Tiền bất kiến cổ nhân/ Hậu bất kiến lai giả/ Niệm thiên địa chi du du/ Độc sảng nhiên nhi thế hạ…”
Con người khi tự ý thức mình đang đứng ở điểm giao của trục thời gian từ quá khứ đến hiện tại và không gian trời đất bao la liền thấy cô đơn, trống vắng, rợn ngợp vì sự tồn tại bé nhỏ của mình giữa thăm thẳm bao la. Tồn tại con người nhận ra mình như một hạt bụi giữa thời gian và trời đất, như một chớp sáng của sự sống vụt hiện và biến mất. Mấy mươi năm đời người chưa đầy khoảnh khắc của vũ trụ. Nhưng nếu Đăng U Châu đài ca của Trần Tử Ngang mang ý thức về nỗi cô độc của con người cá nhân trong chiều kích không- thời gian của cõi người thì truyện ngắn Có một người nằm trên mái nhà của Phan Triều Hải đặt con người và cả Địa cầu đối diện với bao la vũ trụ- thực tại rộng lớn luôn biến sinh, nằm ngoài khả năng tri nhận và lí giải của tâm trí con người. Ý thức về tồn tại hữu hạn và nhỏ bé biến tất cả những mưu toan của cuộc sống thực tại trở nên phi lý và vô nghĩa. Nhưng ngay cả khi chỉ là một chớp loé của sự sống, con người vẫn luôn trăn trở…
Nhan đề tác phẩm là một cánh cửa lạ thôi thúc người đọc phải mở ra và bước vào tác phẩm. Tác phẩm hiện ra lại giúp ta hiểu được điểm bắt đầu. Nhan đề như một thông báo về một sự việc lạ, một sự việc chưa từng thấy trong đời và ta, trong cuộc sống thường ngày, khó lòng tưởng tượng làm sao để thực hiện việc ấy: có một người nằm trên mái nhà. Thời gian của sự kiện ấy là ban đêm, thời gian của bí ẩn, mộng tưởng, của u hoài, tịch mịch, lúc người ta có thể đối diện với thăm thẳm lặng im và u tối, người ta có thể gác lại mọi chuyện mà quan sát bầu trời, quan sát lòng mình như dòng sông đang chảy. Ban đêm là thời gian riêng tư, bí mật, còn ban ngày là thời gian của sự soi xét dưới ánh sáng lý trí tỏ rõ; ban ngày con người phải cúi xuống vì sức nặng của mặt trời, sức nặng của việc phải sống, ban đêm con người mới có thời gian để lựa chọn ngẩng đầu hay tiếp tục cúi xuống. 
Con người thực hiện công việc kỳ lạ ấy “một mình”, không ai khác, đơn độc. Mọi sự vượt lên điều gì đó đều là sự tự vượt thoát, không thể lôi kéo hay nâng đỡ. Cuộc sống là sự tự đối diện, ở vị trí của một ta mà nhìn vào cuộc đời, không ai khác sống thay ta, và chỉ chính ta có thể đối diện với nội tâm mình. Mái nhà là ranh giới hạn chế không gian chiều cao của nơi ở con người, thường được hiểu là sự chở che, ôm ấp, bảo bọc con người trong tổ ấm gia đình. Bên dưới mái nhà là những con người đang sống, đang yêu thương và mơ ước cho cuộc đời ngắn ngủi của mình. Bên trên mái nhà là tự nhiên, là bầu trời, mặt trăng và các vì sao, một không gian rộng lớn và bất tận cứ lên cao, xa mãi, đến cõi mênh mông của những bí ẩn không cùng. “Có” đối lập với “không”, tồn tại và không tồn tại. Đời người như một đoạn đường bắt đầu và đi đến kết thúc bằng những vòng tròn của có và không, còn và mất, đúng hơn là hiện diện và ẩn tàng. “Có” một người nằm trên mái nhà vì người lựa chọn ở đó, người hy vọng thoát khỏi thực tại nhàm tẻ, mong tìm thấy một điều gì đó phi thường và kỳ diệu của cõi sống đáng cho người phải chứng kiến một lần trong đời và khi nhìn thấy rồi, thỏa nguyện rồi, “không có” một người nằm trên mái nhà nữa. Sao chổi Hale- Bopp xuất hiện sau hai nghìn bốn trăm năm và lại biến mất để hứa hẹn hai nghìn bốn trăm năm sau nữa. Chu kỳ chuyển động của sao chổi kéo dài hai nghìn bốn trăm năm, cuộc hiện hữu của một con người ngắn ngủi hơn thế rất nhiều, con người, trong thân phận mình, cũng đành phải chấp nhận vụt qua và “mất dạng” trong vũ trụ thăm thẳm…?
Câu chuyện trong Có một người nằm trên mái nhà được kể bằng lời và điểm nhìn của nhân vật tôi- con người vì không quen được với việc sống mà “trên đầu bị che bởi một mái nhà” nên đã một mình trèo lên mái nhà, nằm trên đó, với góc nghiêng hai mươi ba độ rưỡi, để đối diện với bầu trời mỗi đêm. Truyện bắt đầu với việc “tôi” chứng kiến cảnh tượng hiếm hoi chỉ xuất hiện sau hàng bao nhiêu đời người- sao chổi Hale- Bopp bay ngang qua bầu trời. Sự kể lại ấy mang niềm tiếc nuối không được kéo dài những giây phút được nhìn ngắm ngôi sao huyền bí và rực rỡ ấy- “Lẽ ra,...”, “Nếu không thì…”. Câu chuyện bắt đầu từ đó, lại ngược về “lịch sử” của mái nhà nghiêng hai mươi ba độ rưỡi, về những kỷ niệm của gia đình “tôi” khi sống trong ngôi nhà mới, về những đêm “tôi” nằm trên mái nhà ngắm sao và chờ đợi khi sao chổi xuất hiện. Đến khi sao chổi xuất hiện, nhân vật phải chấm dứt việc nằm trên mái nhà của mình. Kết thúc của câu chuyện khép lại vòng hồi tưởng của nhân vật xưng tôi từ lúc chứng kiến sao chổi xuất hiện đến khi nó mất dạng.
Ảnh minh hoạ
Ảnh minh hoạ
Nhân vật tôi đã quen với việc sống ngoài những bức tường, ngoài sự che chở của mái nhà nên cảm thấy vô cùng sung sướng khi nằm trong không gian tự do bên ngoài những giới hạn, đối diện với bầu trời đêm thăm thẳm mênh mông không hề bị chia sẻ. “Tôi” ngắm nhìn vầng trăng và cảm nhận nó như một thực thể có nhân cách. Các thực thể xa cách trong vũ trụ là các vì sao trở thành những người bạn của anh trong trò chơi trốn tìm bất tận. “Tôi” làm bạn với bầu trời trong tâm thế của một người cô độc, một người không thể quen với kỷ niệm, một người chán ngán những điều rỗng tuếch vô vị của cuộc đời. Con người nào cũng sống bằng cách đặt mình vào những kỉ niệm. Đó là cái “hơi người”, cái ràng níu, kết nối con người ở lại với cuộc đời. Nhân vật “tôi” dù không quen với nơi ở mới, ngỡ như lãnh đạm với mọi kỷ niệm cuộc sống và trong những đêm nằm chờ đợi sao chổi có nghĩ đến sự tồn tại của người trong vũ trụ vô cùng, so với đường bay của một vì sao, nhưng cuối cùng vẫn phải níu vào những kỉ niệm cuộc đời mình. Đó là những ngày thuở nhỏ trụi trần với thiên nhiên- phơi mình dưới mưa hay ngủ dưới những tán cây. Đó là những bụi trưa “tôi” hì hụi cắt dán những tờ giấy bạc mẹ cho. Và gần hơn là ký ức của “tôi” về sự quả quyết của người cha khi xây nhà, về những cây hoa, chiếc lồng chim, những trách hờn và cả những dịu dàng âu yếm, vất vả lo toan của vợ… Những kỷ niệm trở thành chất sống trong tâm hồn, là giấc mơ trở đi trở lại trong đời nhắc nhở ta đã sống và đang sống vì ta còn đang nhớ lại. Con người và kỷ niệm với con người như cái trục trái đất giữ cho sự sống tiếp tục vận động. Nếu mất đi cái trục ấy thì con người sẽ chơi vơi…
Nhân vật “tôi” nhớ nhưng không thương, không bám vào sự nhớ ấy để sống mà trở nên mất kết nối với cuộc sống, “ở dưới mái nhà tôi không biết làm gì cho hết ngày”. Ta nên nhìn nhận như thế nào về nhân vật “tôi”?- Một người có khát vọng vượt thoát mọi sự bon chen, mọi điều tầm thường quen thuộc của cuộc sống để sống tự do, để có cõi suy nghĩ của riêng mình, để rung động với bầu trời hay một kẻ trốn tránh cuộc đời, không tìm thấy điều gì ý nghĩa hơn ngoài việc nhìn thấy một ngôi sao vụt qua, một kẻ, như người cha tuyên bố, là “chẳng làm gì cho ra hồn được”? Hay con người là sự mâu thuẫn giữa hai điều ấy, vì khát vọng nên ta bất lực, vì không thỏa nguyện nên càng khát vọng? 
Dù bất an và không bằng lòng với việc phải chấm dứt những đêm nằm trên mái nhà để trở về với “cuộc sống bình thường” như mọi người chấp nhận, nhưng “tôi” vẫn giữ lời hứa như đã thỏa thuận với vợ, để chứng minh  rằng ngôi sao chổi hiếm hoi ấy đã bay qua bầu trời, đã tỏa sáng rực rỡ và đẹp đẽ. Sao chổi ấy thật hay không thật? Nếu thật thì tại sao trong lúc nó sáng và lộng lẫy nhất thì người cha, sau khi nhìn đăm đăm vào bầu trời, phàn nàn: “Thôi vào, chả thấy mẹ gì.”, còn người vợ cũng khuyên van như thông cảm cho sự rồ dại của chồng: “Thôi, xuống nào.”? Sự thờ ơ đã che mờ đôi mắt, ngăn cản con người diện kiến cái đẹp kì diệu của cuộc đời hay chính đôi mắt của ước mơ và mộng mị đã vẽ ra cảnh tượng sao chổi diệu kì lộng lẫy?
Dù ngôi sao chổi ấy có thật hay không thật chăng nữa, người cha và người vợ của “tôi” vẫn không thể “thấy” nó, dù bằng đôi mắt hay bằng tưởng tượng, ước mơ, bởi họ “nhìn lên” nhưng trên đầu họ là một mái nhà. Mái nhà là sự chở che, đùm bọc; mái nhà cũng là sự ngăn cản, giới hạn hay tự giới hạn, che đậy hay tự che đậy. Khi mới chuyển vào ngôi nhà mới, người vợ đã thực hiện những việc làm với động cơ rất đáng trân trọng- mong muốn biến ngôi nhà thành mái ấm: trồng một khu vườn, mua một chú chim để vui nhà vui cửa khi chưa có trẻ con. Nhưng những chậu cây được nguỵ trang bằng hoa sặc sỡ và chú chim bị nhốt trong chiếc lồng son chạm trổ theo hoa văn triều Nguyễn chẳng bao lâu trở nên héo úa, tàn tạ, chết rũ. “Mái nhà” của tham vọng khiến người ta chỉ nghĩ đến việc bán được cây chứ không nghĩ đến sự sống của cây. Người vợ lại cố đánh lừa mình rằng cây sẽ sống bằng cách đốt hết lá khô. Chú chim bị giam bởi chiếc lồng, bị giam bởi ý thức sở hữu và sự chăm sóc bất cẩn của vợ “tôi”. Sự giả tạo và giam hãm không thể nuôi dưỡng sự sống. Mái nhà là tình thương, kỉ niệm nhưng con người muốn lớn lên phải rời khỏi mái nhà ấy. Ràng buộc và níu giữ là hành động của tham vọng chứ không phải yêu thương. Chính người vợ cũng tự giới hạn mình trong gian bếp của căn nhà, chỉ nói chuyện với chồng qua ô cửa sổ nhỏ xíu. Nếu đôi mắt không quen nhìn vượt ra ngoài khuôn khổ thì trước mắt mãi là khuôn khổ. Con người tự giới hạn mình trong tham vọng, lo toan, không vượt ra mép ngoài của đồng tiền nên không ngẩng đầu mà nhìn lên, ngóng vọng những điều kì diệu, đẹp đẽ của cõi sống. Chính hành động ngẩng đầu của con người đã mang trong nó sự thiêng liêng…
Con người vẫn sống cuộc đời của mình, lo lắng và buồn tẻ, ngày ngày mở ra và đóng lại những cánh cửa, ngày ngày bóc những tờ lịch để ngày qua, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Trong Thái Dương hệ, địa cầu chỉ là một “hòn bi xanh”. Đời người trong mối tương quan với vũ trụ nhỏ bé đến đáng thương.   Truyện ngắn Có một người nằm trên mái nhà chỉ xuất hiện vỏn vẹn bốn nhân vật trong câu chuyện được kể: “tôi”, người cha, người vợ trong gia đình và người trưởng nhóm xây dựng chỉ đạo việc xây nhà cho gia đình “tôi” chỉ tham gia vào bằng vài câu thoại. Các nhân vật hiện diện trong câu chuyện mang tính phiếm chỉ, mơ hồ- không được giới thiệu tên tuổi, không nghề nghiệp cụ thể, không quê hương và không được định vị bởi giao điểm nào giữa không gian và thời gian… Kí ức tuổi thơ của nhân vật kể chuyện chỉ thoáng hiện qua cơn mưa, làn gió, qua màu giấy bạc- cả kí ức dường như cũng gắn với cái phiếm thể, vô hình, nhập nhoạng nốt. Hai mươi năm của gia đình “tôi” buồn vui ra sao, hiện tại diễn ra trong ngôi nhà mới của gia đình mới của “tôi”, bên dưới mái nhà ra sao, ta không biết. “Tôi” gắn bó chủ yếu với không gian trên mái nhà và thời gian buổi tối- một mái nhà vô danh và những buổi tối lặng lẽ qua mà không thể đo đếm. Theo mạch kể, mạch suy tưởng của nhân vật “tôi”, những “nhân vật” ẩn mình khác, hay hình ảnh của bao con người khác, cũng xuất hiện- cậu bé làm công việc đổ rác nhận xác chú chim, những con người âm thầm hiện hữu trong làn khói bay lên từ những mái nhà bên, âm thầm sống bên dưới những mái nhà, lặng lẽ đóng lại và mở ra những cánh cửa và có lẽ tất cả những con người trên mặt đất trong giờ phút ngôi sao chổi Hale- Bopp bay qua hành tinh của người. Những con người dưới một mái nhà, dưới muôn mái nhà của địa cầu nhìn từ “điểm nhìn” của ngôi sao chổi đều bé nhỏ và vô danh tính. Đặt trong tương quan với cái đuôi sao hàng triệu kilomet và hành trình hàng nghìn năm của nó, cõi nhân gian trở nên “bé tí”, thời gian, kí ức của đời người như một tích tắc. Sự gặp gỡ của người càng hữu hạn, ngắn ngủi như khoảnh khắc bắt gặp ngôi sao chổi. Ta sống với 8 tỉ người khác trên trái đất nhưng ta chỉ ý thức rõ ràng về một vài người ta được gặp, được thiết thân, còn bao gương mặt khác chỉ là nhập nhoạng nhân hình… Nhìn từ vũ trụ, trái đất vốn không biên giới và con người ai nấy không tên, đến rồi đi, hiển hiện rồi biến mất, cứ thế hàng triệu năm…
Ảnh minh hoạ
Ảnh minh hoạ
Thời gian đời người như khoảnh khắc. Những bon chen, tranh đoạt trở thành trò chơi vô nghĩa. Vì thế mà con người phải sống để làm người- trở thành con người viết hoa mới xứng đáng làm người, dõng dạc làm người, để in dấu trên đất mà khẳng định rằng mình từng tồn tại chăng? Nhân vật “tôi” đã thay đổi cấu trúc câu để định nghĩa lại về con người. Thay vì nói: “Ông ấy không chỉ là một nhà thơ mà con là một con người.” thì “tôi” đưa “con người” lên trước hết: “Anh ấy không chỉ là một con người mà còn là một thợ mộc.” 
Phẩm chất người không phải là điều được suy ra từ danh vị, từ cách sống trong cuộc đời, là cái gì con người phải với lấy mà tìm đến bằng được cho thỏa cuộc làm người mà phẩm chất người là phổ quát, tuyệt đối, là cái có trước mọi cái tên, mọi sự định danh. Sự tồn tại tự thân của mỗi con người đã có giá trị chứ không phân biệt nguồn gốc, dòng tộc hay địa vị trong xã hội. Nếu nói theo Kinh Thánh, con người đã được nặn ra theo hình hài của Chúa, phẩm chất của con người tự nó có giá trị. Đứa trẻ vừa cất tiếng chào đời đã đánh dấu sự kiện “một con người ra đời”, trong nó mang biết bao tiềm năng và hy vọng. Không có người tốt hay kẻ xấu mà tốt- xấu bất phân là bản chất của người. Mà làm gì có tốt hay xấu, con người là một dòng chảy của muôn vàn sắc thái và lựa chọn, của muôn vàn ngã rẽ bất an và lo sợ, một dòng chảy không ngừng biến dịch, đổi thay. Hạt đậu tròn cũng là đậu, hạt đậu lép cũng là đậu, chẳng lẽ trong hạt lép ấy không có bản chất của đậu, không có mầm sống của cây đậu hay sao? Chẳng lẽ một kẻ tội nhân không từng là con người và sẽ bị lưu đày mãi ở cõi tăm tối của loài vật vì tội lỗi của mình? Khi chỉ tay vào kẻ phạm tội thì người tuyên án có thực sự “là người” không? 
Hai chữ con người viết hoa dường như chỉ là một mẫu hình lý tưởng không thực. Khi con người tự hỏi làm sao để trở thành Con Người thì tức là con người còn tìm kiếm, con người chưa “thành người”. Còn cưỡng cầu, còn “tham vọng” làm người, trở thành cái gì khác mình, cao hơn mình nghĩa là con người còn ảo tưởng. Nỗ lực vùng thoát khỏi sự nhỏ bé của con người để đạt đến cái cao siêu hơn nhiều khi chỉ là sự vẫy vùng trong mặc cảm và tham vọng. Chi bằng con người cứ sống để “là mình”- “là người” trong trọn vẹn những khát vọng và bất lực của mình. “Anh ta không chỉ là con người mà anh ta còn là một người thợ mộc”, con người là “danh phận” nhỏ bé sẵn có được cuộc sống ban trao, nhưng con người luôn muốn làm điều gì cao hơn, “cộng thêm” vào giá trị vốn có của sự tồn tại người ấy chứ không chỉ là một sinh vật được tồn tại. Nhưng dù có làm gì đi nữa thì công việc cũng trở về định nghĩa và nâng cao giá trị con người chứ không tách người ra khỏi gốc gác của mình. Xã hội là công cụ để con người tồn tại và nhận ra mình chứ không phải điều ngược lại. 
Cuộc sống không phải là nơi con người tranh cãi, phán quyết nhau ai xứng đáng làm người. Nhân vật “tôi” dường như rất chí lí: “Cho dù ta có đáng là người hay không đi nữa thì ngay cả khi tựa vào nhau rồi, chính quả đất cưu mang tất cả mọi người cũng nhỏ bé nốt.” Con người có thể kháng cự lại sự nhỏ bé, bất lực ấy chăng? Tiếng khóc chào đời là nỗi đau của sự khai sinh hay là sự kháng cự trước cuộc đời và sự nhỏ bé của thân phận làm người? Ta không biết, ta chỉ biết đó là khi ta bắt đầu thở, đó là sự sống. Dường như chỉ có sống, tự do và mơ ước, con người mới vượt qua được những câu hỏi hay tranh cãi dai dẳng về sự làm người.
Cuộc sống bên dưới mái nhà của “tôi” đầy vất vả, lo toan- anh chạy mười chín vòng để giao khung tranh cho khách hàng để nhận về mười lăm ngàn cho một vòng, để nhận lời cảm ơn từ vợ khi vuốt đếm cẩn thận từng đồng tiền. Còn cuộc sống bên trên mái nhà là ước mơ, là kỷ niệm ấu thơ đẹp đẽ, là sự vượt thoát những vòng lặp đơn điệu thường ngày. Dường như chính những vòng lặp mới là sự máy móc hóa con người, thui chột sự nhạy cảm và khát vọng của con người, xa lạ hóa con người với chính bản chất của mình… Ngôi sao chổi hiếm hoi vụt qua đã mang lại ánh sáng mới mẻ cho cuộc đời con người, đã mở ngỏ cho con người nhìn thấy cái vĩnh hằng rộng lớn hơn cuộc đời con người và “tôi” “chẳng còn mong điều gì hơn thế nữa”. Nghệ thuật đến với cuộc đời có lẽ cũng giống như ngôi sao băng ấy, khơi gợi kí ức và thắp lên hy vọng, đánh thức sự ngạc nhiên của con người trước cuộc sống mình “được sống” chứ không “phải sống”.
Con số hai mươi ba độ rưỡi được nhắc đến nhiều lần trong truyện là một tín hiệu nghệ thuật. Con số ấy là độ nghiêng của mái nhà mà cha “tôi” muốn xây. “Tôi” nằm và đối diện với bầu trời yên lặng trên mái nhà nghiêng hai mươi ba độ rưỡi. Hai mươi ba độ rưỡi cũng là trục độ nghiêng của trục mà trái đất quay quanh. Đó là độ nghiêng kì diệu. Độ nghiêng ấy khiến ai nhìn vào ngôi nhà cũng cảm nhận được vẻ đẹp hòa hợp lạ kì của nó. Độ nghiêng ấy tạo nên  một cõi sống diệu kì- trái đất sẽ chẳng có những khu rừng xích đạo xanh tốt hay những giọt mưa nhiệt đới mát tươi, sẽ chẳng có những bông hoa tuyết ôn đới hay băng ở địa cực, sẽ chẳng có cực quang hay khoảng cách giữa ngày và đêm. Hai mươi ba độ rưỡi là góc nghiêng làm trái đất trở nên giàu có và phong phú. Trái đất không tẻ nhạt, cuộc sống không tẻ nhạt, cuộc sống bí ẩn và kỳ diệu vô cùng trong dòng chảy toàn vẹn của nó. Con người lấy trục trái đất làm quy chuẩn, lấy thiên nhiên làm hình mẫu nghĩa là luôn ý thức được vẻ đẹp của sự sống. Con người luôn khát vọng một cuộc sống đẹp, hài hòa, giàu có và phong phú chứ không phải bó mình trong những khuôn khổ ngột ngạt. Để có cái khoái thú trọn vẹn khi nằm trên mái nhà phải chăng phải có độ nghiêng ấy? Để sống cho trọn vẹn phải chăng phải “sống nghiêng”- sống khác đi, mới hơn? Con người không sống để đi băng băng tới một cái đích, một trật tự nào đó đã định sẵn mà nhiều khi phải nghiêng chệch đi hay phải bước trên những con đường trắc trở mới cảm nhận được hết vui buồn và vẻ đẹp của cuộc sống. Ngồi trên ngai vàng vĩnh viễn thật buồn tẻ biết bao nhiêu… Trái đất, dù nhỏ bé vô cùng nhưng là hạt ngọc hiếm hoi của sự sống. Cuộc đời con người dù ngắn ngủi nhưng được trải qua bao cung bậc cảm xúc, được cảm nhận bao vẻ đẹp cuộc sống bằng ngũ quan của mình. Điều đó đáng để con người trân quý hơn là hổ thẹn, đáng để con người sống và yêu hơn là tranh cãi làm sao tìm nẻo đến chỗ thánh thần hay hai chữ “con người” viết hoa.
Hai mươi ba độ rưỡi còn là một sự vênh lệch của cán cân đáng lẽ phải cân bằng theo lý tưởng. Nhân vật “tôi” dành phần lớn thời gian trong ngày bon chen trên đường phố để giao hàng và kiếm sống. Nhưng thời gian về đêm “tôi” dành trọn cho sự ngóng vọng ngôi sao băng huyền thoại. Thói quen đó biến “tôi” thành kẻ điên rồ với gia đình nhưng cho “tôi” nhiều tự do và không gian để ước mơ, suy ngẫm, hồi tưởng. Nằm trên mái nhà là một sự “phá rào” để thoát khỏi những khuôn khổ đời sống. Ta rời khỏi vòng tay cha mẹ, rời ghế nhà trường và được trao cho những bàn tay niềm nở của trật tự, nghĩa vụ xã hội. Tương lai trước mắt “tôi” là hành trình của những mốc nghĩa vụ: ba mươi tuổi đi làm, bốn mươi tuổi nuôi con… Kẻ bất tuân và kháng cự sẽ không được thừa nhận, bị gạt ra bên lề. Chối bỏ nghĩa vụ và trật tự để tự do cũng là một sự lựa chọn, nhưng chẳng lẽ con người không sống với bất kỳ trách nhiệm nào? Cuộc sống dường như luôn đòi hỏi sự vận động dẫn đến trạng thái cân bằng nhưng hành trình hướng đến sự cân bằng ấy của con người là vô cùng gian lao, thậm chí là bất khả. Con người được định nghĩa bằng sự không thể định nghĩa và làm người trong sự chênh vênh, không hoàn mỹ. Khi hướng đến khát vọng, con người bỏ quên trách nhiệm, bị trách mắng “chẳng làm gì ra hồn”. Khi trở về với trách nhiệm và trật tự, con người lại đánh mất ước mơ và “chẳng biết làm gì cho hết ngày”. Cuộc đời là chuỗi những ngã rẽ, những lựa chọn, mà lúc nào sự lựa chọn cũng dẫn đến vênh lệch. Nhưng đã lựa chọn, đã sống thì những khả năng khác không tồn tại, con người không thể  quay đầu mà chỉ có thể tiếp tục hướng về phía trước, dù chênh vênh.
Truyện ngắn Có một người nằm trên mái nhà của Phan Triều Hải giản dị nhưng gợi mở cho ta những suy tư trong chiều kích vũ trụ nhưng hướng về chính con người, đặt trong không gian và thời gian vô cùng ấy: “làm con người tưởng cao ráo lắm, nhưng ê ẩm có thừa.”. Văn học không đến với con người để ra lệnh con người hãy nỗ lực là “Con Người” mà nó là hồ nước trong để con người nhìn thấy mình trong tất cả những khát vọng và bất lực của chính mình. 
Có một người từng nằm trên mái nhà. Có một người từng ngạc nhiên. Có một người từng ước vọng… Hay nói như Tagore: “Cõi đời ơi khi tôi đã chết rồi/ Thì trong cõi vắng lặng của người/ Chỉ còn một điều này còn lại: Tôi đã từng yêu.” Phải chăng chỉ một lần như thế trong cuộc đời mỗi người là đã đáng giá cả cuộc sinh tồn?... Tất cả những điều ngỡ như bình thường nhỏ bé ấy vẫn luôn hiện diện và chứng thực cho sự tồn tại của con người. Làm người là làm thế nào? Sống và yêu! Nói như Nguyễn Huy Thiệp: “Sống dễ lắm!”.