài đến ngày hôm nay. Theo thống kê, đến 3 trên 4 người ở Mỹ tử vong do quá liều là vì các loại thuốc giảm đau opioid này.
III. Khoa học của sự nghiện ngập
Tại sao các chất opioid lại gây nghiện đến như vậy? Chúng ta phải trước tiên nhìn vào tác động của chúng tới cơ thể, kể từ viên đầu tiên được chúng ta bỏ vào mồm...
Các chất opioid có cấu trúc hóa học khác nhau, nhưng đều hoạt động dựa trên cùng một nguyên lý: Chúng tự gắn vào các thụ thể opioid trên các tế bào thần kinh ở não, tủy sống, ruột và các bộ phận khác của cơ thể. Endorphin, một loại hormone, ngăn chặn các tín hiệu đau bằng cách gắn mình vào các thụ thể này, ức chế sự giải phóng các chất dẫn truyền thần kinh như GABA hay Chất P.

Opioid ảnh hưởng đến nào như thế nào?
Nhưng các chất opioid lại gắn vào bền hơn, và lâu hơn. Vì vậy, các chất opioid có thể xử lý những cơn đau nặng hơn khi endorphin không còn tác dụng nữa. Các thụ thể opioid cũng ảnh hưởng đến tất cả mọi thứ khác từ cảm xúc của chúng ta, cho đến các chức năng trong cơ thể, nên các chất opioid sẽ có ảnh hưởng sâu và rộng hơn so với endorphin.
Khi một chất opioid gắn vào các thụ thể opioid, nó sẽ kích thích sự giải phóng dopamine, một loại hormone có liên hệ với cảm giác vui sướng và cũng có thể liên quan đến cảm giác hưng phấn cực độ đặc trưng của một cơn phê opioid.

Cấu trúc phân tử của dopamine. Ảnh: Benjah-bmm27/Wikipedia, Cruickshank et al., 2013
Cùng lúc đó, các chất opioid cũng kìm hãm sự giải phóng noradrenaline, vừa là một chất dẫn truyền thần kinh vừa là một hormone có ảnh hưởng đến nhịp tim, sự tỉnh táo, huyết áp, tiêu hóa và hô hấp. Một trong những tác dụng phụ được biết đến của những liều thuốc giảm đau opioid là táo bón. Ở những liều cao hơn, các chất opioid có thể làm giảm nhịp tim và hô hấp xuống mức nguy hiểm, gây ra bất tỉnh và thậm chí cả tử vong.
Vì vậy, theo thời gian cơ thể sẽ phát triển khả năng chịu đựng opioid - bằng cách làm giảm số thụ thể opioid hoặc khiến cho các thụ thể opioid trở nên "trơ" hơn. Để đạt được cảm giác sung sướng với cùng mức độ như trước đây, một người sẽ phải dùng những liều lớn dần - một vòng lặp dẫn đến sự lệ thuộc và nghiện ngập. Nhưng tác động lên cơ thể của những chất này thì không giảm tí nào cả - nên nồng độ adrenaline và noradrenaline sẽ ngày càng ít hơn, cuối cùng là ảnh hưởng đến cả những hoạt động cơ bản của cơ thể. Để bù đắp, cơ thể tăng số lượng thụ thể noradrenaline để có thể phát hiện những lượng noradrenaline nhỏ hơn, giúp cơ thể hoạt động bình thường - đến mức, hệ thống này còn phụ thuộc vào opioid để duy trì sự cân bằng mới.
Khi một người nào đó đang bị lệ thuộc vào opioid ngừng sử dụng mai thúy một cách đột ngột, sự cân bằng mong manh đó bị phá vỡ. Cơ thể không kịp loại bỏ bớt các thụ thể noradrenaline dư thừa, trong khi hàm lượng noradrenaline nhanh chóng tăng lên với việc các rào cản đã bị dỡ bỏ, gây nên sự mẫn cảm quá mức với noradrenaline. Chính sự mẫn cảm quá mức với noradrenaline này là nguyên nhân chính cho các triệu chứng cai nghiện điển hình: Buồn nôn, đổ mồ hôi, ớn lạnh, tiêu chảy, đau bụng và nhức cơ.

2 miligram thôi - liều gây tử vong của fentanyl với hầu hết mọi người. Ảnh: Wikipedia/DEA
Dù không hẳn là tính mạng của người mới cai nghiện sẽ bị ảnh hưởng, họ sẽ có thể bị bệnh nặng từ vài ngày, cho đến vài tuần. Bây giờ, họ không dùng mai túy để phê nữa, họ dùng để kết thúc ngay sự khó chịu đó. Sau này, khi họ tiếp tục sử dụng ma túy lại, khả năng tử vong do quá liều là rất lớn, vì một liều tương tự với cơ thể sẽ là "thông thường" lúc ngưỡng chịu đựng còn cao nhưng lại là rất lớn với một cơ thể bình thường. Khi bị quá liều, khả năng thở của nạn nhân sẽ giảm sâu đến mức gây thiếu oxy trong máu, cuối cùng là dẫn đến hôn mê và tử vong. Nạn nhân cũng có thể chết do đột quỵ hay trụy tim nếu họ dùng các chất kích thích làm tăng nhịp tim, huyết áp và hô hấp như ecstasy (tiếng lóng của hợp chất MDMA), speed (tiếng lóng của amphetamine) hay cocaine.
IV. Kết luận

Tiêu thụ các chất opioid trên toàn thế giới, từ 1980 đến 2014. Ảnh
Kể từ những năm 1980, số người tử vong do quá liều opioid ở Mỹ đã tăng trưởng theo cấp số nhân, ít nhất là gấp bảy lần. Số người nghiện các chất opioid trên thế giới cũng bùng nổ. Trong khi việc kê đơn các loại thuốc giảm đau opioid đang được giám sát chặt chẽ hơn, các trường hợp quá liều và nghiện vẫn gia tăng, đặc biệt là ở người trẻ.

Một lọ Naloxone Hydrochloride dạng tiêm.
Nghiện ma túy hiếm khi là một căn bệnh đơn lẻ; thường thì những người bị nghiện các chất opioid cũng đang phải vật lộn với tình trạng sức khỏe tâm lý của họ. Người nghiện ma túy sẽ được cai nghiện tại cơ sở điều trị cai nghiện của Nhà nước để có đủ phương tiện giúp họ nhanh chóng cắt cơn nghiện. Đây là giai đoạn khó khăn đối với người nghiện vì sẽ mang lại những đau đớn về tinh thần và thể xác vì "đói thuốc".
Có một phương pháp là sử dụng chất đối kháng ma túy như naloxone hay noltrexone - chúng hoạt động bằng cách tranh thụ thể opioid với các opioid khác và đánh bật những opioid khác ra trong một thời gian ngắn (do các chất đối kháng ma túy có khả năng liên kết với các thụ thể opioid thậm chí còn lớn hơn), cùng với đó là tự gắn mình vào các thụ thể nhưng không kích hoạt chúng, "chiếm chỗ" của các chất ma túy khác.

Methadone dạng siro
Một phương pháp khác là dùng liệu pháp thay thế, thay việc sử dụng các chất ma túy bằng methadone hoặc buprenorphine. Cả hai đều là những chất opioid tổng hợp. Methadone hoạt động bằng cách làm giảm các triệu chứng đau đớn của việc cai nghiện và ngăn chặn các tác dụng hưng phấn của ma túy. Buprenorphine được sử dụng đúng liều trong các cơ sở cai nghiện cũng có tác dụng tương tự, giúp giảm nhẹ các triệu chứng cai nghiện và đói thuốc trong khi không khiến nạn nhân lên cơn phê hay buồn ngủ...

Khoa học - Công nghệ
/khoa-hoc-cong-nghe
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất




