<i>Minh họa bởi Tom Dunne, báo American Scientist</i>
Minh họa bởi Tom Dunne, báo American Scientist
Khi nhắc đến khái niệm “khoa học”, nhiều người thường hình dung ra những công thức rối rắm, các phòng thí nghiệm hiện đại với ống nghiệm và máy móc, hay hình ảnh các giáo sư đang mải mê nghiên cứu trong một thế giới dường như rất xa rời cuộc sống hàng ngày. Nhưng thật ra, khoa học không phải là thứ gì quá xa vời. Nó tồn tại trong từng hơi thở của cuộc sống, từ cách chúng ta sinh hoạt, đi lại, cho đến cách thế giới vận hành. Ở bản chất sâu xa, khoa học là một phương pháp để con người tìm hiểu và lý giải thế giới xung quanh. Đó là quá trình liên tục đặt câu hỏi, quan sát, thử nghiệm và rút ra kết luận dựa trên bằng chứng. Nhờ khoa học, chúng ta có thể tạo ra vắc-xin để chống lại dịch bệnh, phát triển công nghệ để kết nối với nhau, hay đưa tàu vũ trụ lên sao Hỏa. Mỗi thành tựu của con người đều gắn liền với một hành trình nghiên cứu khoa học lâu dài và kiên trì.
Khoa học không nên là đặc quyền của một nhóm nhỏ trong xã hội. Mỗi người, dù là sinh viên, người lao động, giáo viên hay nông dân, đều có quyền được tiếp cận với tri thức khoa học, được tìm hiểu và sử dụng nó như một công cụ để cải thiện cuộc sống. Khi khoa học trở nên dễ tiếp cận hơn, xã hội sẽ có thêm nhiều người hiểu biết hơn, tư duy phản biện hơn, và sẵn sàng tham gia vào việc giải quyết những vấn đề chung như biến đổi khí hậu, y tế cộng đồng hay giáo dục. Bên cạnh đó, việc phổ cập khoa học còn góp phần thu hẹp khoảng cách tri thức giữa các tầng lớp, giữa những người có điều kiện và những người không có nhiều cơ hội học tập. Nó giúp kiến thức không bị đóng khung trong các thư viện học thuật hay đằng sau những cánh cửa của các viện nghiên cứu, mà được lan tỏa rộng rãi và bình đẳng hơn trong cộng đồng.
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền – The United Nations Universal Declaration of Human Rights (1948), tại điều 27 đã nêu rõ:
Everyone has the right…to share in scientific advancements and its benefits.
Hoặc theo Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013:
Điều 40. Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó.
Tiến sĩ Mahadeo Sukhai – nhà di truyền học mù bẩm sinh đầu tiên trên thế giới – cũng nhấn mạnh rằng quyền được tham gia và thụ hưởng từ khoa học phải được công nhận như một quyền con người [1]. Như vậy, quyền tiếp cận tri thức khoa học không chỉ là một tiện ích hay đặc ân dành cho giới nghiên cứu, mà là một quyền con người cơ bản. Nó gắn liền với phẩm giá con người, khả năng tự ra quyết định, và quyền được hiểu thế giới mình đang sống bất kể xuất thân, thu nhập, hay vị trí địa lý.

Well, đó là trên lí thuyết, còn sau đây là thực tế:

Khi người đọc gặp rào cản ngay từ bước đầu tiên
Muốn bắt đầu một nghiên cứu nghiêm túc, bạn chắc chắn phải đọc rất nhiều tài liệu để nắm tổng quan chủ đề, hiểu những gì đã được làm, và từ đó tìm ra “khoảng trống” (research gap) để nghiên cứu tiếp. Thế nhưng, việc tiếp cận các tài liệu này không hề đơn giản. Những bài báo học thuật chất lượng thường được phát hành bởi các nhà xuất bản lớn, với giá vài chục đô cho một bài lẻ hoặc vài trăm đô cho một số (issue) tạp chí. Với sinh viên, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển, đây là một chi phí quá đắt đỏ.
Tất nhiên, có những công cụ “không chính thống” như Sci-Hub giúp bạn truy cập miễn phí, nhưng không phải bài nào cũng có, và Sci-Hub hiện chỉ cập nhật đến khoảng năm 2022. Trong khi đó, nếu bạn muốn nghiên cứu cập nhật xu hướng thì việc trích dẫn tài liệu mới là điều bắt buộc. Nhóm tôi từng bị editor yêu cầu bổ sung tài liệu từ năm 2025 cho một bài nộp lên tạp chí thuộc Elsevier thì mới được vào vòng bình duyệt. Điều này là hoàn toàn hợp lý, đặc biệt là khi bài nghiên cứu đó có liên quan đến lĩnh vực công nghệ, vốn thay đổi theo từng ngày, thậm chí từng giờ.
Vậy nên, nếu bạn không học ở những trường có liên kết với các nhà xuất bản học thuật lớn như RMIT hay một số trường quốc tế khác, thì ngay cả bước đầu tiên và cơ bản nhất để tiếp cận các nghiên cứu thôi cũng đã là một thử thách lớn.
<i>Phí phải trả để xem một bài nghiên cứu thuộc tạp chí Games and Culture, NXB Sage...</i>
Phí phải trả để xem một bài nghiên cứu thuộc tạp chí Games and Culture, NXB Sage...
<i>...trừ khi bạn học trường quốc tế.</i>
...trừ khi bạn học trường quốc tế.
 Researcher cũng phải vật lộn để bài báo của mình được nhiều người tiếp cận
Giả sử bạn đã viết xong một bài nghiên cứu và được tạp chí chấp nhận, bạn sẽ đứng trước hai lựa chọn:
1. Đăng dưới dạng subscription: người đọc phải trả tiền để xem, còn bạn không phải trả gì.
2. Đăng open access: người đọc được xem miễn phí, nhưng ngược lại, bạn phải trả phí.
Trong một số trường hợp, nếu trường bạn có ký kết với nhà xuất bản nào đó, bạn có thể được hỗ trợ chi phí đăng Open Access, nhưng điều kiện là phải có giáo viên hướng dẫn chính thức từ trường cùng đứng tên. Và đây lại là một câu chuyện khác. Hiện nay, các đại học ở Việt Nam đang đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu để nâng cao thứ hạng, dẫn đến việc rất nhiều cuộc thi nghiên cứu được tổ chức. Kết quả là giảng viên gần như bị “bội thực” đề tài, phải hướng dẫn hàng chục nhóm sinh viên một lúc. Tôi không đánh đồng tất cả thầy cô vì có nhiều thầy cô có tâm và có tầm, nhưng việc một số người ghost sinh viên, bỏ bê, không phản hồi tin nhắn không phải là chuyện hiếm. Một số nhóm nghiên cứu mà tôi tham gia đã nhiều lần rơi vào tình trạng như vậy, cuối cùng phải tự bơi từ A đến Z. Thế nhưng khi nộp bài vẫn phải điền tên giáo viên làm người hướng dẫn, vì đó là thủ tục bắt buộc.
Điều gì đang ngăn cản chúng ta tiếp cận khoa học?
Một trong những lý do cốt lõi khiến khoa học ngày nay vẫn chưa thực sự “mở” là bởi mô hình kinh doanh khép kín và sinh lợi rất cao của các nhà xuất bản học thuật lớn như Elsevier, Springer Nature, Wiley hay Taylor & Francis. Những nhà xuất bản này kiểm soát phần lớn các tạp chí khoa học uy tín nhất thế giới trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ nổi bật nhất là Elsevier với có mức lợi nhuận hoạt động (operating profit margin) thường xuyên ở mức 30 đến 40%, ngang hoặc hơn cả những công ty công nghệ hàng đầu như Apple hay Google. Năm 2024, nhánh khoa học, kỹ thuật và y học của RELX (công ty mẹ của Elsevier), bao gồm hoạt động xuất bản học thuật, đạt lợi nhuận hoạt động 1,17 tỷ bảng Anh với biên lợi nhuận 38,4%, nhờ doanh thu 3,05 tỷ bảng. Phần lớn số tiền này đến từ mô hình xuất bản thu phí người đăng bài [2].
<i>Elsevier và Springer-Nature có biên lợi nhuận năm 2023 sánh ngang với các công ty công nghệ lớn</i>
Elsevier và Springer-Nature có biên lợi nhuận năm 2023 sánh ngang với các công ty công nghệ lớn
Cách hoạt động của các nhà xuất bản học thuật này như sau: Trước tiên, các nhà nghiên cứu nộp bài viết miễn phí cho các tạp chí thuộc sở hữu của các nhà xuất bản. Sau đó, bài viết được gửi đến các chuyên gia trong ngành để phản biện và đánh giá chất lượng thông qua quy trình đánh giá ngang hàng (peer review). Điều đáng nói là toàn bộ quá trình này cũng diễn ra hoàn toàn không thù lao: cả người viết lẫn người phản biện đều làm việc miễn phí với tinh thần tự nguyện. Nhiều người cho rằng những công việc đòi hỏi nhiều chất xám, thời gian và trách nhiệm như vậy đáng lẽ ra phải được trả công xứng đáng, nhưng cuối cùng thì toàn bộ chuỗi giá trị ấy lại được xây dựng chủ yếu trên nền tảng lao động trí tuệ không công từ giới học thuật.
Sau khi bài viết được chấp nhận, nếu tác giả không đủ khả năng chi trả phí xử lý bài báo (Article Processing Charges – APC), nhà xuất bản sẽ đưa bài viết vào hệ thống thu phí (subscription-based model) và giữ bản quyền bài viết. Người đọc, nếu không có tài khoản cá nhân hoặc không được cấp quyền truy cập thông qua thư viện của các trường đại học lớn, sẽ phải trả một khoản phí đáng kể để tiếp cận bài viết. Trong khi đó, nhiều nghiên cứu lại được tài trợ bởi ngân sách nhà nước, tức là bằng tiền thuế của người dân. Như vậy, công chúng bỏ tiền ra để nghiên cứu được thực hiện, nhưng khi muốn đọc kết quả nghiên cứu thì lại phải mua lại chính kiến thức đó từ các nhà xuất bản. Ngược lại, với những ai muốn bài viết của mình mở cho tất cả mọi người cùng đọc (đăng theo hình thức Open Access), thì cái giá phải trả lại quá đắt – thường dao động từ 1.500 đến 4.000 USD cho một bài báo. Đây là mức phí mà nhiều nhà nghiên cứu độc lập hoặc sinh viên, giảng viên từ các nước đang phát triển hoàn toàn không thể chi trả.
Một số tạp chí truy cập mở (OA) cho phép đăng bài miễn phí hoặc thu phí thấp, nhưng đa số có quy mô nhỏ, chỉ số ảnh hưởng còn thấp nên thường bị đặt nghi vấn về độ uy tín và chất lượng. Trong khi đó, các nhà xuất bản lớn chủ yếu tập trung vào tạp chí không truy cập mở (non-OA). Chẳng hạn, trong hình dưới đây, số lượng và tỷ lệ tạp chí OA và non-OA thuộc lĩnh vực Năng lượng trên Scopus chênh lệch rõ rệt giữa 9 nhà xuất bản hàng đầu. Điều này cho thấy các nhà xuất bản thường ưu tiên tạp chí non-OA, dù xu hướng này có thể khác nhau ở các lĩnh vực khoa học còn lại [3].
=> Dễ thấy một nghịch lí trong mô hình kinh doanh của các nhà xuất bản lớn: nghiên cứu thường được viết, biên tập và phản biện miễn phí bởi chính các nhà khoa học, nhưng họ lại phải trả tiền để xuất bản, và người đọc thì phải trả phí để truy cập. Như vậy, trong khi bản thân nhà xuất bản không trực tiếp tạo ra nội dung, họ lại thu lợi nhuận khổng lồ nhờ việc kiểm soát và khai thác hệ thống phân phối tri thức.
Công bố hay là chết
Không chỉ dừng lại ở đó, các nhà xuất bản còn tận dụng hệ thống xếp hạng tạp chí là chỉ số ảnh hưởng (Impact Factor – IF) hoặc hệ số tác động (CiteScore), dùng để đo lường tần suất các bài báo trong tạp chí được trích dẫn. Những tạp chí có chỉ số ảnh hưởng cao thường được xem là uy tín và chất lượng, khiến trong một số trường hợp, nhiều nhà nghiên cứu buộc phải nộp bài vào đó nếu muốn được xét thăng chức, xin tài trợ hoặc nâng cao vị thế học thuật. Nhờ đó, các nhà xuất bản lớn càng thu hút được nhiều bài gửi đến, càng củng cố thêm danh tiếng, và càng có lý do để giữ lại bản quyền cũng như bán quyền truy cập với mức giá cao.
<i>Sự khác biệt trong cách tính giữa CiteScore và Impact Factor</i>
Sự khác biệt trong cách tính giữa CiteScore và Impact Factor
Điều này kéo theo hàng loạt hệ lụy khác, trước hết là vấn nạn “publish or perish” và những bê bối đạo đức học thuật. Hệ thống đánh giá hiện nay quá phụ thuộc vào chỉ số ảnh hưởng và số lượng bài đăng trên các tạp chí danh tiếng, khiến các nhà nghiên cứu không còn được đánh giá dựa trên chất lượng nghiên cứu hay đóng góp thực tiễn mà dựa vào việc họ có bài trên tạp chí IF cao hay không. Điều này dẫn đến tình trạng biến chất của hoạt động khoa học: thay vì theo đuổi những câu hỏi nghiên cứu có giá trị hoặc giải quyết vấn đề thực tiễn, nhiều người buộc phải tập trung vào việc “sản xuất” bài viết để phục vụ mục tiêu cá nhân như xét tuyển, lên chức hay duy trì vị trí học thuật. Một nghiên cứu cho thấy nhiều công trình học thuật hiện nay được thực hiện không phải bởi sự tò mò hay mong muốn đóng góp cho tri thức mà là để đáp ứng tiêu chí thăng tiến trong công việc [4]. Để đạt được mục tiêu này, nhiều người tìm cách lách luật bằng cách tái sử dụng dữ liệu, chia nhỏ nghiên cứu (salami slicing), hay vi phạm đạo đức trong nghiên cứu bằng cách gian lận, đạo văn. Số lượng bài nộp quá lớn đổ dồn vào các nhà xuất bản danh tiếng cũng khiến hệ thống dễ rơi vào tình trạng quá tải. Trong bối cảnh đó, nhiều tạp chí bắt đầu sử dụng AI để hỗ trợ, thậm chí thay thế một phần quy trình phản biện, làm dấy lên lo ngại về độ chính xác cũng như các chuẩn mực đạo đức trong đánh giá học thuật. Bạn có thể tự tìm đọc những bê bối học thuật xuất hiện dày đặc trong nhóm Liêm Chính Khoa Học trên Facebook: từ trường hợp một Ủy viên Hội đồng Giáo sư ngành Tâm lý học bị phát hiện khai man lý lịch khoa học và đăng bài trên các tạp chí săn mồi, đến nghi vấn bài báo có dấu vết tẩy xóa, làm giả dữ liệu nhưng vẫn được đăng trên tạp chí lớn.
Áp lực “publish or perish” còn buộc nhà nghiên cứu phải công bố bằng mọi giá, thậm chí chấp nhận các kênh công bố không minh bạch. Từ nhu cầu đó, các “predatory journals”, hay còn gọi là tạp chí săn mồi, mọc lên, tận dụng chính hệ thống này để trục lợi. Đây là những tạp chí mạo danh học thuật, sẵn sàng đăng bài với bất kỳ nội dung nào miễn là tác giả trả tiền, không có quy trình phản biện thực sự, không hội đồng biên tập đáng tin cậy và thường xuyên giả mạo chỉ số ảnh hưởng. Trong môi trường học thuật bị ám ảnh bởi số lượng công bố, những tạp chí săn mồi mọc lên như nấm và nhanh chóng trở thành nơi đăng bài lý tưởng cho những ai muốn tăng thành tích, đẹp hồ sơ mà không quan tâm đến chất lượng khoa học. Đồng thời, chúng cũng nhắm vào những nhà nghiên cứu thiếu kinh nghiệm, hạn chế tiếng Anh hoặc làm việc trong môi trường thiếu chuẩn kiểm định học thuật. Chúng len lỏi khắp nơi, thậm chí xuất hiện trong cơ sở dữ liệu học thuật lớn như Scopus [5]. Ngay cả những kho lưu trữ uy tín như PubMed Central (PMC), thuộc Thư viện Y học Quốc gia Hoa Kỳ, cũng bị ảnh hưởng. Lợi dụng việc đáp ứng yêu cầu của đơn vị tài trợ, nhiều tác giả tự đăng bài lên PMC dù thuộc tạp chí không đạt chuẩn học thuật. Điều này khiến những nghiên cứu kém chất lượng vẫn xuất hiện trên PubMed, làm sai lệch nhận thức và gây lãng phí ngân sách công. Tính đến ngày 31/5/2020, OMICS là nhà xuất bản săn mồi lớn nhất trong PMC, với 1.891 bài từ 234 tạp chí, và tổng phí xuất bản các tổ chức đã chi để đăng các bài này ước tính lên đến 3,17 triệu USD [6].
Tóm lại, tất cả những điều này tạo nên một hệ sinh thái mà trong đó kiến thức công trở thành một loại hàng hóa cao cấp bị rào lại trong những “bức tường phí” – paywall of knowledge. Nó khiến khoa học, vốn nên là tài sản chung của nhân loại, trở thành đặc quyền của những người có khả năng tài chính và vị thế học thuật. Trong khi đó, chính những người có thể được hưởng lợi nhiều nhất từ khoa học như sinh viên, giáo viên ở vùng sâu vùng xa, nhà nghiên cứu trẻ, lại là những người bị loại ra khỏi cuộc chơi tri thức. Như vậy, thay vì phục vụ công chúng, khoa học trở thành công cụ lợi nhuận cho một số ít cá nhân và tổ chức trung gian. Hệ quả là người dân ngày càng hoài nghi về tính minh bạch của hệ thống học thuật, dẫn đến sự suy giảm lòng tin vào khoa học, tạo điều kiện cho thông tin sai lệch và thuyết âm mưu lan rộng.
Liệu có thể xây dựng một hệ sinh thái tri thức công bằng hơn, phi tập trung hơn không?
Giải pháp 1: Chuyển đổi sang mô hình truy cập mở
Giải pháp này không phải là dễ vì nó đòi hỏi phải thay đổi cả một nền xuất bản học thuật mang tính thương mại đã tồn tại hàng thập kỷ. Nhưng điều đó không có nghĩa là không thể. Phần lớn cuộc tranh luận xoay quanh việc lựa chọn giữa tạp chí truy cập mở và không truy cập mở tập trung vào khía cạnh kinh tế [7]. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy một hệ sinh thái học thuật truy cập mở, công bằng và bền vững hơn là hoàn toàn khả thi về mặt kinh tế.
Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng chi phí thực sự để xuất bản một bài báo khoa học trên các nền tảng truy cập mở có thể thấp hơn rất nhiều so với chi phí hiện nay mà các tạp chí thương mại đang tính [8]. Một số nhà xuất bản như Hindawi hay Ubiquity Press chỉ tiêu tốn khoảng 300 USD cho mỗi bài báo, trong khi những tên tuổi lớn như Elsevier có thể thu tới hàng nghìn USD mỗi bài. Không ít tạp chí truy cập mở hoạt động hiệu quả nhờ sự tài trợ từ các trường đại học, quỹ nghiên cứu hoặc tổ chức phi lợi nhuận, nên họ không cần tính phí quá cao. Ngoài ra, nhiều nền tảng như PLOS ONE hay PeerJ đã chứng minh rằng việc tiết giảm những công đoạn tốn kém như hiệu đính, in ấn hay phân phối không hề làm giảm chất lượng học thuật.
<i>Credit: J. WEST, C.BERGSTROM, T. BERGSTROM, T. ANDREW/JOURNAL CITATION REPORTS, THOMSON REUTERS</i>
Credit: J. WEST, C.BERGSTROM, T. BERGSTROM, T. ANDREW/JOURNAL CITATION REPORTS, THOMSON REUTERS
Biểu đồ trái cho thấy nhiều tạp chí truy cập mở có ảnh hưởng cao nhưng chi phí thấp hơn so với các tạp chí kết hợp (hybrid). Biểu đồ phải phân tích chi tiết chi phí, cho thấy xuất bản truy cập mở online tiết kiệm hơn khoảng 50% so với hình thức in ấn truyền thống, chủ yếu nhờ giảm chi phí in, phân phối và quản lý bán hàng.
Một cách khác để giảm chi phí mà bài nghiên cứu trên nhắc đến là sử dụng mô hình tiền in (preprint), vốn đã được phổ biến trong các ngành như vật lý và toán học thông qua hệ thống arXiv, với chi phí cho mỗi bài đăng chỉ khoảng 10 USD. Thậm chí, một số sáng kiến như Episciences đang tìm cách xây dựng hệ sinh thái nơi cộng đồng tự đảm nhiệm quy trình phản biện, tách rời hoàn toàn khỏi các nhà xuất bản thương mại. Tất nhiên, các mô hình này không thể áp dụng ngay cho mọi lĩnh vực. Ví dụ, ngành y sinh cần kiểm duyệt kỹ hơn do ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Nhưng với sự hỗ trợ của các quỹ nghiên cứu, thư viện, và chính sách khuyến khích từ các chính phủ, mô hình truy cập mở đang dần mở rộng.
Do đó, để mô hình truy cập mở thực sự trở thành xu thế chủ đạo, cần có sự thay đổi trong tư duy chi trả, nâng cao nhận thức của tác giả, và minh bạch hóa chi phí xuất bản. Chỉ khi đó, tri thức học thuật mới có thể được lan tỏa rộng rãi hơn, thay vì bị giam giữ sau những bức tường thu phí đắt đỏ.
Giải pháp 2: Ban hành chính sách thúc đẩy tri thức công
Để khoa học thực sự phục vụ lợi ích của toàn xã hội, các chính phủ cần xây dựng và thực thi những chính sách hỗ trợ mạnh mẽ cho tri thức công. Điều này có nghĩa là những kết quả nghiên cứu, dữ liệu và công nghệ có thể được chia sẻ, truy cập và sử dụng rộng rãi mà không bị rào cản về chi phí hay bản quyền.
Một ví dụ điển hình là chính sách của Liên minh châu Âu (EU) thông qua chương trình Horizon Europe – quỹ nghiên cứu lớn nhất thế giới với ngân sách hơn 93.5 tỷ euro cho giai đoạn 2021-2027 và 175 tỷ euro cho giai đoạn 2028-2034. Theo đó, tất cả các công trình nghiên cứu nhận tài trợ công từ EU bắt buộc phải được công bố dưới hình thức truy cập mở và kèm theo dữ liệu có thể tái sử dụng. Điều này không chỉ đảm bảo sự minh bạch mà còn giúp các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp nhỏ, giáo viên hay tổ chức phi chính phủ có thể tiếp cận và ứng dụng những thành tựu khoa học vào thực tiễn một cách dễ dàng hơn.
Tại Việt Nam, trong Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia đến năm 2030, Chính phủ cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường chia sẻ, sử dụng hiệu quả dữ liệu nghiên cứu khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Mặc dù còn nhiều thách thức về cơ sở hạ tầng và năng lực thực thi, đây là một tín hiệu tích cực cho thấy cam kết của nhà nước trong việc thúc đẩy quyền tiếp cận tri thức khoa học như một phần của quyền con người.
Việc thiết lập các kho dữ liệu mở quốc gia, yêu cầu công bố kết quả nghiên cứu công bằng hình thức truy cập mở, hay khuyến khích chia sẻ bản quyền công nghệ trong khủng hoảng như đại dịch COVID-19 là những bước cụ thể mà các quốc gia có thể thực hiện để bảo đảm rằng người dân được hưởng lợi một cách chính đáng từ khoa học.
Giải pháp 3: Ứng dụng công nghệ để phi tập trung hóa hệ sinh thái học thuật
Một hệ sinh thái tri thức phi tập trung (Decentralized Knowledge) là một mô hình mà trong đó dữ liệu, thông tin và tri thức không bị kiểm soát bởi một trung tâm hay quyền lực độc tôn. Thay vào đó, chúng được phân bổ, xác minh và quản lý bởi cộng đồng thông qua các giao thức minh bạch. Nhờ vào công nghệ blockchain, lưu trữ phân tán và các giao thức đồng thuận, hệ thống này có thể đảm bảo tính xác thực, minh bạch, tin cậy và ngăn chặn sự độc quyền tri thức. Đồng thời, mọi thành viên trong hệ sinh thái đều có quyền bình đẳng trong việc truy cập, đóng góp và thụ hưởng tri thức. Một nghiên cứu đã kết luận rằng cách tiếp cận phi tập trung đối với tri thức là cần thiết để Web có thể phát huy hết tiềm năng của mình như một dự án thúc đẩy quyền tự chủ của con người [9].
Dựa trên cơ sở đó, mô hình DeSci (Decentralized Science) và các nền tảng nghiên cứu mở đang chuyển đổi mạnh mẽ cách tri thức được tạo ra, chia sẻ và sử dụng, mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho cộng đồng nghiên cứu. Trước hết, nó giúp mở quyền truy cập tri thức, cho phép bất kỳ ai cũng có thể đọc và đóng góp cho nghiên cứu mà không bị giới hạn bởi các tạp chí trả phí. Mô hình tài trợ minh bạch giúp phân phối nguồn lực công bằng hơn, giảm sự phụ thuộc vào các tổ chức lớn. Dữ liệu và kết quả nghiên cứu được chia sẻ công khai, khuyến khích việc tái lập và phản biện và những hoạt động này có thể được thưởng bằng token. Công nghệ blockchain còn giúp ghi nhận chính xác đóng góp của từng cá nhân trong quá trình nghiên cứu, đồng thời cho phép nhà khoa học giữ quyền sở hữu trí tuệ thông qua IP-NFT (intellectual property non-fungible tokens) và hưởng lợi tài chính từ công trình của mình. DeSci cũng mở rộng khả năng hợp tác toàn cầu và thúc đẩy đổi mới trong các lĩnh vực như y học, nhờ các dự án cộng đồng như VitaDAO.
Tuy nhiên, nhiều thách thức vẫn còn tồn tại. Quản trị cộng đồng phi tập trung vốn phức tạp và dễ nảy sinh xung đột lợi ích. Sự chênh lệch về năng lực công nghệ giữa các nhóm nghiên cứu có thể gây mất cân bằng. Ngoài ra, còn có lo ngại về bảo mật dữ liệu, quyền riêng tư, khả năng kiểm soát chất lượng nội dung và chi phí hạ tầng cao. Nhiều dự án DeSci hiện nay vẫn chưa thật sự phi tập trung về mặt quản trị (DAO), còn dựa nhiều vào nguồn lực truyền thống, và vẫn chưa rõ liệu các tổ chức học thuật sẽ áp dụng mô hình DAO hay lựa chọn một cấu trúc tổ chức khác trong tương lai [10].
Để hiện thực hóa mô hình này, các chính phủ, trường đại học và cộng đồng khoa học có thể cùng thúc đẩy các sáng kiến như: phát triển phần mềm mã nguồn mở, chia sẻ dữ liệu mở, xây dựng các nền tảng trao đổi tri thức ngang hàng, tổ chức các cuộc thi hackathon cộng đồng tổ chức các cuộc thi hackathon cộng đồng, và tài trợ cho các dự án nghiên cứu ứng dụng công nghệ blockchain vào học thuật. Ngoài ra, việc thiết lập các cơ chế đánh giá chất lượng phù hợp trong môi trường phi tập trung nhằm đảm bảo tính học thuật và uy tín mà không đánh mất tính cởi mở cũng là một bước đi thiết thực. Những nỗ lực này sẽ góp phần dân chủ hóa hoạt động xuất bản và minh bạch hóa quy trình đánh giá trong nghiên cứu khoa học.

Kết luận

Những vấn đề nêu trên cho thấy rằng khoa học vẫn chưa mở như kỳ vọng, và việc mọi người đều có thể tiếp cận tri thức vẫn chỉ là một lý tưởng xa vời nếu không có sự thay đổi căn bản trong cấu trúc của ngành xuất bản học thuật. Muốn khoa học thực sự mở để phục vụ cộng đồng, cần những mô hình xuất bản mở, các chính sách thúc đẩy tri thức công và một hệ sinh thái học thuật phi tập trung dựa trên nền tảng công nghệ vững chắc. Chính bản thân chúng ta cũng cần tự ý thức để đề cao chất lượng và đạo đức thay vì chỉ chạy theo thành tích khi tham gia nghiên cứu khoa học. Cuối cùng, câu hỏi đặt ra không phải là liệu khoa học có nên được tiếp cận tự do hay không, mà là làm thế nào để điều đó trở thành hiện thực.
Tài liệu tham khảo
[1] Sukhai, M. (2024). Making science accessible is a matter of human rights: A scientist’s call for inclusion. International Science Council. https://council.science/blog/making-science-accessible-is-a-matter-of-human-rights-a-scientists-call-for-inclusion/
[2] Nicholson, C. (2025). Elsevier parent company reports 10% rise in profit, to £3.2bn. Research Professional News. https://www.researchprofessionalnews.com/rr-news-world-2025-2-elsevier-parent-company-reports-10-rise-in-profit-to-3-2bn/
[3] Hidalgo, D. B., Bravo, M. V. C., & Iturralde, W. M. P. (2023). Comparative study of Open Access and Non-Open Access journals in subject area Energy. OALib, 10(07), 1–11. https://doi.org/10.4236/oalib.1110426
[4] Taşkın, Z. (2025). The race to publish, publication pressures, and questionable practices: Rethinking the system. Information Matters. https://informationmatters.org/2025/07/the-race-to-publish-publication-pressures-and-questionable-practices-rethinking-the-system/
[5] Chawla, D. S. (2021). Hundreds of ‘predatory’ journals indexed on leading scholarly database. Nature. https://doi.org/10.1038/d41586-021-00239-0
[6] Manca, A., Cugusi, L., Cortegiani, A., Ingoglia, G., Moher, D., & Deriu, F. (2020). Predatory journals enter biomedical databases through public funding. BMJ, m4265. https://doi.org/10.1136/bmj.m4265 [7] Wilbanks, J. (2006). Another reason for opening access to research. BMJ, 333(7582), 1306–1308. https://doi.org/10.1136/sbmj.39063.730660.f7
[8] Van Noorden, R. (2013). Open access: The true cost of science publishing. Nature, 495(7442), 426–429. https://doi.org/10.1038/495426a
[9] Halpin, H., & Monnin, A. (2016). The decentralization of knowledge: How Carnap and Heidegger influenced the Web. First Monday. https://doi.org/10.5210/fm.v21i12.7109
[10] Díaz, F., Menchaca, C., & Weidener, L. (2025). Exploring the decentralized science ecosystem: insights on organizational structures, technologies, and funding. Frontiers in Blockchain, 8. https://doi.org/10.3389/fbloc.2025.1524222