Trong lịch sử Việt Nam, các vương quốc của người Chăm có một vai trò cực kỳ đặc biệt. Họ thậm chí đã giành được độc lập từ tay Trung Quốc và lập nước sớm hơn cả người Việt. Và xuyên suốt các triều đại của Đại Việt, quan hệ với Chămpa cũng không hề yên ổn: lúc thân thiện, khi thì thù địch; để rồi cuối cùng trước làn sóng nam tiến mạnh mẽ, Chămpa dần bị đẩy lùi và cuối cùng biến mất.

Tổng quan về Chămpa

Nền văn minh Chămpa là một trong những nền văn hóa rực rỡ và lâu đời nhất tại Đông Nam Á, trải dài trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Vương quốc Chămpa cổ, với tổng diện tích ước tính 115.000 km2 và dân số khoảng 2.5 triệu người vào năm 900, tồn tại qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau cho đến khi chính thức chấm dứt vai trò quốc gia vào năm 1832 (mặc dù đã tồn tại như một quốc gia tự trị dưới sự bảo hộ của chúa Nguyễn từ năm 1697). Các danh pháp lịch sử cổ đại như Campa-Degar, Campapura (thành phố), Campanagara (đất nước), và Nagaracampa (kinh đô) cho thấy một thể chế chính trị và văn hóa có tính linh hoạt và phân tán cao - đây là đặc trưng của thể chế chính trị mandala, rõ ràng là do ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ.
Sự đa dạng trong danh xưng và sự thay đổi của các trung tâm quyền lực không chỉ phản ánh sự chuyển dịch theo thời gian mà còn cho thấy Chămpa giống một liên minh của các tiểu quốc hơn là một quốc gia tập quyền. Sự phụ thuộc vào uy quyền của các trung tâm tôn giáo và chính trị khác nhau theo từng thời kỳ đã dẫn đến sự đa dạng rõ rệt trong phong cách kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc tại các khu vực khác nhau, thể hiện qua các dấu tích còn tồn tại đến ngày nay.
Dấu tích của nền văn minh Chămpa tại Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung dọc theo miền Trung Việt Nam, từ Quảng Bình đến Bình Thuận, được thể hiện rõ nét qua các cụm đền tháp bằng gạch nung và các hiện vật điêu khắc.

Di sản kiến trúc Chămpa

Trong lĩnh vực kiến trúc, đền tháp là dấu tích vật thể quan trọng và phổ biến nhất, phản ánh hệ thống tín ngưỡng Ấn Độ giáo đa thần (thờ Vishnu, Shiva). Cấu trúc đền tháp điển hình gồm ba thành phần: Kalan (tháp thờ chính, chứa Linga), Gopura (tháp cổng), và Tháp nhà/Tháp Hỏa (Mandapa hoặc Kosa, dùng để chuẩn bị lễ vật). Trong số các trung tâm kiến trúc, Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới (1999) và là trung tâm tín ngưỡng tối cao, trong khi Tháp Pô Klong Garai (Ninh Thuận) là Di tích Quốc gia Đặc biệt, minh chứng cho mô hình kiến trúc tôn giáo hoàn chỉnh.
Phú Yên cũng có một dấu ấn kiến trúc quan trọng là Tháp Nhạn (thế kỷ 11 - 12), Di tích Kiến trúc – Nghệ thuật cấp Quốc gia Đặc biệt (2018), được xây dựng trên núi Nhạn, thành phố Tuy Hòa. Đây là ngọn tháp Chăm duy nhất còn lại ở Phú Yên, mang vai trò là biểu tượng văn hóa và tâm linh quan trọng.
Về mặt tín ngưỡng, Tháp Nhạn không chỉ thờ phụng thần linh Ấn Độ giáo (với biểu tượng Linga trên chóp tháp) mà còn gắn liền với truyền thuyết và nghi lễ thờ tiên nữ Thiên Y A Na (Bà Chúa Xứ), thể hiện sự giao thoa văn hóa Chăm-Việt sâu sắc. Tháp Nhạn có kiến trúc tứ giác với bốn tầng thu nhỏ dần, được xây dựng bằng gạch nung theo kỹ thuật đặc trưng Chămpa.
Các phong cách kiến trúc Chămpa có sự tiến hóa rõ rệt, từ Cổ điển Sớm (Tháp Mỹ Khánh) đến giai đoạn Chuyển tiếp (Tháp Khương Mỹ) và Vijaya (Tháp Đôi, chịu ảnh hưởng Ấn Độ giáo phi truyền thống). Thành tựu kỹ thuật xây dựng nổi bật của người Chăm là phương pháp "mài chập liên kết thành khối vững chắc, không có mạch vữa" tạo nên độ bền bỉ phi thường. Bên cạnh đó, các dấu tích kiến trúc quân sự như Thành Lồi (Huế) và Thành Hồ (Phú Hòa, Phú Yên) được xem là trung tâm hành chính của tiểu quốc Hoa Anh) cũng cho thấy kỹ thuật gia cố tiên tiến.

Di sản điêu khắc Chămpa

Di sản điêu khắc của Chăm Pa là bằng chứng rõ ràng nhất về sự phát triển nghệ thuật và tín ngưỡng, thể hiện qua sự tiến hóa của các phong cách qua các niên đại. Điêu khắc Chăm Pa chủ yếu xoay quanh các chủ đề tôn giáo, phản ánh hệ thống thần linh Ấn Độ giáo và Phật giáo, cùng với các thần Hộ Pháp (Dvarapala, Dharmapala) được tạo tác với thân thể cường tráng để che chở cho thánh đường. Điêu khắc Chăm Pa có thể được chia thành 3 phong cách nghệ thuật cốt lõi như sau:
Phong cách Đồng Dương (cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10), đại diện cho trung tâm Phật giáo Chămpa, với các tác phẩm như Đài thờ Đồng Dương và Tượng Tara bằng đồng (lớn nhất Đông Nam Á), nổi bật bởi yếu tố bản địa mạnh mẽ, đôi khi thô mộc, với hình tượng độc đáo và kích thước lớn. 
Phong cách Trà Kiệu (thế kỷ 10 - 11) đại diện cho đỉnh cao nghệ thuật cổ điển Chăm Pa, với các tác phẩm như Đài Thờ Trà Kiệu, đặc trưng bởi đường nét sống động, mềm mại, sự uyển chuyển, tinh tế trong biểu cảm và sự cân đối hoàn hảo. 
Phong cách Tháp Mẫm (thế kỷ 12 - 13) có sự chuyển dịch rõ rệt, đặc trưng bởi đường nét phức tạp, tỉ mỉ, có tính khuôn mẫu và tính trang trí cao, thường được gọi là Baroque Chăm. Sự thay đổi này, từ vẻ đẹp mềm mại của Trà Kiệu sang sự cứng nhắc và cường điệu hóa chi tiết, được cho là phản ánh việc nghệ thuật được sử dụng để khẳng định quyền lực và bản sắc trong bối cảnh vương quốc Vijaya đối mặt với các cuộc xâm lược liên miên từ Khmer và Đại Việt. Một hiện vật điêu khắc giá trị trong giai đoạn Tháp Mẫm là Phù điêu Kala Núi Bà (thế kỷ 14) được phát hiện tại di tích Núi Bà (Tây Hòa, Phú Yên), hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Phú Yên, thể hiện khuôn mặt Kala hung dữ với chi tiết công phu.

Vài nét khác về văn hóa Chămpa

Miền trung của Việt Nam được xem là nơi ra đời của văn hóa Sa Huỳnh - một trong ba cái nôi văn hóa lớn trên lãnh thổ Việt Nam, bên cạnh văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai. Tuy nhiên, văn hóa Sa Huỳnh không phải là nguyên nhân trực tiếp hình thành nên các vương quốc như Lâm Ấp hay Chămpa sau này; mà chỉ đóng vai trò là văn hóa nền tảng cho cư dân ở đây.
Nếu nói đến nền văn hóa nào có ảnh hưởng lớn đến các vương quốc như Lâm Ấp và Chămpa, thì đó phải là văn hóa Ấn Độ; được truyền vào các vương quốc này thông qua các thương nhân Ấn Độ, ảnh hưởng từ nước Phù Nam ở ngay kế bên, và có lẽ ảnh hưởng từ cả những người Nam Đảo nữa. Sau khi văn hóa Ấn Độ du nhập vào Chămpa, thì cư dân ở đây bắt đầu tôn sùng và thờ cúng các vị thần của Ấn Độ giáo - quan trọng nhất là ba vị thần tối cao Brahma - Vishnu - Shiva. Đến giai đoạn sau họ còn tiếp nhận thêm cả Phật giáo - trong đó Phật giáo Tiểu thừa phát triển mạnh ở thời kỳ nước Lâm Ấp trong thế kỷ 4; còn Phật giáo Đại thừa phát triển mạnh ở thời kỳ đầu của Chămpa trong thế kỷ 9. Sự ảnh hưởng của Ấn Độ giáo đối với Champa không chỉ ở mặt tâm linh mà chi phối toàn bộ đời sống chính trị và xã hội. Điều này thể hiện rõ qua tên các tòa thành, vương triều và tên hiệu của các vị vua - tất thảy đều mang đặc trưng những nét văn hóa và tôn giáo của Ấn Độ.
Một yếu tố văn hóa quan trọng được ảnh hưởng nữa là chữ viết. Người Chăm đã tiếp thu chữ Phạn. Nó được tiếp nhận và sử dụng rộng rãi ngay từ khi mới thành lập vương quốc, tức ngay từ cuối thế kỷ 2. Minh chứng chính là bia Võ Cạnh - tấm bia cổ nhất khắc tiếng Phạn được tìm thấy không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở trên toàn khu vực Đông Nam Á; có niên đại vào khoảng thế kỷ 2 hoặc 3. Và đến khoảng thế kỷ 8, bắt đầu xuất hiện một loại chữ mới phái sinh từ chữ Phạn, chính là chữ Chăm cổ. Cả hai loại chữ có vị trí như nhau, nhưng thường chữ Phạn sẽ được sử dụng để ghi chép các văn bản quan trọng. Chữ Chăm cổ là nguồn gốc sâu xa của tiếng Chăm hiện đại ngày nay được sử dụng rộng rãi ở các vùng như Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang.
Từ thế kỷ 9 và 10 trở đi, song song với sự phát triển của vương quốc Chămpa, văn hóa cũng có sự kế thừa và phát huy. Điều này thể hiện rõ qua các mặt như chữ viết, kiến trúc, điêu khắc, ca múa nhạc.
Về chữ viết thì từ chữ Chăm cổ và chữ Phạn, người Chămpa dần dần hoàn thiện hệ thống kí tự riêng cho mình; họ vẫn sử dụng chữ Phạn cho những việc quan trọng như khắc văn bia, dù thỉnh thoảng có ngoại lệ. Trên các cửa đền Po Klong Garai có một loại chữ Chăm mới vuông và giống với các kí tự chữ Phạn, đã ngay ngắn hơn trước nhiều. Đến thế kỉ 14 thì chữ Chăm đã tương đối hoàn thiện về mặt từ ngữ và cách diễn đạt.
Cuối cùng là về ca múa nhạc; thì họ có bộ nhạc cụ riêng, như trống lớn, dùng tay vỗ, kèn Sarana, trống nhỏ hai mặt vỗ bằng tay,... Những nhạc cụ này vẫn còn được truyền lại cho đến ngày nay. Trong nghệ thuật múa có cả múa lụa, múa khi thổi kèn,… Đặc biệt có vũ điệu Apsara chuyên phục vụ các lễ nghi quan trọng. Ca múa nhạc Chămpa cũng phần nào có ảnh hưởng đến ca múa nhạc Đại Việt; khi những lần các vua Đại Việt đánh thắng Chămpa đều sẽ đưa theo về rất nhiều vũ công.
Nhìn chung, tiến trình thay đổi văn hóa Chămpa giai đoạn này gắn liền với sự hưng suy của vương quốc. Họ rơi vào suy thoái, khủng hoảng trong thế kỷ 11 - 12 vì quan hệ không mấy tốt đẹp với Đại Việt, xung đột với Đế quốc Angkor, và cả những cuộc nội loạn trong vương quốc nữa. Chămpa phục hồi và vươn tới đỉnh cao trong thế kỷ 13 - 14, dẫn đến mọi mặt đều phát triển - trong đó có cả các khía cạnh văn hóa. Nhưng đến cuối thế kỷ 14, Chămpa tiếp tục rơi vào suy yếu và cuối cùng không còn có thể gượng dậy được nữa sau những biến cố trong thế kỷ 15.

Lịch sử các vương quốc Chămpa

Vương quốc đầu tiên hình thành trên vùng đất duyên hải miền trung của Việt Nam ngày nay chính là Lâm Ấp. Vương quốc này được thành lập dựa trên nền tảng là huyện Tượng Lâm thuộc phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam thời Bắc thuộc. Từ thế kỷ 2, tình hình ở đây dần trở nên bất ổn khi dân chúng liên tục nổi dậy nhằm chống lại sự cai trị hà khắc của nhà Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành nơi diễn ra xung đột thường xuyên giữa quân Hán và các tộc người bản địa.
Đến cuối thời Hán, Khu Liên ở huyện Tượng Lâm nổi dậy giết Huyện lệnh rồi chiếm đất tự cai trị, lập nước Lâm Ấp. Lãnh thổ vương quốc này ban đầu nằm ở đất Quảng Nam, về sau mở rộng xuống đến tận các vùng Phú Yên và Bình Thuận. Những người cai trị Lâm Ấp đã xây dựng nhiều tòa thành lớn, ví dụ như thành Kandapurpura (tức thành Phật Thệ), thành Khu Túc, thành Sinhapura, thành Indrapura hay thành Vijaya (tức thành Trà Bàn hoặc Đồ Bàn). Họ cũng xây dựng nhiều đền đài để thờ các vị thần, nổi tiếng nhất chính là các khu Thánh địa Mỹ Sơn và Thánh địa Po Nagar.
Lâm Ấp vào khoảng thế kỷ 5
Lâm Ấp vào khoảng thế kỷ 5
Trong nhiều thế kỷ, không ít lần giao tranh đã xảy ra giữa Lâm Ấp với lực lượng từ các triều đình Trung Quốc ở phía bắc và Đế quốc Angkor hùng mạnh ở phía tây. Mặc dù nhiều lần Lâm Ấp bị đánh bại, có lần bị chiếm cả kinh đô, nhưng trước sau họ vẫn có thể tồn tại được. Vương quốc Lâm Ấp tồn tại đến khoảng giữa thế kỷ thứ 8 thì xảy ra loạn lạc quy mô lớn khiến các tiểu quốc bên trong phân liệt. Các tiểu quốc này sau đó được thống nhất trở lại và trở thành nước Hoàn Vương. Nhưng thời kỳ này cách gọi vương quốc là “nước của người Chăm” đã bắt đầu hình thành. Khoảng gần một thế kỷ sau, nước Hoàn Vương cũng chịu chung số phận rơi vào rối loạn, một phần còn do mối đe dọa đến từ những cướp biển xuất xứ từ Java. Trong hơn 20 năm, Đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến đánh, chiếm nhiều vùng đất rộng lớn.
Đến năm 859, một vương tôn xuất thân từ một tiểu quốc phía bắc có nhiều chiến công được triều thần tôn lên làm vua, lấy hiệu là Indravarman II (Nhân Đà La Bạt Ma). Ông là người chính thức sử dụng quốc hiệu Campapura (nghĩa là “nước của người Chăm” trong tiếng Phạn). Campapura phiên âm ra cũng chính là Chămpa hay Chiêm Thành - cái tên nổi tiếng gắn liền với Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử giai đoạn độc lập của mình. Chính vương triều mới này đã liên tục chống trả và đánh lui được Đế quốc Angkor, cuối cùng chiếm lại được các vùng đất bị mất.
Vua Indravarman II cũng chính là người cho xây thành Indrapura và dời kinh đô về đó. Ông là vị vua Chămpa đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là quốc giáo. Tuy vậy, ảnh hưởng của Ấn Độ giáo không hề biến mất. Nhà vua đã cho xây dựng một tịnh xá lớn ở kinh đô Indrapura để thờ Quán Thế Âm bồ tát; nhưng song song với đó ông vẫn duy trì việc thờ thần Shiva. Tuy vậy, thời kỳ Phật giáo thống trị tại Chămpa kết thúc vào khoảng đầu thế kỷ 10, khi ảnh hưởng của Ấn Độ giáo tăng mạnh trở lại.
Đến khoảng giữa thế kỷ 10, mối đe dọa đến từ Đế quốc Angkor quay trở lại với Chămpa. Nhiều lần họ bị đế quốc cường thịnh này uy hiếp, có lần thậm chí đền Po Nagar còn bị quân Khmer phá hủy, tượng nữ thần Bhagavati bị cướp đi. Chămpa bắt đầu có ý định bành trướng lên phía bắc, vượt qua dãy Hoành Sơn để lấn đất của nước Đại Cồ Việt mới thành lập. Vào năm 979, sau khi vua Đinh Tiên Hoàng bị giết, phò mã nhà Đinh là Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào Chămpa, thuyết phục vua Bề Mi Thuế đưa chiến thuyền lên đánh úp kinh đô Hoa Lư. Nhưng đoàn chiến thuyền này gặp bão lớn nên bị đắm nhiều, cuộc tấn công thất bại.
Sau khi nhà Tiền Lê thay nhà Đinh, vua Lê Đại Hành khi đánh bại được quân Tống xâm lược đã cử sứ giả sang Chămpa năm 982. Thế nhưng vua Bề Mi Thuế đã cho giam các sứ giả Đại Cồ Việt lại. Vì vậy mà Đại Cồ Việt đã đem quân tấn công Chămpa. Trước sức tấn công mạnh mẽ của đội quân nhà Tiền Lê, quân Chămpa thua to. Vua Bề Mi Thuế bị giết, kinh đô Indrapura bị đánh hạ, thành trì bị san phẳng, cung điện bị phá hủy. Sau khi thắng trận, Đại Cồ Việt rút quân, đem về theo rất nhiều của cải và dân Chăm.
Vương quốc Chămpa (Chiêm Thành) vào thế kỷ 11 - 12)
Vương quốc Chămpa (Chiêm Thành) vào thế kỷ 11 - 12)
Thất bại nặng nề trong cuộc chiến với Đại Cồ Việt khiến Chămpa rơi vào suy yếu. Triều đình của họ phải lánh nạn xuống phía nam, xây dựng thành Vijaya. Đến cuối thế kỷ 10 thì Chămpa dời hẳn kinh đô về Vijaya. Tuy vậy, mối quan hệ phức tạp giữa nước Việt và Chămpa chưa chấm dứt mà mới chỉ bắt đầu. Trong suốt 5 thế kỷ, quan hệ giữa các triều đại nước Việt với Chămpa ít khi nào giữ nguyên không thay đổi. Chămpa có lúc thần phục và triều cống, quan hệ hai bên khá tốt; nhưng cũng có lúc nhân nước Việt suy yếu, Chămpa sẽ lại nổi lên đánh phá. Việc này đã có thể thấy được ngay từ đầu thời Lý. Một mặt, Chămpa thừa nhận bá quyền của nước Việt và vào năm 1011 đã cống một con sư tử; nhưng mặt khác thì hai châu Hoan, Diễn ở phía nam nước Việt vẫn thường xuyên bị người Chăm quấy rối, cướp phá.
Năm 1044, vua Lý Thái tông đích thân đem quân tấn công Chămpa, đánh bại quân Chămpa, giết được vua Sạ Đẩu, bắt được 30 con voi và hơn 5000 người. Sau đó, quân Việt tiếp tục tiến quân đến thành Vijaya, bắt vợ vua Sạ Đẩu cùng rất nhiều cung nữ giỏi múa hát, sau đó rút quân về. Từ sau đó, Chămpa bắt đầu triều cống thường xuyên hơn cho Đại Việt và giảm hẳn tần suất những cuộc cướp phá biên giới. Tuy nhiên vào năm 1068, vua Chămpa là Chế Củ đem quân tấn công Đại Việt để trả thù trận thua năm 1044. Nhà Lý nhanh chóng đáp trả khi vào đầu năm 1069, đích thân vua Lý Thánh tông lại dẫn đại quân đánh Chămpa, tuy có gặp khó khăn ban đầu nhưng cuối cùng vẫn thắng lợi, Nguyên soái Lý Thường Kiệt bắt sống được Chế Củ rồi đưa về Thăng Long. Chămpa thua trận, vua lại bị bắt sống, buộc phải cắt ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để cầu hòa. Đây cũng là lần đầu tiên ghi nhận việc Chămpa cắt đất cho Đại Việt. Năm 1075, tiếp tục xảy ra chiến tranh giữa Chămpa với Đai Viêt, khi Lý Thường Kiệt đích thân cầm quân, nhưng lần này quân Việt không giành được thắng lợi.
Vào năm 1074, vua Harivarman IV lên ngôi đã cho phục dựng lại các đền tháp ở Mỹ Sơn và mở ra một thời kỳ thịnh vượng ngắn ngủi. Sau cuộc chiến năm 1075, quan hệ giữa Chămpa với Đại Việt nhìn chung khá hòa hoãn; nhưng Chămpa lại có xung đột với Đế quốc Angkor. Ngay trong năm 1074, Chămpa đã tấn công và bắt nhiều người Khmer về; để đáp trả thì năm 1080, Angkor tấn công vào Vijaya và các trung tâm lớn ở miền bắc, phá hủy nhiều đền tháp và cướp đi nhiều của cải. Ngay sau đó, Chămpa đã phản công và đẩy lui được quân địch.
Cũng vào năm 1080, một triều đại mới là Mahidharapura đã ra đời ở cao nguyên Korat trên đất Phimai, Thái Lan ngày nay đã chiếm ngai vàng Angkor. Ngay sau đó, các vua của triều đại Mahidharapura đã tiến hành mở rộng đế quốc. Họ đã hai lần tấn công Đại Việt vào năm 1132 và 1137, thậm chí còn được cả Chămpa trợ giúp, nhưng không thành công. Vì vậy, họ chuyển mục tiêu sang Chămpa. Năm 1145, Angkor tấn công Chămpa, chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn; sau đó tiếp tục lấn chiếm toàn bộ khu vực miền bắc, khiến vua Chămpa phải lưu vong. Tuy nhiên Angkor lại trở nên suy yếu sau lần tấn công thất bại vào Đại Việt năm 1150. Lợi dụng thời cơ đó, lãnh đạo của tiểu quốc Panduranga ở phía nam đã nổi dậy đánh đuổi quân Angkor và lên ngôi vua ở Vijaya, lấy hiệu Jaya Harivarman I (Chế Bì La Bút). Ngay sau đó thì một hoàng thân Chăm đã sang Đại Việt xin vua Lý Anh tông phát binh giúp đưa mình về nước lên ngôi. Đại Việt đồng ý và đưa 5000 quân theo về nhưng thua trận, ngai vàng của Chế Bì La Bút được củng cố. Vua Chế Bì La Bút sau đó dâng em gái cho Lý Anh tông để lập lại hòa bình với Đại Việt. Nhà vua này đã giành phần lớn thời gian cai trị của mình để dẹp yên các cuộc nổi loạn.
Năm 1177, Chămpa tấn công Angkor và chiếm được kinh đô, giết vua của người Khmer và thu được nhiều chiến lợi phẩm. Họ đánh Angkor lần nữa năm 1181 nhưng lần này bị đẩy lùi; và khi Chămpa tiếp tục tấn công năm 1190 thì thua to. Lần này họ thậm chí còn bị quân Khmer đánh ngược trở lại và để mất kinh đô Vijaya, còn vua Jaya Indravarman IV thì bị bắt sống. Sau đó Chămpa gần như bị phân liệt và chia cắt thành 2 miền, nội chiến xảy ra trong vài năm; cuối cùng đều bị một hoàng thân người Chăm phục vụ cho Đế quốc Angkor là Vidyanandana đánh bại. Năm 1192, Vidyanandana tuyên bố làm vua của toàn Chămpa, xưng hiệu là Suryavarman và độc lập khỏi Đế quốc Angkor. Quân Khmer đã cố gắng xâm chiếm Chămpa nhiều lần nhưng không thành. Đến năm 1203 thì cuối cùng quân Khmer cũng chiếm được Vijaya và biến Chămpa trở thành một tỉnh của Đế quốc Angkor.
Đến năm 1220, Đế quốc Angkor dần suy yếu và bắt đầu rút khỏi Chămpa, nhưng vẫn không quên dựng nên một vị vua thân Angkor là Jaya Paramesvaravarman II. Trong thời gian ở ngôi, nhà vua này luôn có thái độ khá thù địch với Đại Việt (dù vẫn có đôi lần tiến cống nhà Trần). Lý do có lẽ vì vừa thân với Angkor, và cũng vừa vì muốn tìm cách lấy lại ba châu khi trước từng phải cắt cho Đại Việt. Hậu quả là đến năm 1252, vua Trần Thái tông lại thân chinh đem quân đánh Chămpa. Quân Đại Việt thắng trận, bắt được vương hậu cùng nhiều thê thiếp và dân Chămpa. Thất bại này khiến Chămpa phải chính thức thần phục nhà Trần. Từ năm 1252 đến năm 1285, Chămpa đã nhiều lần sai sứ sang triều cống và không gây chiến với Đại Việt. Vào năm 1283, Chămpa cũng đã phải đối mặt với đội quân xâm lược từ nhà Nguyên do Toa Đô chỉ huy. Tuy để mất kinh đô Vijaya, nhưng quân và dân Chămpa đã chủ động rút lui và tiến hành chiến tranh du kích. Đến cuối cùng, quân Nguyên đã buộc phải từ bỏ cuộc chiến này.
Quan hệ giữa Chămpa và Đại Việt giai đoạn này nhìn chung thân thiện hơn hẳn các thời kỳ trước. Năm 1301, Thượng hoàng Trần Nhân tông có nhận lời đến thăm và được vua Chế Mân đón tiếp nồng hậu, ở lại cung điện Chămpa đến gần 9 tháng. Khi về, Trần Nhân tông thậm chí còn hứa gả con gái là Huyền Trân công chúa cho Chế Mân để thắt chặt thêm quan hệ hai nước. Năm 1306, Chế Mân cưới Huyền Trân công chúa; và đồng ý cắt cho Đại Việt hai châu Ô, Lý làm của hồi môn. Nhà Trần sau đó đổi tên hai vùng này thành châu Thuận và châu Hóa. Nhưng ngay tháng 5 năm 1307, vua Chế Mân qua đời, Đại Việt bèn sai người đến đưa công chúa về nước để không phải chịu hỏa thiêu cùng nhà vua theo tục lệ Chămpa. Tuy đã đưa công chúa về, nhưng nhà Trần cũng không có ý định trả hai châu mà Chămpa đã cắt. Vấn đề này khiến quan hệ hai nước trở nên xấu đi và xung đột bắt đầu xảy ra thường xuyên hơn trong thế kỷ 14.
Vua Chămpa tiếp theo là Chế Chí đã xúi giục dân Chăm tại châu Thuận và châu Hóa nổi loạn, dẫn đến việc Đại Việt đem quân đánh Chămpa năm 1311. Chế Chí thua trận, bị bắt đem về giam lỏng đến chết. Em trai Chế Chí là Chế Năng lên ngôi tiếp tục xung đột để tìm cách thu hồi đất cũ. Năm 1318, Đại Việt tiếp tục đưa quân đánh Chămpa, Chế Năng thua trận phải chạy sang Java. Nhà Trần đưa một thủ lĩnh tên là Chế A Nan lên ngôi, nhưng nhiều người không phục nên Chămpa rơi vào đấu đá nội loạn. Đến năm 1342, con rể Chế A Nan là Trà Hòa tự lập làm vua, con trai Chế A Nan là Chế Mỗ không phục, hai bên tranh ngôi trong mấy năm liền. Cuối cùng Chế Mỗ thất thế, phải chạy sang Đại Việt cầu cứu.
Năm 1353, Đại Việt cho quân hộ tống Chế Mỗ về nước nhưng ra quân bất lợi phải quay về. Mấy tháng sau, Chămpa tràn lên cướp phá châu Hóa, quân nhà Trần không chống nổi. Cuối năm đó, nhà Trần phải cử Trương Hán Siêu đem quân vào trấn thủ châu Hóa. Sự có mặt của ông giúp bình ổn lại địa phương và khiến quân Chămpa không dám tiếp tục mở các cuộc tấn công trong thời gian này. Nhưng đến cuối năm 1354 thì Trương Hán Siêu mất, nhà Trần không còn ai đủ khả năng thay thế. Sự suy yếu của Đại Việt đã tạo cơ hội cho Chămpa củng cố lực lượng và cường thịnh trở lại. Năm 1360, vua Trà Hòa mất, triều thần tôn con út của vua Chế A Nan là Chế Bồng Nga lên thay - người được coi là vị vua hùng mạnh cuối cùng của Chămpa.
Trong khoảng 30 năm cai trị, Chế Bồng Nga đã 12 lần đem quân tấn công Đại Việt, có những lần đánh được cả vào kinh đô Thăng Long rồi cướp phá. Thậm chí năm 1377, khi vua Trần Duệ tông đích thân đem quân đánh Chămpa đã lọt vào ổ phục kích của Chế Bồng Nga và tử trận, quân Đại Việt thiệt hại nặng nề. Đại Việt càng lúc càng suy yếu, còn Chămpa đang lúc hùng mạnh. Mặt khác, Chămpa lại xưng thần với nhà Minh và được nhà Minh ngầm ủng hộ, nên có những thời điểm Chế Bồng Nga còn đem quân chiếm được cả Nghệ An và Thanh Hóa - dù sau đó vẫn phải rút lui.
Trong lần tấn công cuối cùng vào cuối năm 1389, quân Chămpa tiếp tục khiến nhà Trần phải khốn đốn vất vả. Thế nhưng đầu năm 1390, khi chuẩn bị tấn công Thăng Long thì có viên tiểu tướng Chămpa ra hàng nhà Trần, báo cho tướng Trần Khát Chân biết vị trí thuyền ngự của Chế Bồng Nga. Vậy là khi quân Chămpa kéo đến, Trần Khát Chân cho quân tập trung súng đạn tên nỏ bắn hết vào chỗ thuyền ngự, Chế Bồng Nga trúng đạn mà chết, quân Chămpa vội vàng rút lui.
Sang đến thế kỷ 15, Chămpa tiếp tục xung đột với nước Việt sau khi nhà Hồ đã lên thay nhà Trần. Ngay trong năm 1400 sau khi mới đoạt ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly đã sai người đem quân đánh Chămpa, nhưng cuối cùng bất lợi phải rút quân. Năm 1402, nhà Hồ tiếp tục ra quân, lần này đánh thắng được Chămpa; vua Ba Đích Lại sợ hãi phải đem dâng đồ cống và xin cắt đất Chiêm Động cho để nhà Hồ rút quân. Thế nhưng nhà Hồ không đồng ý, bắt Chămpa cắt thêm cả đất Cổ Lũy. Vua Ba Đích Lại thế yếu, buộc phải nghe theo yêu sách của nhà Hồ. Nhà Hồ lấy được đất, bèn chia Chiêm Động ra làm châu Thăng và châu Hoa, chia Cổ Lũy ra làm châu Tư và châu Nghĩa, đặt quan cai trị và dời dân từ phía bắc vào. Năm 1403, nhà Hồ lại tiếp tục đem quân đánh Chămpa, vây kinh đô Vijaya. Vua Ba Đích Lại phải sai sứ sang cầu cứu nhà Minh. Tuy vậy, quân nhà Hồ vây thành 9 tháng liền không hạ được, buộc phải rút về.
Năm 1406, lợi dụng việc nhà Minh đem quân đánh nhà Hồ; Chămpa đưa quân lần lượt chiếm lại các châu thuộc hai vùng đất Chiêm Động - Cổ Lũy. Quan lại nhà Hồ phải chạy về châu Hóa. Tháng 6 năm 1407, nhà Hồ diệt vong, tình hình ở châu Hóa càng thêm loạn. Trước sức ép từ cả hai phía; tướng giữ châu Hóa là Đặng Tất phải tạm hàng quân Minh để ngăn quân Chămpa bắc tiến. Được tạm yên mặt bắc, Đặng Tất dồn sức chống giữ khiến Chămpa phải lui về. Tuy vậy, Chămpa vẫn thu được thắng lợi khi lấy lại được đất đai từng phải nộp cho nhà Hồ. Họ còn đem quân tấn công Angkor để lấn đất, nhưng cuối cùng lại phải rút quân khi nhà Minh đe dọa can thiệp bằng vũ lực.
Đây cũng là giai đoạn mạnh mẽ cuối cùng của Chămpa trước khi rơi vào suy yếu, rối loạn triền miên trong giai đoạn sau đó.
Năm 1428, khởi nghĩa Lam Sơn thành công đánh đuổi được quân Minh, Đại Việt được tái lập dưới nhà Hậu Lê. Năm 1434, sau khi Lê Thái tổ qua đời, Chămpa nghi ngờ Đại Việt có loạn nên đem quân đến sát biên giới ở châu Hóa để thăm dò; quân Chămpa bắt được mấy người Việt, nhưng bị đánh trả phải lui. Đại Việt chưa phản công ngay, chỉ cắt đặt thêm quân canh phòng chặt ở biên giới.
Năm 1444, vua Chămpa là Ma Ha Bí Cai đem quân đánh châu Hóa của Đại Việt. Ngay sau đó nhà Lê đã cử đại quân phản công đẩy lui. Sang năm sau, Chămpa tiếp tục ra quân cướp phá nhưng gặp lũ nên bại trận. Đến năm 1446, Đại Việt chủ động đem quân tấn công, hạ được thành Vijaya và bắt vua Ma Ha Bí Cai cùng rất nhiều phi tần, quân lính Chăm đem về. Triều thần Chămpa sau đó lập Ma Ha Quý Lai làm vua, nhưng đến năm 1449, Quý Lai bị em trai là Ma Ha Quý Do giết để cướp ngôi. Năm 1458, đến lượt vua Ma Ha Quý Do bị Bàn La Trà Duyệt giết, ngôi vua lại đổi chủ. Năm 1460, Bàn La Trà Duyệt qua đời, truyền ngôi cho em là Bàn La Trà Toàn.
Năm 1469, quân Chămpa vượt biển quấy nhiễu châu Hóa. Đến năm sau thì đích thân vua Bàn La Trà Toàn đem đại quân tấn công, tướng trấn thủ châu Hóa không chống nổi phải đóng cửa thành cố thủ, gửi tin cấp báo về kinh đô. Để đáp trả, vua Lê Thánh tông huy động đại quân cả nước đi đánh Chămpa. Lúc này, Đại Việt đã trở nên hùng mạnh trong khi Chămpa đã suy yếu đi nhiều. Trước sự tấn công ồ ạt của Đại Việt, quân Chămpa liên tục thua trận, chết đến mấy vạn người. Tháng 3 năm 1471, quân Đại Việt tấn công và hạ được kinh đô Vijaya của Chămpa, bắt sống vua Bàn La Trà Toàn và hơn 3 vạn người Chăm đem về. Đại Việt chiếm lấy toàn bộ đất đai phía bắc của Chămpa (khoảng từ đèo Hải Vân ở Đà Nẵng đến đèo Cù Mông ở Phú Yên).
Sau trận thua năm 1471, Chămpa phân liệt hẳn thành 3 tiểu quốc nhỏ: tiểu quốc Panduranga vẫn là nước Chămpa, tiểu quốc Kauthara trở thành nước Hoa Anh, còn tiểu quốc J’rai ở vùng Tây Nguyên hiện nay là nước Nam Bàn (sau trở thành hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá). Toàn bộ đều biến thành phiên thuộc của Đại Việt. Từ thời điểm này, Chămpa suy yếu cực độ và không bao giờ còn có thể gượng dậy được nữa.
Trong các tiểu quốc thì Hoa Anh diệt vong đầu tiên. Vào giai đoạn Nam - Bắc triều, Hoa Anh từng đe dọa đến biên cương của Nam triều nên vào năm 1578, Nguyễn Hoàng cử quân tấn công Hoa Anh để lập lại trật tự. Sau này khi hai họ Trịnh - Nguyễn bắt đầu xung đột và chia cắt, các chúa Nguyễn đã đẩy nhanh quá trình nam tiến. Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng cử quân đánh Hoa Anh, chiếm đất và lập ra phủ Phú Yên (sau đổi thành dinh Trấn Biên). Đến năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần tiếp tục sai người đem quân tấn công, bắt được vua Hoa Anh đem về. Toàn bộ đất đai của tiểu quốc này bị sáp nhập vào lãnh thổ của các chúa Nguyễn, được chia thành hai phủ Thái Khang và Diên Ninh. Thủy Xá và Hỏa Xá thì tương đối yên bình trong các thế kỷ tiếp theo, vẫn giữ quan hệ là phiên thuộc đến mãi tận thời Nguyễn, và chỉ chính thức bị sáp nhập sau khi thực dân Pháp đã đặt quyền bảo hộ.
Tiểu quốc Chămpa sau thời điểm năm 1653 thì chỉ còn kiểm soát được một vùng đất nhỏ ở ven biển, và dần bị cô lập bởi các vùng lãnh thổ của chúa Nguyễn. Năm 1692, vua Chămpa là Bà Tranh tấn công phủ Diên Ninh và dinh Bình Khang; chúa Nguyễn Phúc Chu đã cử người đem quân tấn công và đánh bại quân Chăm vào tháng 3 năm 1693. Chămpa sau đó bị sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong, trở thành trấn Thuận Thành (sau đổi thành phủ Bình Thuận). Chúa Nguyễn Phúc Chu sau đó vẫn để cho họ hàng của Bà Tranh cai quản ở đây để vỗ về dân Chăm. Tuy vậy, dân Chăm vẫn liên tục nổi loạn, không chấp nhận bị cai trị trực tiếp; nên đến năm 1697, chúa Nguyễn Phúc Chu đã trả lại quyền hành cho các vua chúa người Chăm, lập lại trấn Thuận Thành. Nơi này trở lại vị thế như cũ - vùng lãnh thổ tự trị và là chư hầu của Đàng Trong, giữ quan hệ khá thân thiết với các chúa Nguyễn.
Khi Tây Sơn nổi lên, trấn Thuận Thành trở thành nơi tranh chấp liên tục giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn. Từ năm 1794, trấn Thuận Thành được xem như một tiền đồn của chúa Nguyễn Phúc Ánh, nhằm ngăn cản bước tiến của quân Tây Sơn vào Gia Định - thủ phủ của lực lượng chúa Nguyễn. Sau khi chúa Nguyễn Phúc Ánh thành công đánh bại hoàn toàn Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn; trấn Thuận Thành vẫn được giữ quyền tự trị, thậm chí còn được xếp ngang hàng với các chư hầu Ai Lao và Cao Miên. Thời vua Gia Long và phần lớn thời vua Minh Mạng, trấn Thuận Thành thuộc quyền bảo hộ của Tổng trấn Gia Định Thành.
Nhưng vào năm 1832, triều đình bãi bỏ Gia Định Thành, trấn Thuận Thành bị sáp nhập hoàn toàn vào lãnh thổ nhà Nguyễn, vua Minh Mạng cho đổi tên vùng đất này thành phủ Ninh Thuận. Giai đoạn từ năm 1832 đến năm 1835, người Chăm và các dân tộc miền núi đã chia ra hai phe: một phe ủng hộ cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, một phe ủng hộ vua Minh Mạng. Và sau khi cuộc nổi dậy bị dẹp yên hoàn toàn, vua Minh Mạng tiếp tục chia phủ Ninh Thuận ra làm hai huyện tự trị của người Chăm là An Phước Thổ và Hòa Đa Thổ. Tuy vẫn do người Chăm cai quản, nhưng thực chất đã hoàn toàn lệ thuộc vào triều đình nhà Nguyễn. Chămpa dù là với tư cách một vương quốc độc lập hay vùng đất tự trị riêng, đã chính thức biến mất hoàn toàn kể từ khi nhà Nguyễn sáp nhập hoàn toàn trấn Thuận Thành vào năm 1832. Lịch sử độc lập hơn 1600 năm của quốc gia này, xuyên suốt thời kỳ các vương quốc từ Lâm Ấp đến Hoàn Vương và Chiêm Thành, khép lại ở đây.