The Black Death - Cái Chết D·
The Black Death - Cái Chết D·
Tháng 10 năm 1347, người dân vùng Sicily gặp một cảnh tượng lạ ở bến cảng. 12 con tàu vô danh từ biển đen đã tới và cập bến. Không ai biết họ đến vì mục đích gì và khi liên lạc cũng không thấy thủy thủ trả lời, người dân khu vực đã tụ họp lại để tìm hiểu. Cảnh tượng sau đó đã khiến họ không bao giờ quên được…đây là một đoàn tàu ma. 
Hầu như mọi thủy thủ đều đã chết, những người còn sống đều đang ngắm thần chết đứng trước mặt, thân thể của họ phủ kín những vết bầm, vết sưng và vết loét đầy máu và mủ. 
Chính quyền địa phương sau đó đã đẩy những con tàu này trở lại biển. Nhưng mọi thứ đã quá muộn. Mà thực ra, mọi thứ đã bắt đầu trước cả khi con tàu cập bến. 
Như nhiều lời đồn đoán thời bấy giờ đã phán, sự trừng phạt của Chúa đã bắt đầu.

Pestilence - Bệnh dịch

Kể từ khi quân La Mã vẫn còn đang đóng đô ở khắp nơi trên thế giới, những thi thể có vết loang màu đen cùng sự thối rữa đã bắt đầu trỗi dậy. Không ai biết nó từ đâu tới và cũng không ai biết phải xử lý nó như thế nào. Những gì họ biết là ai mắc phải đều sẽ chết. 
Với độ bành trướng của đế chế Tây La Mã, những thương lái đưa thuyền đi khắp nơi và cập bến ở thành phố hưng thịnh nhất để giao thương, Constantinople. Và khi những vết loang đen bắt đầu chạm vào tay những thủy thủ, cơn bão đen đã ôm trọng Châu Âu.
Từ năm 541 đến 549, gần 5000 người chết mỗi ngày và tỉ lệ tử vong trong các thành phố lên tới 40%. Với dân số suy giảm và ngân sách cạn kiệt, đế chế La Mã đã bước vào những ngày lụi tàn. 
Nhưng đây mới chỉ là lần đầu loài người tiếp xúc với những bàn tay đen, những ngón chân rụng rời và những vết loang đầy mủ. 
Sau khi hủy diệt đế chế La Mã, cơn ác mộng chìm vào giấc ngủ, để lại những mầm mống của mình ở đây đó khắp thế giới, chờ đợi một điều kiện hoàn hảo để trở lại. 
Từ năm 1346 đến 1353, những vết bầm, vết sưng và vết loét loang lổ đã du hành khắp thế giới. Từ Châu Á, Châu Âu, Trung Đông và tới cả Bắc Phi. 
Lời đồn đoán cho rằng đây là sự trừng phạt của Chúa không hẳn là không có căn cứ. Độ phủ rộng lớn của những đau thương ấy không thể xảy ra nếu như thời thế không cho phép. 
Và thời điểm đó có thể nói… chính là điều kiện hoàn hảo

Châu Âu - 1300

Thời kỳ ấm đã đem đến điều kiện hoàn hảo cho giao thương và bùng nổ dân số. Cảng biển mở ra muôn nơi, những vùng đất hoang sơ được khai phá để mở cửa cho thương mại, nhà dân mọc lên như nấm và loài người có bước tiến đầu tiên đến với thương mại toàn cầu. 
Năm 1266, người Genova di cư tới Kaffa để khai phá và mở cửa hàng hải. Chỉ trong vài năm, Kaffa trở thành trung tâm giao thương khổng lồ với dân số lên đến 80.000 người và giao thông thường nhật là 200 thuyền thương mại liên tục cập bến.
Kaffa là trọng điểm kinh tế vì có địa lý hoàn hảo. Bao quanh là biển, cảng mở muôn nơi, có đường dẫn tới con đường tơ lụa phía Bắc và có cửa sông đi sâu vào lục địa Châu Á để mở rộng kinh doanh. Từ Kaffa, tàu thuyền đi khắp nơi, đến Constantinople, Địa Trung Hải, Italy và cả Bắc Phi. 
Là nơi hoàn hảo cho kinh tế phát triển, Kaffa rơi vào tầm ngắm của kẻ xâm chiếm lớn nhất hành tinh từng có, quân Mông Cổ. Và chẳng cần phải cố gắng, xung đột giữa tàn dư của quân Mông Cổ thế kỷ 14 và Kaffa sớm muộn rồi cũng xảy ra.
Nhưng chiến tranh của loài người không phải là mối bận tâm của mẹ thiên nhiên. Sau khi ban tặng cho những sinh vật nhỏ bé ấy một thời kỳ ấm áp với mùa màng xum xuê, mẹ Trái Đất trở lại với giấc ngủ đông và chào đón một thời kỳ mới có tên là “Tiểu băng hà”.
Có lẽ điều này đã khiến nhiều vương quốc Trung Cổ rơi vào cảnh loạn lạc vì không ai có thể đoán trước được rằng sau những tháng ngày ấm áp lại là một giai đoạn lạnh giá.
Những mùa đông kéo dài đã ảnh hưởng tới mùa màng. Lương thực trở thành một vấn đề nhức nhối trong các vương quốc ở Châu Âu. Trong khi đó, với số miệng ăn lên đến gần 80 triệu dân, mùa màng khan hiếm của tiểu băng hà khiến cho mọi vương quốc phải còng lưng. 
Đối mặt với nạn đói, lãnh đạo phong kiến châu Âu như Edward III của Anh và Philippe VI của Pháp đã ép thuế và dẫn tới hệ quả là xã hội rơi vào loạn lạc. Mọi thứ còn tồi tệ hơn khi mọi hy vọng dành cho một thời kỳ an bình dần trở nên khan hiếm hơn khi thời tiết khắc nghiệt còn kéo dài thêm 7 năm.
10% dân số Châu Âu đã mất vì nạn đói. 
Thời tiết, xã hội, mọi thứ đều tồi tệ. Nhiều người rời bỏ tường thành và tìm về những nơi an toàn hơn để sinh sống để rồi phải đối mặt với những điều kiện còn tệ hơn. 
Một trận dịch thương hàn đã quét qua Châu Âu để lại hàng ngàn thi thể trong các kinh thành đông đúc. Và trong khi lương thực còn khan hiếm, một dịch bệnh khác đã ập tới, quét nốt các đàn gia súc, gia cầm tại Châu Âu khiến nạn đói còn nặng nề hơn. 
Đại họa nối tiếp đại họa, dường như mọi thứ đang chuẩn bị cho một thứ gì đó kinh khủng hơn sắp xảy ra. 
Đúng, điều gì đó sắp xảy ra thật. Nhưng không ai có thể lường trước được nó có thể tồi tệ đến mức đấy.

Châu Á - 1346

Từ năm 1346, lời đồn về những thành phố chết đã bắt đầu truyền miệng khắp Châu Á. Đây là những thành phố không bóng người, tất cả đều đã chết vì một thứ gì đó. Những gì còn lại là đống xác lở loét ung mủ khắp nơi. 
Đây không phải là lời đồn. 
Năm 1200, dân số tại Trung Hoa là 120 triệu dân. Nhưng đến 1393, số người sống chỉ còn là 65 triệu. Nhưng Trung Quốc không phải miền đất duy nhất có dấu vết của sự suy giảm dân số đột ngột. Từ biển Caspi nước Nga tới bán đảo Triều Tiên và cho tới tận Ấn Độ, mọi nơi đều có tàn tích của cuộc diệt chủng toàn diện này. 
ĐIều gì đó đã xảy ra với Châu Á, nhưng cho dù nó có là gì thì kết quả nó để lại cũng vô cùng khó lường. 
Dọc theo con đường tơ lụa, dấu vết của những vết loét được tìm thấy ở muôn nơi. Có vẻ những gì đã xảy ra với các thành phố chết quanh Châu Á đã tìm được đường khuếch tán. Và để thêm dầu vào lửa, vó ngựa Mông Cổ vẫn rải rác khắp các lục địa trải dài từ Châu Á tới Châu Âu.
Dù không còn trong thời hưng thịnh nhưng Mông Cổ vẫn là một thế lực khổng lồ đáng nể. Họ vẫn tiếp tục đi chiếm đóng, xâm lược khắp nơi mặc dù lời đồn về các thành phố chết đã tới tai của họ. 
Trong cuộc chinh phạt xứ Crimea, cụ thể là vùng cảng Kaffa, đoàn quân Mông Cổ nhận ra có gì đó đang xảy ra với lực lượng của mình. Binh lính bắt đầu có những biểu hiện nôn mửa, bầm tím khắp người và có nhiều vết lở loét mưng mủ. Chỉ trong vài ngày, những người vẫn còn đang cầm dây cương đã nhanh chóng trở thành xác chết. Trong khi người dân trong thành Kaffa còn đang ăn mừng vì món quà Chúa ban tặng cho những kẻ xâm lược thì họ sớm phải chịu trái đắng. 
Với hàng núi người chết đang mục rữa mỗi ngày, mùi hôi thối đến từ da thịt và chất thải khiến quân Mông Cổ cần phải xử lý sớm những núi thịt đó. Và trong lúc những vết loang lở vẫn đang mọc lên như nấm, quân Mông Cổ có một ý tưởng thực sự điên rồ.
Chất xác chết binh lính vào máy bắn đá, quân Mông Cổ sau đó đã xả hàng loạt những thi thể bốc mùi lở loét vào thành phố. Những quả bom thịt thối rơi xuống thành phố như mưa, để lại những miếng nội tạng mang đầy bệnh tật đến khắp nơi. 
Người người ngã xuống từng giây từng phút, động vật hoang liên tục vồ tới để ăn bữa tiệc thịnh soạn đang được bày ra trước mắt. Binh lính bại trận ăn cắp, cưỡng hiếp và hỏa thiêu mọi xác sống họ thấy. 
Nhìn chung, đây là địa ngục trần gian. 
Những thương lái Genova lúc bấy giờ đã sớm nhận ra tình hình và nhanh chóng lên thuyền để quay về quê hương qua đường biển Đen trước khi họ trở thành nạn nhân.
12 con thuyền đã căng buồm và nhanh chóng rời Kaffa để về nhà… tại Sicily. 

Lây lan

Những gì đã xảy ra sau sự kiện tại Kaffa đã đi vào lịch sử là một trong những thảm họa lớn nhất từng xảy ra với nhân loại. Những con thuyền ma về tới Sicily đã đem những vết lở loét đầy mủ đến tới Châu Âu và với nạn đói kèm theo loạn lạc tại Châu Âu thời bấy giờ, cái chết lan đi còn nhanh hơn cả vũ bão. 
Tháng 5 năm 1347, tàu buôn từ Kaffa cập bến Constantinople, các xác chết bắt đầu chất đống vào tháng 7 với tốc độ cao nhất được ghi nhận là 10.000 xác chết mỗi ngày. 
Từ Constantinople, một con thuyền chở nô lệ đã đem cái chết đến với Alexandria, Ai Cập. Từ đây, dịch bệnh di chuyển về phía đông đến Gaza vào tháng 4; đến Damascus vào tháng 7 và Aleppo vào tháng 10. Năm đó, các thành phố như Ashkelon, Acre, Jerusalem, Sidon và Homs rơi vào cuộc chiến một chiều giữa dịch bệnh và con người. 
Cũng từ Constantinople, giao thương với Địa Trung Hải đã giúp các xác chết dần xuất hiện hàng loạt vào cuối năm 1347. Cảng Brussilles của Pháp trở thành tâm dịch lớn đầu tiên và nhanh chóng lây lan sang Rhone, Lyon và đến cả Tây Ban Nha. 
Tây Ban Nha nhanh chóng trở thành vùng đất chết khi phải đối mặt với cả hai tử lộ, một từ phía nước Pháp, một từ La Coruna khi chuyến tàu định mệnh từ Bordeaux dừng lại tại nơi đây. 
Cũng từ Bordeaux, một con tàu khác đã tiến tới Anh Quốc tại thị trấn Melcombe Regis. Chỉ sau 2 năm, nước Anh trở thành một nấm mồ khổng lồ. 
Từ Anh, Pháp và các nước lân cận, các đoàn tàu tử thần cứ thế đi khắp Châu Âu, đem những vết loang lổ và những người chết đến Hà Lan, Bắc Âu và Na Uy. 
Đau đớn nhất trong tất cả là Florence. Từ trước khi mùa màng đóng băng, Florence đã gặp hạn hán, ngập lụt, chiến tranh và mọi thứ chỉ tồi tệ hơn khi nạn đói giữa mùa đông lạnh lẽo kéo tới. Rồi chiến tranh trở lại, và sau đó là những vết loang đen. Cướp bóc, đói khát, bạo loạn, người đè lên người, chân đạp lên chân, người người kéo nhau ra khỏi thành phố để trốn chạy sự điên loạn đang xảy ra trong thành phố để rồi cũng phải ngã xuống vì những vết loang đen đang ăn dần cơ thể. Nếu địa ngục có thật, đây sẽ là tầng sâu nhất của nó. 
Trong năm 1348, bệnh dịch đã có mặt khắp Châu Âu. Valencia, Barcelona, Rome, Venice, Paris, London… chỉ là một số ví dụ.
Vào cuối mùa hè năm 1348, cơn bão chết đã đến với Cairo, thủ đô của Vương quốc Hồi giáo Mamluk, trung tâm văn hóa của thế giới Hồi giáo và là thành phố lớn nhất ở Lưu vực Địa Trung Hải; cướp đi một phần ba dân số nơi đây.
Sông Nile nhanh chóng trở thành dòng sông chết với hàng trăm ngàn xác chết được thả trôi. Trong vòng hai năm, bệnh dịch đã lan rộng khắp thế giới Hồi giáo, từ Ả Rập đến Bắc Phi. Đại dịch lan rộng về phía tây từ Alexandria đến tận bờ biển châu Phi.
Đến cả nước Nga, nơi đã may mắn có được lá chắn phòng dịch nhờ cấm giao thương với người Mông Cổ do xung đột tôn giáo cũng phải đầu hàng trước những cái chết bất thình lình vào năm 1350. 
Nạn đói, loạn lạc kèm theo dịch bệnh khiến người dân phải liên tục di chuyển tìm đến bến đỗ mới, thúc đẩy sự lây lan của cái chết. 
Nhiều thành phố trở nên hoang vu, nhiều nơi có tỷ lệ thiệt mạng quá 50%, Paris mất 100.000 người, Firenze từ 120.000 người chỉ còn 50.000. Có những khu làng trong rừng đã không còn người nào sống sót và để thời gian phủ xanh kín mít, hoàn toàn biến mất khỏi nhân loại. 
Dịch bệnh lây lan khiến dân số toàn cầu giảm mạnh. 
Số người chết được thống kê lại là khoảng 200 triệu người.
Dân số toàn cầu thời điểm đó chỉ hơn 400 triệu dân.
Tại sao bão bệnh lại nặng đến vậy?
Chúng ta tự hỏi.
Câu trả lời có lẽ nằm ở chính chúng ta. 

Câu trả lời

Từ đâu mà căn bệnh này xuất hiện? Câu trả lời ngắn gọn, chúng ta không chắc. Kể từ thời đế chế La Mã, những vết loang đã tồn tại và theo thời gian, nó ẩn mình ở muôn nơi và chờ thời cơ tái xuất.
Nhiều nghiên cứu cho rằng nó đã lây lan thông qua những con chuột và bọ chét. Chuột ở khắp nơi và làm tổ ở những nơi đặc biệt ẩm thấp và tối tăm, như những kho chứa của thuyền. Và với điều kiện giao thương hàng hóa bằng tàu thuyền trong thế kỷ 14, sự lây lan không hẳn là khó hiểu. 
Ngoài chuột và bọ chét, bệnh nhân cũng trở thành nguồn lây khi hơi thở của họ cũng chứa đựng cái chết. Tiếp xúc trực tiếp trong cự ly gần với người bệnh sẽ khiến căn bệnh được lây lan nhiều hơn. Trong khi đó, nhiều người vẫn không tin rằng đây là bệnh, họ nói đây là sự trừng phạt của Chúa dành cho kẻ xứng đáng. Và rồi họ cũng trở thành kẻ xứng đáng. 
Trong tình hình loạn lạc của bệnh dịch, để đảm bảo xã hội vẫn tồn tại, chính quyền vẫn thúc đẩy giao thương và đưa hàng hóa đi trao đổi, tạo thêm điều kiện cho dịch bệnh được đà phát triển. 
Bên cạnh đó, người bệnh chết khắp nơi nhưng không được chôn cất cũng trở thành những nguồn bệnh khổng lồ. Nếu người làm công tác chôn cất không qua đời vì căn bệnh này thì họ cũng không thể nào chôn hết cả trăm ngàn người mỗi ngày vì những gì đang diễn ra. 
Và rồi những bóng đen hình người nhưng có mỏ chim bắt đầu xuất hiện. 
Những bác sĩ đi khắp nơi, được triệu hồi tới để chữa bệnh hoặc để tìm hiểu về căn bệnh. Nhưng với sự phát triển y tế thời bấy giờ, chữa trị một căn bệnh không phải là đơn giản. 
Tư duy y khoa thế kỷ 14 vẫn dựa vào Thuyết thể dịch, cho rằng cơ thể có 4 loại dịch là máu, đờn, mật vàng và mật đen. Sự cân bằng của 4 loại dịch này sẽ cho cơ thể khỏe mạnh. Bất cứ sự mất cân bằng nào cũng sẽ dẫn tới bệnh tật. 
Với tư duy đó, cách chữa trị phổ biến thời kỳ này là trích máu, cho máu chảy ra bớt để tìm lại sự cân bằng cho cơ thể. Nhưng những trường hợp lành lặn kỳ diệu thì ít còn những trường hợp qua đời nhanh chóng vì nhiễm trùng và thiếu máu lại nhiều. 
Những bác sĩ mỏ chim lúc đó phải tìm thêm cách chữa trị khác để đáp ứng nhu cầu y khoa thời bấy giờ. Và để tìm ra câu trả lời, họ phải thử nghiệm. 
Một số phương pháp thử nghiệm bao gồm chọc vào vết mủ cho rỉ bớt ra, hàn vết mủ cho chữa lành, đắp thảo dược, đắp phân, uống nước tiểu của người không bị bệnh, dội nước sôi…
Thậm chí, có một số bác sĩ cho rằng bệnh sinh ra khi linh hồn người chết rời khỏi xác và ám vào người sống. Một số cách chữa được đưa ra còn là tắm nước hoa hồng hoặc dội dấm lên người. 
Có thể hiểu, các phương pháp trên không hiệu quả lắm.
Khi y khoa không thể tìm ra lời giải đáp, con người tìm đến thế lực tối cao để tìm câu trả lời. 
Các nhà thờ trở thành điểm đến của bệnh nhân tìm phép màu. Một số tin rằng đây là màu nhiệm của Chúa và con người không nên tìm cách chữa, hãy đón nhận và hưởng thụ nó. Họ không hưởng thụ được lâu. 
Nhưng đây cũng là thời điểm nhà thờ đang mất dần niềm tin từ người dân vì quá tập trung vào phụng sự cho giới thượng lưu. Có lẽ vì thế mà những lời dặn từ giáo hoàng Clement đệ lục đã bị bỏ ngoài tai, ông cho rằng người Do Thái không có lỗi, ở những nơi không có người Do Thái dịch bệnh vẫn hoành hành. Nhưng điều đó không cản được những kẻ cuồng tín.
Nhiều kẻ cuồng tín đã đổ lỗi cho người Do Thái vì sự tồn tại của căn bệnh, từ đó xung đột với người Do Thái được đẩy lên cao. 
Tại Thụy Điển và Đức, gần 3000 người Do Thái đã bị thiêu sống. Thương gia bài trừ người Do Thái và chỉ giao dịch với người chống Do Thái. Chỉ trong hai năm 1348 và 1349, những dàn thiêu người Do Thái mở ra ở muôn nơi. 
Trong khi đó, nhiều người tin rằng vì đây là sự trừng phạt của Chúa, họ đã đi hành hương để xin thứ lỗi. Họ vừa đi vừa tự hành xác bằng roi, quật, nhiều khi khỏa thân đi khắp nơi. Việc họ có được thứ tội hay không vẫn còn phải được nghiên cứu nhưng thứ họ tạo ra là sự lây lan mạnh hơn của căn bệnh mỗi nơi họ tới. 
Không tìm được thuốc chữa, phép màu để cứu người dân khỏi bệnh dịch kèm theo mâu thuẫn tôn giáo khiến niềm tin dành cho nhà thờ trở nên khan hiếm hơn bao giờ hết.
Khi cả y khoa lẫn đức tin không đem đến câu trả lời, nhiều người đổ lỗi cho những vì sao.
Hội đồng y khoa Paris theo chủ nghĩa chướng khí đã khẳng định rằng dịch bệnh là hệ quả của sự đồng nhất giữa Sao Hỏa, Sao Thổ và Sao Mộc. Sự đồng nhất vị trí đã khiến không khí bị vấy bẩn và những người hít phải chướng khí này sẽ mắc bệnh. 
Từ đây, phương thuốc chữa sẽ là tìm tới nơi thoáng đãng, hít thở để chữa bệnh, số khác đi ngược lại và tìm tới nơi hôi thối nhất để thông phổi. Từ đó, những nhà vệ sinh công cộng trở nên đông đúc hơn bao giờ hết. Và tất nhiên, điều này chỉ làm tăng khả năng lây nhiễm trong cộng đồng. 
Trong quá trình tìm kiếm câu trả lời và phương thức chữa bệnh, con người đã vô tình khiến tình hình trở nên nghiêm trọng hơn. Và những cuộc chiến còn dang dở giữa các quốc gia như chiến tranh trăm năm của Anh và Pháp cũng không giúp ích gì. 
Số người chết vì căn bệnh lạ thực sự rất khủng khiếp, nhưng số người chết vì những đại họa do chính con người gây ra cũng chẳng kém. 
Nhưng đây chưa phải lúc nó dừng lại. 
Gần 300 năm kể từ lần cuối những vết loang tấn công Châu Âu, nó trở lại với London vào năm 1665. 
Đột nhiên người dân bắt đầu có dấu hiệu nôn mửa, tay chân chuyển màu đen, mọc trên người những mụn nhọt khổng lồ kèm theo những vết loét đầy mủ. Chỉ trong một năm, nó đã cướp đi sinh mạng của hơn 100.000 người trong tổng số 460.000 người đang có mặt tại thành phố. 
Tuy nhiên, đây không phải là điều tồi tệ nhất. 
200 năm sau, những vết loang đen lại tái xuất ở Trung Quốc, lần này nó kéo đi 12 triệu sinh mạng từ cả Trung Hoa Đại Lục lẫn Ấn Độ. Ước tính số người chết trên toàn cầu là hơn 15 triệu. 
Qua thời gian, sự suy giảm dân số dần khiến cơ hội lây lan của dịch bệnh giảm sút. Các cung đường giao thương trở nên hoang vu cũng góp phần giữ vững ổn định.
Người Croatia ra lệnh cấm cảng 30 ngày với những thuyền mới cập bến. Lệnh cấm có tên Trentino này rất hiệu quả trong việc ngăn cản sự lây lan bệnh tật và về sau, giới hạn 30 ngày được đẩy lên thành 40 ngày và được áp dụng ở những nơi như Milan và Phần Lan. Cái tên mới của lệnh cấm là Quarantino, nghĩa là 40 ngày, sau này trở thành phiên bản quen thuộc hơn với loài người ở năm 2020 là Quarantine. 
Nhắc tới 2020, một sự thật nực cười là những gì đã xảy ra với căn bệnh ở thế kỷ 14 đã lặp lại trong xã hội vào thời điểm con người hiện đại hơn và phát triển hơn rất nhiều. Vẫn nhiều người tin rằng đây không phải căn bệnh, nhiều người cho rằng đó là tin rác, số nhiều còn cho rằng họ có thể tự vượt qua căn bệnh và số khác cho rằng thở vào mặt nhau là cách chữa hiệu quả. Cho dù có thế nào, khi bệnh dịch tới, con người sẽ thể hiện những bộ mặt xấu xí của mình. 
Qua nhiều năm phát triển, lây lan và tước đi sinh mạng của nhiều người, căn bệnh lạ với những loét kinh khủng ấy đã dần bị đẩy lui nhờ sự phát triển của khoa học. Nhưng không một ai có thể quên được những hậu họa nó để lại, cách nó đã hủy diệt cả một đế chế, thay đổi toàn bộ cấu trúc kinh tế của nhiều quốc gia và khiến con người phải bộc lộ những góc tối của mình. 
Và để thể hiện tính chất đen tối của nó kèm theo những biểu hiện trên cơ thể người bệnh, chúng ta sẽ nhớ mãi về nó bằng cái tên được dịch từ tiếng Đan Mạch: "den sorte død"
Hay,
THE BLACK DEATH.