Vội đến, vội đi, vội nhạt nhòa
Vội vàng sum họp vội chia xa.
Vội ăn, vội nói rồi vội thở
Vội hưởng thụ mau để vội già.
Vội sinh, vội tử, vội một đời [1]
Bạn nghĩ những câu thơ trên nói về điều gì? Sự vội vã, tất bật, áp lực phải sống? Bạn có biết trước cả khi thế hệ trẻ chúng ta nói với nhau về FOMO, về các vấn đề tâm lý trong xã hội hiện đại, đã có một trường phái tôn giáo đi sâu vào chủ đề này, tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi: “làm sao thoát khỏi đau khổ?” Bạn có đoán được đó là tôn giáo gì không? Để mình gợi ý nhé, đây là: 
- Một trong những tôn giáo lâu đời nhất, ra đời cách đây khoảng 2.600 năm [2]
- Tín đồ của tôn giáo này không tin vào thượng đế hay thần linh. Họ tập trung vào việc đạt được giác ngộ – sự tỉnh thức, nhìn-thấy rõ mọi bản chất của sự sống đích-thực-như-nó-là. [3]
Đây cũng là tôn giáo đã ảnh hưởng rất nhiều đến lối sống và cách suy nghĩ của người Việt. Đó chính là Phật giáo. 
Phật giáo ra đời trong bối cảnh xã hội đang tồn tại nhiều vấn đề dưới sự ảnh hưởng của Bà-La-Môn giáo. Đạo Bà-La-Môn phân chia xã hội Ấn Độ làm 5 giai cấp. Ai sinh ra trong giai cấp nào thì phải ở mãi trong giai cấp đó suốt đời. [4]
- Giai cấp trên hết là các Tăng lữ Bà-La-Môn (sinh ra từ miệng của Đấng Phạm Thiên (Brahma)): Được quyền giữ địa vị tối cao trong xã hội, độc quyền cúng tế Thượng Đế và các Thần linh.
- Giai cấp thứ nhì là Sát-Đế-Lỵ (sinh ra từ vai của Đấng Phạm Thiên): Giai cấp này gồm các bậc vua chúa, quý tộc, trưởng giả, công hầu khanh tướng. Họ nắm quyền cai trị và thưởng phạt dân chúng.
- Giai cấp thứ ba là Phệ-Xá (sinh ra từ hông của Đấng Phạm Thiên): Giai cấp này gồm các nhà thương mại, các trại chủ giàu có. Họ nắm kinh tế, chuyên môn mua bán làm ăn với các từng lớp dân chúng trong xã hội.
- Giai cấp thứ tư là Thủ-Đà-La (sinh ra từ chân của Đấng Phạm Thiên): Giai cấp này gồm các nông dân và công nhân nghèo khổ.
- Giai cấp thứ năm là Chiên-Đà-La: Đây là giai cấp thấp kém nhất trong xã hội Ấn Độ, gồm các người làm các nghề hèn hạ như: Ở đợ, làm mướn, chèo ghe, giết súc vật, vv …
- Giai cấp Tăng lữ Bà-La-Môn dựa vào thế lực tôn giáo để củng cố địa vị và quyền lợi của họ bằng cách nương theo thần thoại, chế ra Luật pháp Manu, kỳ thị giai cấp, không cho gả cưới giữa 2 giai cấp khác nhau. Điều này tạo ra những sự bất công, kỳ thị và phân biệt trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. 
Vì vậy, nhiều nghiên cứu cũng cho rằng Phật giáo ra đời như một cuộc cách mạng chống lại thần quyền của Bà-La-Môn giáo. Đạo đức Phật giáo mang nội dung tinh thần bình đẳng phi thần quyền tiến bộ [5], điều này sẽ được đề cập kỹ hơn ở phần sau của bài viết. 
Vậy Phật giáo ra đời như thế nào? Chuyện kể là Tất Đạt Đa Cồ Đàm, tức Đức Phật, thuộc dòng Sát Đế Ly, đẳng cấp của vua chúa, thuộc đẳng cấp cao trong nấc thang giai cấp của Ấn Độ. Từ nhỏ ngài đã sống trong nhung lụa bạc vàng, cuộc đời thôi khỏi nghĩ, cha mẹ yêu quý, kẻ hầu người hạ, vợ con đề huề. Vậy mà đến 29 tuổi, ngài quyết tâm bỏ đi hết để tìm chân lý đời mình.
Người ta nói trong một chuyến đi dạo, Đức Phật gặp Tứ Cảnh, đó là sinh - lão - bệnh - tử, và bật lên trong đầu một nỗi bi ai về số phận, ai rồi cũng già rồi chết cả thôi, lạc thú phù phiếm như mây trời và rồi cũng tàn lụi cả.
Một ngày Đức Phật ra khỏi cung và gửi lại mớ tóc cho Sa Nặc, đổi bộ quần áo của mình với một người ăn mày, và từ đó, đoạn tuyệt toàn bộ với phồn hoa lúc trước để dấn thân vào cuộc sống trải nghiệm, một sự diệt kỷ đến phi thường, có lúc ngài tưởng đã đến với cái chết mà vẫn chưa một lần đạt đến giác ngộ.
Ban đầu ngài đi tìm học hỏi với những đạo sĩ danh tiếng nhất Ấn Độ thời bấy giờ, nhưng rồi Đức Phật nhận thấy chân lý và lối tu hành của họ cũng không có gì là siêu thoát. Từ đó, ngài đi vào ẩn trong dãy núi Tuyết Sơn, tự mình tu luyện để tìm ra cái đạo giải thoát như mong muốn. Nhưng sau sáu năm trời tu khổ hạnh, ngài vẫn chưa thu thập được kết quả gì khả quan. Bấy giờ, ngài mới đi đến núi Tượng Đầu, đến dưới gốc cây Tất-bát-la (Pipcpale, sau này người đời gọi là cây Bồ-đề nghĩa là cây giác ngộ, để kỷ niệm sự giác ngộ của Đức Phật dưới gốc cây ấy) ngồi thiền định ở đó và thề rằng: "Nếu ta ngồi đây mà không chứng được đạo quả, thì dù thịt nát xương tan, ta quyết không bao giờ đứng dậy". [6
Đến nửa đêm thứ 49, trong tâm Đức Phật tự nhiên đại ngộ, sạch hết phiền não, đạt đến sự giác ngộ. Ngài lấy hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong khoảng 45 năm trời (có thuyết 49 năm), Phật Thích Ca Mâu Ni đi khắp nơi truyền bá, giảng dạy các giáo lý Phật pháp. [7]
Thế giới, vũ trụ, theo quan niệm Phật giáo, là luôn vận động, biến đổi, các biến đổi diễn ra nhanh như chớp mắt, và thế giới thì không có trước, không có sau, vô thủy, vô chung. Đó cũng chính là lẽ vô thường, tức không có gì là tồn tại cố định, mà có đó, mất đó. Con người cũng thuộc dòng chảy không ngừng đó, nên không gì là bản thân ta cả, tức vô ngã. Những biến đổi này, nói theo ngôn ngữ hiện đại, là do tự thân vận động, không xuất phát từ bên ngoài, mà từ lẽ nhân duyên, theo luật nhân quả, nghiệp báo. Tùy thuộc vào nghiệp báo mà biến đổi của các sinh linh diễn ra trong cõi phàm và siêu phàm, hoán chuyển từ cõi này sang cõi kia, đó là luân hồi. [8]
Phật giáo cho rằng, đời người là khổ, đó là cái bể khổ triền miên từ lúc sinh ra, trưởng thành, đến chết. “Sinh, lão, bệnh, tử khổ” có nghĩa là sinh ra làm người, cất tiếng khóc chào đời là bắt đầu sự khổ, rồi già theo thời gian cũng là khổ, bệnh tật theo đó nảy sinh không ai tránh khỏi cũng là khổ, đến lúc kết thúc một kiếp người không ai mong muốn cũng là khổ. 
Phật giáo cũng cho rằng mọi người bình đẳng với nhau về nỗi khổ. Khổ đau không dành riêng cho giai cấp nào và không chừa một ai. Phật giáo khẳng định mọi người đều có thể được giải thoát và bình đẳng như nhau trên con đường giải thoát, đặc biệt là con đường giải thoát đó không phải do đấng siêu nhiên nào cứu giúp, mà mỗi người phải tự lựa chọn, tự đi, tự đến bằng việc vượt qua chính bản thân kiếp người với cả niềm tin và hành vi đạo đức. [5]
Tư tưởng đạo đức của Phật giáo thể hiện tập trung nhất trong Tứ Diệu Đế - Bốn chân lý như thực và Tám phương pháp tu dưỡng đúng đắn - Bát chánh đạo để mỗi người tự giác giải thoát, đạt tới Niết Bàn. 
Tứ đế còn gọi là Tứ Thánh đế, hay Tứ chân đế, gọi tắt là Tứ đế. Đế nghĩa là chân thực nên Tứ đế được gọi là bốn chân lý như thực. 
Chân lý thứ nhất: Tất cả chúng sinh, con người đều phải phụ thuộc và chịu đựng tất cả những thứ như buồn phiền, thất vọng, khó chịu, đau bệnh, già, chết, bất an, lo lắng… Nói tóm lại, tất cả đều bị “khổ”, tức là luôn luôn phụ thuộc vào những sự khổ và và bất toại nguyện. Không ai thoát được. 
Chân lý thứ hai: Những nguyên nhân của tất cả các dạng “khổ” trong tất cả chúng sinh và con người là dục vọng (sự ham muốn, thèm muốn). Mà dục vọng chính là cái “ảo tưởng sai lầm” của con người về một ‘linh hồn’, về một cái ‘ta’ của mình. Vì có cái ‘ta’ nên người ta tham lam, muốn được cho hiện tại, muốn có cho tương lai, và kết cục là cả đống những cái muốn và dục vọng đó dẫn đến khổ: khổ vì bất toại nguyện, khổ vì những điều không tốt,… Nói tóm lại, theo Phật giáo, nếu không có dục vọng thì không có khổ như vậy. 
Chân lý thứ ba: Sự chấm dứt hay tiêu diệt hết “khổ” là trạng thái thoát khổ và hạnh phúc. Muốn tiêu diệt hết khổ thì phải nhổ sạch nguồn gốc và nguyên nhân của khổ. Nguồn gốc và nguyên nhân của khổ chính là dục vọng và tham muốn. Dục vọng thì biểu hiện bằng những bản chất Tham, Sân, Si của tâm chúng ta. Vậy phải thực hành việc tiêu diệt hết những bản chất tham, sân, si đó để tiêu diệt dục vọng. 
Chân lý thứ tư: Việc tiêu diệt hết “khổ” và nguồn gốc tạo ra “khổ” là có thể làm được thông qua một con đường thực hành. Có một con đường để thành tựu việc này là con đường tám phần (Bát Chánh Đạo) do chính Đức Phật tìm ra và chỉ dạy lại cho chúng ta.
Đức Phật khuyên dạy mọi người bước theo con đường “Đạo” của Phật giáo để tránh được những cực đoan về khoái lạc giác quan và cực đoan về hành xác khổ hạnh để tìm ra chân lý và sự giải thoát.
Con đường Bát Chánh Đạo bao gồm tám phần thuộc ba mảng sau đây:

Trí Tuệ (panna)

1. Hiểu biết đúng đắn (chánh kiến)
Theo đạo Phật, đó là sự hiểu biết về bốn chân lý Tứ Diệu Đế mà Đức Phật đã tìm ra. Nói cách khác, đó là sự hiểu biết mọi sự vật đích thực “như-chúng-là”
Sự hiểu biết đúng đắn (chánh kiến) như vậy cũng là sự hiểu biết rõ ràng về quy luật Nghiệp (kamma) hoạt động như thế nào đối với mọi hành vi của thân và tâm như: hành động, lời nói, ý nghĩ [thân, miệng, ý]. Khi hiểu biết về Nghiệp và Nghiệp quả thì một người sẽ tránh làm những hành vi xấu ác và chọn làm những hành vi tốt thiện, và nhờ vậy tạo được những Nghiệp tốt lành cho hiện tại và tương lai.
Khi một người có hiểu biết đúng đắn theo đạo Phật như vậy, thì người đó cũng hiểu biết rõ ràng về những bản chất của Sự Sống. Ba bản chất của sự sống là Vô Thường, Khổ, và Vô Ngã. Vô thường là không thường hằng, luôn biến đổi, luôn sinh diệt, luôn có mất, không ổn định, không chắc chắn, không có một tự tính cố định nào. 
Vô ngã là không có một tự tính, không có phải là một thực thể cố định, không phải là một cái gì đó thường hằng, sống mãi, bất diệt, bất biến. Ngay cả cái ‘ta’ mà chúng ta nhận là một ‘con người’ hay một ‘linh hồn’ cũng không có thực, đó chỉ là giả danh, bởi vì đó được cấu thành bằng những yếu tố vật chất và tinh thần khác nhau, và những yếu tố này vốn luôn luôn thay đổi trong từng giây phút, trong từng khoảnh khắc. 
2. Suy nghĩ đúng đắn (chánh tư duy)
Khi một người có những hiểu biết đúng đắn (chánh kiến) như trên, thì người ấy có khả năng phát triển thói quen và khả năng suy nghĩ đúng đắn (chánh tư duy). Ví dụ, khi người ta đã hiểu rõ về lẽ thực và những bản chất của sự sống, về bản chất vô ngã, vô thường, hoặc đã hiểu rõ nguyên lý khoa học của nhân quả, thì người ấy luôn có suy nghĩ tránh né, tránh bỏ, không làm những điều bất thiện, bất công, xấu xa, và luôn luôn chọn làm những việc lương thiện, công đức, tốt lành. Người hiểu biết đúng đắn và suy nghĩ đúng đắn có thể bước đi trên một con đường đạo đúng đắn. 

Giới Hạnh (sila)

3. Lời nói, ngôn từ đúng đắn (chánh ngữ)
Điều đó có nghĩa là kiêng cữ không nói dối; không nói lời vu khống bịa đặt; không nói lời khó nghe, không chửi bới, lăng mạ, dèm pha; không nói lời chia rẽ, gây thù hận; không nói tầm phào, tán dóc, nói kiểu ăn không ngồi rồi.
Giới hạnh chánh ngữ khuyên dạy chúng ta nên nói lời chân thật, nói sự thật; nói lời nhẹ nhàng, dễ nghe, nói lời thân mến, thân tình; nói lời tạo sự hòa đồng, đoàn kết, cảm thông nhau, nói cho vui lòng người, cho toại lòng ta; và nói những lời có nghĩa, có ý nghĩa, nói khi cần phải nói. Nói những lời lương thiện.
4. Hành động đúng đắn (chánh nghiệp)
Chánh nghiệp là Sự thể hiện sự tôn trọng đối với sự sống, đối với tài sản và những mối quan hệ của người và của mình trong đời sống. Tôn trọng sự sống có nghĩa là không sát sinh, không giết hại, không gây ra giết hại người và sinh vật khác. Tôn trọng tài sản là không ăn cắp, không lấy thứ không được cho; không lừa gạt, chiếm đoạt, cướp bóc của cải của người khác. Tôn trọng những mối quan hệ của mình và người khác là không quan hệ nam nữ bất chính, không ngoại tình, không làm phương hại đến tình cảm của người khác, không gây chia rẽ, không làm mất hạnh phúc của người khác.
5. Nghề nghiệp, việc làm đúng đắn (chánh mạng)
Đây là cách một người làm công việc để sống, cách để mưu sinh trong đời. Ý nghĩa của nó cũng giống các giới hạnh Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp: làm việc gì cũng phải tôn trọng sự sống, sự bình an, và lợi lạc của người và sinh vật khác; không làm gì phương hại đến người và sinh vật khác; nói chung đó là chọn làm những việc lương thiện và hợp pháp

Thiền tập (bhavana)

6. Nỗ lực đúng đắn (chánh tinh tấn)
Chánh tinh tấn là thái độ phấn đấu và phát huy hết những năng lực thân tâm để kiên trì thực hành việc tu tập tâm. Đó là lòng nhiệt thành về đạo, là tính kiên trung, kiên nhẫn để tu theo con đường đạo, không thoái chí, và đặc biệt không đi sai lầm, không đi lệch đường, không phí công sức theo những cách thực hành sai trái. Đó là : 
Nỗ lực tránh những điều xấu sai chưa làm
Nỗ lực trừ bỏ những điều xấu sai đã lỡ làm
Nỗ lực làm những điều thiện tốt chưa làm 
Nỗ lực phát huy và tu dưỡng những điều thiện tốt đã làm
7. Chú tâm, quán niệm đúng đắn (chánh niệm)
Sự chánh niệm được tu tập bằng cách chú tâm, chú ý, ý thức, luôn biết rõ ràng về những gì xảy đến và biến mất, về những điều là đúng hay sai, về những bản chất đích thực của sự sống. 
8. Tập trung tâm một cách đúng đắn (chánh định)
Đây là việc định tâm một cách đúng đắn, sự thiền định một cách đúng đắn. Thiền định là tu tập tâm tập trung [cố định, hợp nhất, hội tụ] vào một đối tượng duy nhất nào đó [ví dụ hơi thở] để làm cho tâm không bị xao lãng, không lăng xăng chạy nhảy, làm cho tâm tĩnh lặng, đạt định, đạt đến mức độ chánh định thâm sâu. [2]
Niết bàn, theo tiếng Sanscrit là Nirvana, tiếng Pali là Nibhana. Học giả Đoàn Trung Còn giải thích: Niết bàn là “cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái”, và theo lối triết tự thì: “Niết (Nir): ra khỏi, Bàn hay Bànna (Vana): rừng, tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não”
Mặc dù các cách hiểu này không đồng nhất song đều có chung một nghĩa căn bản: Niết bàn là sự đoạn trừ dục vọng, dứt nghiệp báo luân hồi, thanh tịnh tuyệt đối. Đó là sự ngưng đọng vĩnh cửu của không - thời gian trong cõi tâm linh sâu thẳm của con người. Như vậy, Niết bàn trong Phật giáo không phải là một cõi cực lạc có vị trí không - thời gian như thiên đường của Thiên Chúa giáo, mà là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, yên tĩnh, sáng suốt, không vọng động, diệt ái dục, xoá bỏ vô minh - nhận thức sai lầm về bản ngã và thế giới xung quanh, chấm dứt mọi khổ đau, phiền não. 
Vì vậy, đích của giải thoát trong Phật giáo không phải là lên Thiên đường, trở về với Chúa mà là sự tận diệt cái cá thể đầy những ham muốn dục vọng, thoát khỏi vô minh, giác ngộ được lẽ vô thường và vô ngã để đạt tới Niết bàn. [9]
Trong quá trình hình thành và phát triển, từ Ấn Độ, Phật giáo đã được truyền sang các nước lân cận, ra khu vực Á đông và phát triển trên toàn thế giới. Sự phát triển này, được chia theo 2 hướng: về phương Bắc, gọi là Phật giáo Bắc Tông, mang tư tưởng Đại thừa. Về phương Nam, gọi là Phật giáo Nam Tông, mang tư tưởng Tiểu thừa.
Phái Tiểu thừa (Hyayana) nghĩa là “con đường cứu vớt nhỏ” hoặc “cỗ xe nhỏ”, chủ trương chỉ những người xuất gia tu hành mới được cứu vớt. Phái này cho rằng những người theo Tiểu thừa phải tự giác ngộ, tự giải thoát cho bản thân mình, không thể giải thoát cho người khác. 
Phái Tiểu thừa quan niệm rằng sinh tử luân hồi và niết bàn là hai phạm trù khác biệt nhau, chỉ khi nào con người thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi thì mới lên được Niết Bàn. Niết Bàn là cõi hư vô, là nơi đã giác ngộ, ở đó không còn khổ não. Phật tổ là người đầu tiên đạt tới Niết Bàn.
Phật giáo Tiểu thừa bảo vệ sự tuân thủ nghiêm ngặt của giáo quy, bám sát các giáo điều của đạo Phật nguyên thủy. 
Phái Tiểu thừa được truyền bá ra nhiều nơi, từ Xri Lanka đến Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam… Quá trình phát triển của phái Tiểu thừa cũng chia thành nhiều chi phái, tiêu biểu như Thành thực tông, Luật tông, Câu xá tông…
Phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa là “con đường cứu vớt lớn”, “cỗ xe lớn” được gọi là tôn giáo cải cách. Giáo lý Đại thừa có nhiều cái mới so với đạo Phật nguyên thủy. Phái này cho rằng không chỉ những người xuất gia tu hành mà cả những phật tử cũng được cứu vớt.
Vì vậy, chủ trương người theo đạo Phật Đại thừa không chỉ giải thoát, giác ngộ cho bản thân mà còn có thể giúp nhiều người cùng giải thoát, giác ngộ. Đại thừa chủ trương mỗi người có thể đến Niết Bàn chỉ bằng sự cố gắng của mình, đồng thời chủ trương giải thoát đông đảo cho nhiều người.
Phật giáo Đại thừa quan niệm rằng sinh tử luân hồi và Niết Bàn không phải là hai phạm trù khác biệt, ngay trong quá trình tồn tại (quá trình sinh tử) cũng có thể đạt được Niết Bàn. Theo phái Đại thừa, Niết bàn là nơi cực lạc, là thế giới của các vị Phật, giống như Thiên đường của các tôn giáo khác. 
Phái Đại thừa không chỉ thừa nhận Thích Ca là Phật mà còn thừa nhận nhiều Phật khác như Phật Adiđà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư... Ai cũng có thể trở thành Phật và thực tế đã có nhiều người thành Phật như Văn Thù Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát… Với quan niệm đó, những chùa theo Phái Đại thừa thờ nhiều tượng Phật. Bồ Tát cũng là đối tượng được thờ cúng. Bồ Tát là những người đã đạt được sự hoàn thiện bằng tu luyện, đáng được lên Niết bàn song tự nguyện ở lại trần gian để cứu độ chúng sinh. Trong các vị đó, Quan Âm Bồ Tát được kính trọng nhất.
Với quan điểm cách tân của mình, Phật giáo Đại thừa được truyền bá đến nhiều nơi trên thế giới, trước hết là các nước châu Á. Từ Ấn Độ truyền sang Tây Tạng rồi vào Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Trong quá trình đó, phái Đại thừa cũng chia thành nhiều chi phái, tiêu biểu có Pháp tương tông, Tam luận tông, Hoa nghiêm tông, Mật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông.[10]
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản đầu tiên thật ra không phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính là được truyền sang trực tiếp từ Ấn Độ từ khoảng thế kỷ I và II sau công nguyên. Dựa trên những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy, một số nhà nghiên cứu chuyên sâu, có uy tín về Phật giáo đã khẳng định điều này.
Đối với người dân Việt Nam lúc bấy giờ, Ông Trời là một đấng ở trên cao, thấu hiểu mọi việc, biết rõ người tốt kẻ xấu, từ đó mà phù giúp người hiền, trừng phạt kẻ ác. Quan niệm này khiến người dân dễ tiếp nhận thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật. Ngoài Ông Trời, họ cũng quan niệm có những vị thần thánh khác như Thần Sấm, Thần Mưa… như là những thủ hạ của Ông Trời. Họ cũng coi Ma Xó là linh hồn của người chết còn tồn tại quẩn quanh trong nhà để phù trợ cho gia đình. Điều này làm cho họ cảm thấy dễ gần gũi khi tiếp xúc với thuyết luân hồi - sự tiếp diễn của những kiếp sống.
Sự hòa hợp giữa tín ngưỡng bản địa có sẵn với những sinh hoạt văn hóa, giáo lý cơ bản của Phật giáo đã hình thành nên một loại tín ngưỡng Phật giáo bình dân trong thế kỷ đầu tiên của công lịch.
Người Việt xưa quan niệm Phật như là một vị Bụt (xuất phát từ “Buddha”), có phép thần thông, nghe và biết mọi chuyện như Ông Trời, nhưng Bụt không ở trên cao, mà thân cận với mọi người. Bụt hiện ra dưới nhiều hình thức để cứu người, giúp đời. Bụt thương người nhưng không trừng phạt kẻ ác như Ông Trời vẫn làm. 
Vào thế kỷ thứ hai, sự thâm nhập của Phật giáo đã ở vào một giai đoạn mới. Đã hình thành tăng đoàn, công việc hành đạo từ đó mà cũng đi vào tổ chức, các tăng sĩ bắt đầu dịch kinh, sáng tác, chùa chiền cũng đã được xây cất. Ở thế kỷ này, sự hành đạo cũng gặp một ít trở ngại từ phía những người ủng hộ Khổng, Lão, vốn có tư tưởng triết lý trái ngược với Phật giáo. Tuy nhiên, điều đó không thể ngăn cản được ảnh hưởng của Phật giáo vì nó đã thâm nhập vào dân gian.
Quan niệm về Phật thì vẫn nối tiếp tín ngưỡng bình dân về Phật trong thế kỷ trước, nhưng đã mang màu sắc Hán hơn khi những khái niệm của Khổng, Lão được đưa vào. Trong Lý hoặc luận, Phật đã được trình bày như nguyên tổ của Đạo và Đức nhưng vẫn mang màu sắc biến hóa thần thông.
Đến thế kỷ thứ ba, có lẽ đã có một thực tế là Phật giáo từ phương Bắc đã bắt đầu có ảnh hưởng trở lại lên Phật giáo Việt Nam. Sử sách cũng ghi nhận rằng trong thế kỷ này, các kinh sách về thiền đã được đem từ Lạc Dương xuống và bị ảnh hưởng từ tư tưởng Phật giáo Đại thừa Trung Hoa.
Tuy nhiên, ở đây, khi nói về sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam, ta có thể xem việc này đã cơ bản hoàn tất trước thế kỷ thứ 10, khi mà một mặt có sự du nhập trực tiếp từ Ấn Độ cộng với sự ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa từ phương Bắc sau đó, mặt khác là sự sản sinh, hình thành nền thiền học Việt Nam với những thiền phái đầu tiên nhưng lại rất lớn mạnh. Từ đây đã tạo một tiền đề vững vàng cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam về sau, mà đỉnh điểm là giai đoạn thế kỷ X – XVI. [11]
Cuối thời Bắc thuộc Phật giáo đã lan rộng khắp mọi miền cả “An nam đô hộ phủ” (tức Việt Nam). Đã xuất hiện một lớp cao tăng người Việt (trong đó nhiều người đã học ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Dương) hiểu biết, tinh thông chữ Hán, Phạn, đóng góp cho sự xây dựng và bảo vệ đất nước, được nhân dân coi trọng, là những trí thức thời đại. Vì vậy, khi đất nước độc lập, tầng lớp Thiền sư - người trí thức thời đại được vua chọn làm điểm tựa về tinh thần, văn hoá, tư tưởng, cùng vua xây dựng và quản lý đất nước. [12]
Bên cạnh đó, vào thế kỷ X, nhà nước độc lập mới được xây dựng, đang dần dần tự củng cố, vừa phải chuẩn bị đương đầu với những cuộc chiến tranh xâm lược từ bên ngoài, vừa phải đối phó với những yếu tố phân tán cát cứ ở bên trong. Nhà nước độc lập non trẻ lại đang cần một điểm tựa về ý thức, một công cụ tinh thần để xây dựng và quản lý đất nước. Trong khi đó các đường mối của Nho giáo lại chưa được phát triển đầy đủ. Trong tình hình đó, Phật giáo đã chiếm được ưu thế trong xã hội.
Đinh Tiên Hoàng sau khi lên ngôi, năm 971, đã quy định các cấp bậc Tăng đạo đồng thời với cấp bậc quan lại văn võ. Việc quy định các chức quan Tăng đạo đồng thời với việc xây dựng bộ máy nhà nước, chứng tỏ vua Đinh rất chú trọng đến vị trí của tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo. Nhà Lê tiếp theo cũng theo đường lối đó của nhà Đinh.
Dưới triều Đinh, Tiền Lê, nhiều nhà Sư đã trở thành cố vấn cho các ông vua về đường lối đối nội và đối ngoại. Thời điểm này cũng xuất hiện nhiều nhà sư tham gia công cuộc dựng nước và giữ nước. 
Vào thời đại nhà Lý, Phật giáo vẫn tiếp tục giữ một vai trò rất lớn về mặt chính trị. Ngay điểm khởi đầu, tức là việc lập nên triều đại này, Phật giáo đã đóng vai trò quyết định.
Tuy đã giúp nhà Tiền Lê, nhưng trước tình trạng tệ lậu của quốc gia dưới sự cai trị của Lê Long Đĩnh, sư Vạn Hạnh đã không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi, chấm dứt chế độ dã man của Lê Ngọa Triều, bằng một cuộc vận động quần chúng qua sấm truyền về vận mệnh dân tộc gắn với chữ Lý. Với việc Lý Công Uẩn xuất thân là một môn sinh của nhà chùa và vai trò của sư Vạn Hạnh, sẽ không ngoa khi nói rằng bước đầu dựng lên nhà Lý công đầu thuộc về Phật giáo. Sư Vạn Hạnh cũng là người được tin rằng đã thuyết phục Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long với ý nguyện bảo vệ lâu dài nền độc lập dân tộc.
Các tăng sư Phật giáo cũng trực tiếp tham dự chính sự qua việc trực tiếp thiết lập các kế hoạch, thảo văn thư, tiếp sứ thần, bàn luận cả những vấn đề về quân sự. Tuy can dự vào chính sự nhưng tăng sư Phật giáo không hề chủ trương tham gia chính quyền, nên sau đó, khi triều đình đã vững mạnh hơn, có thể tự mình gánh vác tất cả, thì họ lại tự nhiên lui về với chức năng vốn có của mình, là hướng dẫn tinh thần và đạo đức, lui về với việc tu đạo của mình khi nhiệm vụ đối với quốc gia, với quảng đại quần chúng đã hoàn thành.
Về phương diện học thuật, Phật giáo Việt Nam giai đoạn này, mà chủ thể là các tăng sĩ, thiền sư, đã có công đào tạo một lớp trí thức có trình độ uyên thâm cả Phật, Nho, Lão, nhưng lại không cố chấp và biết dung hợp những dị biệt giữa ba hệ thức triết lý này. Nhiều thiền sư am tường cả tam giáo (Khuông Việt, Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Viên giác, Mẫn Giác…), và sẵn sàng truyền thụ cho các môn đệ những tinh túy của các quan niệm chính trị – xã hội của Nho giáo. Khi nghị bàn chính sự họ cũng sẵn sàng sử dụng lý luận Nho học. Kiến thức Nho được sử dụng theo tinh thần Phật giáo đã đóng góp khá nhiều cho học thuật và chính trị đời Lý.
Dưới sự tác động, hướng dẫn tinh thần của các thiền sư, Phật giáo dưới thời Lý đã tạo dựng một bản sắc văn hóa chính trị đầy tính nhân bản. Nhà Lý đã được xem như một triều đại thuần từ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các vị vua của triều đại này có cuộc sống đạo đức và tâm linh. Đã không có cảnh tranh đoạt, bạo loạn, cực hình, mà thay vào đó bằng một đường lối chính trị khoan dung, độ lượng, từ bi với thần dân và với cả kẻ thù (vua Lý Thái Tông tha tội cho Nùng Trí Cao, vua Lý Thánh Tông không giết Chế Củ, vua Chiêm Thành). 
Phật giáo giai đoạn này cũng có những đóng góp to lớn đối với sinh hoạt văn học. Văn học Phật giáo đã trở thành dòng văn học chủ đạo của thời này. Những công trình kiến trúc và điêu khắc Phật giáo cũng đóng góp những giá trị mỹ thuật cho triều đại nhà Lý. Những công trình này giờ đây không còn lưu lại bao nhiêu, nhưng sử sách ghi lại là vào các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông đã xây, lập rất nhiều chùa, điện, tháp, tiến hành đúc, vẽ nhiều tượng, tranh Phật. Những công việc này không phải chỉ nhằm cho hoàng tộc, mà ở khắp nơi trong dân chúng. Một công trình nhà Lý mà nay vẫn là một trong những biểu tượng của dân tộc Việt, chính là Chùa Một Cột, được xây từ năm 1049, khi đó gọi là Chùa Diên Hựu.
Trong buổi đầu nhà Lý, các thiền sư còn can dự trực tiếp vào công việc chính sự. Triều đình cần đến sức học, tài ngoại giao, khả năng giáo dục, sự liên kết nhân tâm của họ. Nhưng đến đời Trần, tình hình đã khác đi. Các vua Trần là những người có tri thức, lại uyên bác Phật học. Nhưng dù vị trí trực tiếp trong công việc chính sự của các tăng sĩ không còn nữa, Phật giáo lại vẫn phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết, ảnh hưởng trực tiếp lên chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội đời Trần, trở thành một tinh thần dân tộc thời bấy giờ.
Với sự việc vua Trần Thái Tông chuyên tâm học Phật, vua Trần Nhân Tông xuất gia, xây dựng thiền phái Trúc Lâm, anh vợ của vua Trần Thánh Tông thì trở thành Tuệ Trung Thượng Sĩ, vua Trần Anh Tông cũng có chủ đích tu đạo sau khi nhường ngôi (nhưng chưa kịp thì băng hà), Phật giáo thật sự trở thành một thế lực tinh thần ủng hộ cho chính trị, và ngược lại, triều đình là một quyền lực củng cố cho Phật giáo. Có thể nói giai đoạn Nhân Tông là giai đoạn Phật giáo hưng thịnh cực độ ở nước ta.
Về phương diện văn hóa, Phật giáo giai đoạn này cũng là yếu tố chủ lực, quyết định. Cuộc đời tu học của Trần Thái Tông đã tạo ra một không khí học Phật thật sự trong giới trẻ, trí thức ở Thăng Long và trong cả nước. Tấm gương thành đạt trong Phật học của Thánh Tông và Tuệ Trung khi còn trẻ cũng là một động lực cho việc này.
Phật giáo đời Trần mang một tinh thần khoan dung và tự do. Chính đều này gây dựng nên những nét văn hóa xã hội, văn hóa dân tộc vào thời kỳ này. Phật giáo không chỉ trích Nho, Lão, mà để cho các giáo lý này tự do phát triển. Trong không khí học tập tự do và cởi mở, triều đình đãi ngộ hiền sĩ một cách kính cẩn, đã phát triển sự học lên rất nhiều, và cũng nhiều người tài giỏi xuất hiện. Chính từ tinh thần dung hợp và khai phóng này của Phật giáo mà nền học vấn thời Trần không bị ràng buộc bởi khoa cử, thực hiện chính sách tự do tôn giáo, không phân biệt sĩ phu được đào tạo từ truyền thống giáo lý nào. Điều đó đã xây dựng nên một nền văn học rạng rỡ và đầy ý thức tự tin. Thi ca thời Trần vì thế mà mang ảnh hưởng sâu đậm của thiền học, thi sĩ nhìn sự việc bằng con mắt của người biết tĩnh tâm thiền quán.
Sinh hoạt Phật giáo cũng là một nét đáng kể trong đặc điểm văn hóa thời kỳ này. Việc vua Nhân Tông – người đã đánh bại quân Nguyên, đem thịnh trị, an bình về cho xã tắc – xuất gia, khiến cả nước hướng về ngọn núi Yên Tử, việc tu luyện Phật pháp thật sự sôi nổi trong nước. Chùa, tháp mọc lên khắp nơi, khiến Nho gia Lê Bá Quát đã than rằng dân chúng chỉ lo lập chùa mà không lo lập trường học, văn miếu. Sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thì nói “số người cắt tóc làm tăng ni cũng bằng nửa số dân thường”. Tất nhiên thực tế khó mà đến mức như vậy, nhưng điều đó cho thấy tầm mức quá sức rộng lớn của sinh hoạt Phật giáo lúc đó, đến nỗi, ý thức được nguy cơ tăng sĩ quá đông mà không thủ trì nghiêm túc giới luật sẽ dẫn đến suy vong của chính giáo hội, phái Trúc Lâm đã in Tứ thần luật và tổ chức học tập cho giới tăng sĩ về giới luật, định ra những quy chế rõ ràng trong việc tổ chức, sinh hoạt, quản lý giáo hội.
Vào thời này nhà chùa cũng đã thực sự trở thành một lực lượng kinh tế. Điều này cũng dễ hiểu trước sự ủng hộ của triều đình và thế lực chính trị, xã hội, tinh thần của Phật giáo. Chùa chiền khắp nơi đã chiếm hữu nhiều ruộng đất. Sử sách còn ghi lại là ruộng đất được dâng tặng rất nhiều cho các chùa Báo Ân, Quỳnh Lâm, Sùng Nghiêm, Vĩnh Nghiêm, Thanh Mai, Côn Sơn, là những chùa lớn thời đó. Riêng chùa Quỳnh Lâm đã có hơn 1.000 mẫu đất và có tới 1.000 người làm ruộng. Lợi tức thu được từ đây có lẽ đã được sử dụng vào Phật sự và tăng sự của toàn giáo hội. [13]
Sau thời kỳ cực thịnh của Phật giáo từ đời Lý cho đến cuối đời Trần. Đến đời Trần Thiếu Đế thì bị Hồ Quý Ly ép phải nhường ngôi để lập nên triều đại nhà Hồ. Nhưng sau đó nhà Minh đem quân đánh nhà Hồ và đặt ách thống trị Đại Việt. Nhà Minh thực hiện chính sách đô hộ tàn ác và cho tịch thu kinh sách Phật giáo đốt phá chùa chiền (đầu thế kỷ 15). 
Mười ba năm sau Bình Định Vương Lê Lợi (với sự tham mưu của Nguyễn Trãi) đứng lên phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh giành lại độc lập và lập nên nhà Hậu Lê. Từ đó, lịch sử Việt Nam có thể chia làm 3 giai đoạn :
Lê Lợi chiến thắng giặc ngoại xâm và lên ngôi vua, đã đánh dấu bước chuyển quan trọng trong đời sống xã hội Việt Nam. Trên lĩnh vực tôn giáo Phật giáo đã nhường bước cho Nho giáo, điều này chủ yếu do đời sống chính trị xã hội Việt Nam quy định, đó là phải xây dựng củng cố nhà nước phong kiến, kỷ cương xã hội, mà Nho giáo có khả năng đáp ứng được. Tuy nhiên Nho giáo chỉ phổ biến chủ yếu ở tầng lớp trên của xã hội, còn ở đại bộ phận dân cư tác động của Phật giáo khá lớn.
Thời kỳ này Phật giáo dung nạp 3 yếu tố: Tịnh, Thiền, Mật kết hợp cả tự độ, tự giác và giác tha. Bên cạnh đó nhà Lê hạn chế tổ chức thi cử, một số lễ giáo, xây dựng chùa chiền… Nhìn chung vai trò Phật giáo thời này đã bị giảm sút so với trước. Phật giáo không trực tiếp tham gia vào việc triều chính như trước mà chủ yếu ảnh hưởng trong đời sống dân chúng. [14]
Vào thời Trịnh-Nguyễn phân tranh hai Đàng Trong-Ngoài với hai hoàn cảnh xã hội khác nhau. Đàng ngoài xã hội suy nên Phật giáo cũng không phát triển, trong khi Đàng Trong thì xã hội ngày một hưng thịnh.     
Cuộc sống nhân sinh trong thời đất nước suy vi cũng đã làm cho nhiều người quay về với đạo Phật. Đối với quần chúng, sự phản tỉnh này chỉ như một nguồn an ủi tâm linh làm nơi nương tựa tinh thần để vơi đi những khổ đau đang chế ngự trong lòng người dân Việt. Đối với vua quan, họ quy hướng vào đạo Phật và ủng hộ đạo Phật nhưng đây chỉ là để tạo dựng công đức cho dòng họ chứ họ không biết lấy tinh thần Phật giáo làm chủ đạo cho việc trị quốc an dân. Tuy nhiên, sự phản tỉnh của quần chúng và tầng lớp cai trị đã tạo thành môi trường thuận tiện cho sự phục hưng Phật giáo, sự phục hưng này được đẩy mạnh nhờ hai động lực.
Thứ nhất là có nhiều cao tăng từ Trung Hoa qua Đại Việt hành đạo, đem qua một nguồn sinh lực cho đạo Phật Việt Nam (đặc biệt lúc này là Phật giáo Đàng Trong).
Thứ hai là tầng lớp trí thức, đứng trước bao cảnh dâu bể của nhiều triều đại kế tiếp nhau đã bắt đầu xoay sang nghiên cứu Phật học, rồi nhiều người đã xuất gia để trở thành một nguồn nhân lực mới cho cuộc phục hưng Phật giáo. [15]
Từ năm 1788 đến 1802 , nhà Nguyễn Tây Sơn thống nhất đất nước, kéo dài 14 năm sau cái chết của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Nằm trong tiến trình của cuộc đại cách mạng canh tân đất nước, Phật giáo được cải cách bằng cách dẹp bỏ những chùa nhỏ ở các làng xóm để tập trung vật liệu xây ở mỗi Phủ, Huyện một ngôi chùa thật to lớn đẹp đẽ, khang trang và cho mời những Tăng sĩ có học thức và đạo đức đến trụ trì và hành đạo, còn những người không xứng đáng phải hoàn tục. Việc cải cách này xuất phát từ  tình trạng lạm phát chùa chiền và thoái hóa của Tăng sĩ trong thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Tuy cải cách này không mấy phù hợp với Phật giáo vì đạo Phật là một tôn giáo lan rộng khắp phố phường, làng mạc, bàng bạc trong nhân gian không thể quy tụ như công sở, nhưng dù sao thì đây cũng chỉ nằm trong nỗ lực nhằm thanh lọc và phát triển Phật giáo trong cả một chương trình phát triển đại quy mô. Nhưng vì vua Quang Trung mất sớm nên sự cải cách Phật giáo không có được một kết quả nào rõ rệt.
Tiếp đến là giai đoạn nhà Nguyễn Gia Long kéo dài từ năm 1802 đến 1945. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, triều đình Nguyễn Gia Long đã thực hiện hành động trả thù tàn bạo và khốc liệt của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ của phong trào Tây Sơn như Quật  mộ Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, đem giam sọ của hai người vào ngục tối, con của vua Quang Trung và công chúa Ngọc Hân cùng các danh tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và các tướng lãnh khác cùng vợ con kẻ thì bị xẻo thịt, chém đầu, voi dày xé xác. Do chính sách của Nguyễn Ánh, sợ ảnh hưởng của tôn giáo có hại cho chính trị, nên Phật giáo không được ưu đãi. [16]
Giai đoạn này, triều Nguyễn độc tôn Nho học. Do đó mặc dù các chùa trong nước rất nhiều, nhưng hoạt động riêng rẽ, không có một tổ chức, hệ thống liên lạc chặt chẽ với nhau, sự giao lưu phát triển về Phật học cũng suy giảm.
Đến thời Pháp thuộc (1858-1945), Việt Nam bị chia làm ba miền, và chính quyền Bảo hộ tìm mọi cách phát triển Công giáo, thì Phật giáo Việt Nam càng bị chèn ép. Một số ngôi chùa lớn cũng bị phá hủy.[14]
Phật Giáo Việt Nam đã trải qua thời cực thịnh nhất dưới hai triều đại Lý Trần, sang đến đời Hậu Lê rồi Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường bước cho Nho giáo, lúc ấy đang chiếm vai trò độc tôn. Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Đức thì mất chủ quyền, nước ta rơi vào vòng đô hộ của Pháp. Phật Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay lại điêu tàn hơn. 
Cho đến khoảng những năm 1920-1930, trong không khí tưng bừng của phong trào chấn hưng Phật Giáo trên thế giới, đặt biệt ở Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn Độ và Miến Điện, một số tăng sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra mắt vào 1934, ở Bình Định có hội Phật Học Bình Định, ở Đà Nẵng có hội Phật Học Đà Thanh, ra tạp chí Tam Bảo,.. 
Nhờ phong trào chấn hưng Phật Giáo này mà đội ngũ tăng ni được đào tạo qua nhiều trường lớp và phát triển nhiều ở các tỉnh. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhất là hệ thống chùa phật học ở các thành thị. Nhiều ngôi chùa ở làng xã được trùng tu và có chư tăng ni trụ trì. 
Đến tháng 11/1981, sau sáu năm đất nước thay đổi thể chế, một hội nghị với 165 đại biểu của chín tổ chức giáo hội hệ phái cả nước đã họp tại chùa Quán Sứ Hà Nội đưa đến việc thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam. [17]
Đến nay, đạo đức Phật giáo đã thật sự bám rễ vào đời sống tinh thần của dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm lý, phong tục, tập quán, lối sống con người Việt Nam. Đối với nhiều người Việt, khi nhắc đến Phật giáo, không chỉ là nhắc đến hệ tư tưởng giáo lý cao siêu mà còn là nhắc đến một nhân cách sống lý tưởng, một điều gì đó bình dị, gần gũi với tâm tư tình cảm của họ như: làm lành lánh dữ, từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha, không hận thù, oán trách... 
Đời sống tinh thần, phong tục tập quán của người Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng đức Phật. Chẳng hạn như: hiền như Bụt, từ bi như Bồ tát, ác giả ác báo, thiện giả thiện báo, hay ca dao có câu: ai ơi ăn ở hiền lành, kiếp này không hưởng để dành kiếp sau... Giáo sư Trần Văn Giàu có viết: “Tín ngưỡng Phật giáo phổ biến trong đại đa số nhân dân. Người dân không biết gì về triết lý cao xa của Phật mà chỉ biết cầu phúc, chỉ biết chuyện quả báo luân hồi. Từ lâu rồi, triết lý Phật giáo trở thành một thứ đạo đức bác học từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn là hạt nhân, chúng sinh có thể hiểu được, làm được, không cao xa rắc rối như triết lý Phật giáo nguyên thủy. Tự thân tích đức ở kiếp này để an vui, hưởng phúc ở kiếp sau.”
Có thể nói, các giá trị đạo đức của Phật giáo là một bộ phận không thể thiếu và rất phù hợp với đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Chúng được biểu hiện ở một số điểm: 
Một là, tính nhân văn, nhân bản, lấy con người làm trung tâm. Đạo Phật luôn đề cao vị trí và vai trò của con người. Điều này khác biệt với tôn giáo khác khi họ thừa nhận vai trò tối cao của thần linh trong việc quyết định số phận của con người. Đức Phật nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Chính vì xem con người là trung tâm nên toàn bộ giáo lý Phật giáo đều hướng đến các giá trị đạo đức nhân sinh của con người. 
Hai là, tôn trọng lợi ích và nhân phẩm của người khác. Tinh thần này được thể hiện qua “Ngũ giới”: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu của đức Phật nhằm thiết lập trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, xã hội và quốc gia. Ngũ giới của nhà Phật rất phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới, giúp cho xã hội ổn định, giảm bớt các tệ nạn xã hội, các giá trị đạo đức truyền thống được phát huy.
Ba là, hướng đến một nền hòa bình cho quốc gia và thế giới. Đạo đức Phật giáo với tư tưởng từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha, luôn đề cao và tôn trọng sự sống của mọi người mọi loài. Vì vậy đạo Phật luôn hướng đến sự an lành và hòa bình cho quốc gia và thế giới, phản đối các cuộc chiến tranh xâm lược, phản đối việc sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt, kêu gọi phóng sanh, bảo vệ môi trường sống. Điều này có điểm tương đồng và phù hợp với truyền thống yêu chuộng hòa bình của dân tộc.
Như vậy, cho đến ngày nay, đạo đức Phật giáo vẫn đã và đang ảnh hưởng mật thiết đến đạo đức con người Việt Nam. [18]
Như thế nào là một Phật tử? Một người theo đạo Phật (Phật tử) là người sống và thực hành theo những lời dạy (giáo lý) của Đức Phật. Nói theo kiểu dân gian, Phật tử là người đã, đang hay bắt đầu tu tập cho tâm tính thiện lành hơn, để trở thành người tốt hơn đối với bản thân mình và mọi người xung quanh. Họ cố gắng giảm bớt những tâm tính xấu trong tâm như tham lam, sân hận. Họ cũng đang tập sống theo những giới hạnh đạo đức theo như lời khuyên dạy của Đức Phật.
Làm thế nào để trở thành một Phật tử? Có hai cách để trở thành một Phật tử: cách chính thức và cách không chính thức. Cách chính thức là việc cam kết bản thân cố gắng sống theo những lời khuyên dạy của Phật là hành động mong muốn trở thành một Phật tử. Hành động đó thường được gọi là quy y theo đạo Phật, tức là tin tưởng nương tựa vào Đức Phật, Giáo Pháp và Tăng Đoàn tu sĩ. Đó là Tam Bảo, ba viên ngọc bảo của Phật giáo. Tất cả được bắt đầu bằng 3 hành động tự giác của mình là: Lễ lạy Đức Phật; Chấp nhận quy y; Tam Bảo Chấp nhận sống theo Năm Giới Hạnh Trong đạo Phật, không cần thiết phải có những nghi lễ chính quy cho việc trở thành một Phật tử, bởi vì đạo Phật nhấn mạnh sự thực hành giáo pháp chứ không đề cao những nghi lễ hay tục lệ!. 
Còn cách không chính thức là bạn có thể ở nhà, ở bất cứ nơi đâu, trước một hình hay tượng Phật hoặc không có gì, bạn chỉ cần quỳ hay ngồi xuống, đọc những câu trên một cách thành tâm như một lời hứa với chính bản thân mình, thì bạn cũng đã trở thành một Phật tử.
Cũng vì tính linh động trong việc thực hành Phật giáo nên tồn tại cả Phật tử tại gia và các tu sĩ Phật giáo. Với các Phật tử tại gia, họ cũng làm việc, có gia đình và trải qua những thăng trầm của cuộc đời. Một số Phật tử khác thì có tâm nguyện cao hơn, họ rời xa gia đình, cha mẹ, thậm chí vợ con để xuất gia trở thành một tu sĩ, cống hiến toàn bộ cuộc đời để tu tập theo giáo lý của Đức Phật với mong muốn giác ngộ và giải thoát sớm hơn. Họ thường gia nhập vào những Tăng đoàn (nam) hay Ni đoàn (nữ). Phần lớn số lượng Phật tử trên thế giới là Phật tử tại gia. [2]
Tổng kết lại, thông qua câu chuyện về hành trình phát triển, tầm ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam, người viết hy vọng có thể đem đến một góc nhìn toàn cảnh hơn về ý nghĩa thật sự của đạo Phật. Bởi điều đáng buồn là dù Phật giáo hướng đến sự giải thoát khỏi những tham, sân, si thì việc thực hành Phật giáo của nhiều người hiện tại lại là một mưu cầu cho chính sự tham, sân, si ấy. Sự phát triển của Phật giáo ở xã hội hiện đại, vì vậy, nên được nhìn nhận như thế nào? Câu hỏi này, mình mong sẽ được cùng các bạn bàn luận.