KHÔNG THỂ THÀNH NGƯỜI
      Trong bọn tôi chỉ cần có một kẻ nào đó hoài nghi kêu lên: “Không thể được, anh em ơi, lũ chúng ta không thành người được!” là lập tức mọi người gật đầu tán thưởng: “Đu-u-ú-ng! chí phải, chí chí phải, không thể thành người!...”. Và không bới đâu ra một người phản bác: “Sao lại thế! Phải tự trọng chứ!”
      Hồi còn trẻ, có một lần, dạo ấy tôi vào quãng hai mươi nhăm tuổi, bầu nhiệt huyết còn sôi sục, tôi đã cả gan chống lại luận thuyết đó.
      Lúc đấy, tôi đi tàu thủy ra đảo Hoàng Nam. Trên tàu bỗng có một người đàn ông đứng tuổi càu nhàu một mình, đến hung thần cũng không hiểu vì sao tự nhiên lại thế.
Xin lỗi các người, làm sao chúng ta có thể thành người được!
     Mọi người có mặt trong phòng khách lúc ấy đều gật đầu đồng ý.
     Riêng tôi thì nóng mắt cự lại:
Sao lại không thành?! Còn thành thế nào nữa!... Dứt khoát là thành!... Mà còn thành những người làm chấn động địa cầu là khác!
    Mọi người trong phòng khách tuồng như ăn ý với nhau từ trước, dồng thanh kêu ầm lên:
Bậy nào, bậy nào, không thể thành người được!...
Chúng ta còn lâu mới đuổi kịp thiên hạ!
Chúng ta không thể thành người được!
Được mọi người hỗ trợ, ông già kia bớt nóng:
Nghe thấy chưa, con?... Các vị đây đều nhất trí ủng hộ tôi đấy. Như thế nghĩa là quả thật chúng ta không thành người được. Con xem, có ai buộc các vị kêu lên thế đâu.
Thành người!... Nhất định sẽ thành người! – tôi lặp lại.
Ông già cười nhạo:
Đó, con vừa nói: “Nhất định sẽ thành người”. Chữ sẽ như thế nghĩa là trước đây và bây giờ chưa thành người chứ sao.
     Từ bấy đến nay bao nhiêu năm trôi qua mà lúc nào tôi cũng băn khoăn: “Vì sao chúng ta không thành người được?”.
     Lần đi tù mới đây đã mở cho tôi đôi mắt: cuối cùng tôi đã tìm ra câu đáp.
     Trong tù tôi bị nhốt vào một khám lớn của tù chính trị. Quanh tôi là cả một xã hội trí tuệ: các nhà doanh nghiệp nổi tiếng, các nhân sĩ lỗi lạc, các ngài tỉnh trưởng, các quan đốc học, các cựu nghị sĩ, các chính khách xuất chúng, các vị đại thần, các bậc kỹ sư, các bác sĩ danh vang toàn cõi. Hầu hết những người này đều đỗ đạt tận châu Âu, châu Mỹ, đã từng xuất dương và biết đến vài ba thứ tiếng.
     Mặc dù cách nhìn đời của tôi và họ còn khác xa nhau, nhưng trước hết là nhờ có họ mà tôi hiểu ra được rất nhiều điều về cái sự tại sao chúng ta không thành người được.
     Những ngày tiếp người nhà, tôi được nghe toàn những tin xấu: lúc thì gia đình tôi không trả được tiền nhà, lúc thì chịu tiền ông chủ quán nước, và biết bao nhiêu chuyện dằn vặt khác nữa. Tôi thấy nặng nề, ủ dột.
    Tệ hơn nữa là tôi có mặc cảm tuyệt vọng.
    Bấy giờ chỉ còn một lối thoát: phải lập tức ngồi viết tiểu thuyết. May ra có một tờ báo nào chịu đăng tải thì tôi kiếm được ít tiền. Nội dung cuốn sách đó tôi cũng đã thai nghén từ lâu.
   Đã quyết là làm, tôi bèn đi kiếm một cây bút máy, một xấp giấy rồi ngồi chéo khoeo trên giường mà viết. Không được lãng phí thời giờ! Phải chấm dứt chuyện trò ba láp hoặc ngồi không nghĩ vớ nghĩ vẩn!
   Chưa viết được mươi dòng thì một vị phạm nhân, đầu óc sáng láng đến gần tôi:
Chúng ta không thể thành người được! – Vị ấy tuyên bố ngay – Quyết không, quyết không!
   Tôi nín im.
Anh nói sao tôi nghe nào? – vị ấy gặng – Tôi đã ăn học ở Thụy Sĩ, sáu năm làm việc ở Bỉ.
  Rồi ông ta kể lể dài dòng và cặn kẽ về cuộc sống ở hai nước đó. Tôi phát rầu rĩ vì bị quấy quả đột nhiên, nhưng biết làm sao được. Thỉnh thoảng tôi đưa mắt nhìn xuống, cố ý cho ông ta hiểu rằng tôi rất bận và mong ông ta đứng dậy. Than ôi! Bạn tôi nào có biết phán đoán. Ông ta cứ thế mà nhớ đâu nói đấy:
Bên đấy anh sẽ thấy không ai không cầm sách vở. Một người Thụy Sĩ hoặc một người Bỉ có được vài phút rỗi rãi là họ mở sác ra ngay. Đi ô tô, đi tàu hỏa, chỗ nào cũng đọc. Mà giá anh thấy họ trong nhà cũng thế! Lúc nào cũng đọc, đọc và đọc...
Chà, ghê thật, ghê thật! – Tôi ngắt lời ông ta với hy vọng ông ấy tha cho tôi nhờ.
Ghê hẳn đi chứ lỵ! – ông ta nói tiếp. – Còn bây giờ anh cứ thử nhìn những người xung quanh đây xem. Ai cũng nhận mình là trí thức mà không có ai cầm sách cả. Không, bạn thân mến của tôi ơi, chúng ta không thành người được.
Ông nói quả đúng – tôi đồng ý.
Tôi vừa nói thế, ông ta liền hăng tiết lên gấp hai lần và lại tiếp tục câu chuyện người Bỉ, người Thụy Sĩ đọc sách mọi nơi mọi lúc.
Đến giờ ăn trưa. Chúng tôi cùng đứng lên.
Chúng ta không thành người được. Bây giờ anh đã rõ vì sao như thế chưa? – ông ta hỏi.
Rõ – tôi đáp.
Thế là tôi mất đứt nửa ngày để nghe một bài giảng về lòng hiếu sách của người Thụy Sĩ và người Bỉ.
     Nuốt vội vàng mấy hạt cơm trưa tôi lại leo lên giường viết sách. Tờ giấy trên đầu gối, cây bút trong tay, tôi vừa ngồi vừa nghĩ.
     Chưa viết được một chữ lại một người quen bước đến:
Anh làm gì vậy?
Tôi viết tiểu thuyết.
Ở đây viết không ra cái gì đâu. Anh này ngộ thật!... Anh đã ở châu Âu lần nào chưa!
Không, tôi chưa bao giờ ra khỏi đất Thổ.
Tiếc quá! Thế thì anh phải đi châu Âu mới được. Sống bên đó, được tận mắt nhìn thấy mọi vẻ sinh hoạt là điều rất thú vị. Những chuyến đi ấy làm con người mở rộng được tầm mắt. Tôi đã đi hầu khắp châu Âu, có lẽ không nước nào không đặt chân tới. Lâu nhất là thời kỳ tôi ở Đan Mạch, Hà Lan và Thụy Điển. Ở các nước đó mọi người tôn trọng nhau hết sức. Thậm chí người ta không nói to để khỏi phiền người bên cạnh. Còn ở nước ta, anh xem! Muốn thủng hai màng nhĩ! Có lúc tôi muốn chợp mắt một tý, muốn đọc hoặc viết một tý, tôi thiếu gì việc phải làm hả anh, thế mà cũng không được. Ồn như chợ vỡ thế này anh không viết tiểu thuyết được đâu. Không thể viết được.
Ồn như chợ vỡ tôi cũng viết được. Tôi chỉ không viết được khi bị người khác lải nhải bên tai mà thôi.
Bạn thân mến ơi, nhưng được yên tĩnh thì thích hơn biết mấy. Có phải thế không? Họ có thể nói nhỏ được quá chứ lỵ. Ở Đan Mạch, Thụy Điển, Hà Lan không có ai bất lịch sự như thế bao giờ. Dân chúng người ta tân tiến vì biết tôn trọng lẫn nhau.
     Ông ta cứ nói lảm nhảm hết chuyện này chuyện khác, lôi ra trăm thứ dẫn dụ để minh họa cho trình độ lịch thiệp và giáo dục của người châu Âu.
     Tôi cúi xuống mặt giấy và bắt đầu viết. Nói đúng hơn là tôi làm ra bộ viết. Hẳn như thế là bất nhã nhưng tôi còn biết làm sao khác được?
Đừng hoài công vô ích – ông bạn lại nói – không viết được gì đâu. Viết thế anh chỉ làm hỏng đầu óc. Nước Thổ chứ có phải là châu Âu đâu. Anh có biết một người dân châu Âu thì phải thế nào không? Trước hết là phải có lòng tôn trọng người bên cạnh mình. Còn ta thì sao? Bạn thân mến của tôi ơi, chính vì lẽ đó mà chúng ta không nên người được đâu. Không, chẳng thể nào được!
     Chắc ông ta chưa chịu kết thúc ngay, nhưng may quá, luật sư của ông ta đến cứu nguy cho tôi.
     Sợ rằng lại có người khác đến ám, tôi cúi gằm hẳn mặt xuống.
     Vừa viết được hai dòng, lại một ông bạn cùng xà lim bước đến.
Chúc anh thành công! - Ông ta nói.
Cám ơn bác – tôi dáp.
Ông ta ngồi xuống giường tôi nói:
Còn xa chúng ta mới thành những người chân chính...
     Tôi không hé răng nửa lời hòng chặn đứng câu chuyện ngay từ khởi thủy.
Anh đã sang Mỹ bao giờ chưa? – ông ta hỏi.
Chưa.
Tiếc thật! Anh được ở đó vài tháng anh sẽ hiểu ngay vì sao chúng ta lạc hậu thế này. Người Mỹ đâu có như ta, họ không thích tán gẫu. Bên họ có câu: “Time is money” – “Thời gian là vàng bạc”. Người Mỹ chỉ đến với anh khi có việc. Họ nói vài câu cần thiết rồi đi làm việc khác. Còn nước Thổ ta thì sao? Cứ lấy chúng ta ra mà xem. Chúng ta đang làm gì? Tán dóc chứ sao. Tán hết ngày này qua tháng khác! Ở Mỹ như thế thì đừng có hòng. Chính vậy mà họ tân tiến.
     Tôi thở dài liên tiếp, lòng thầm mong ông ta hiểu cho là tôi rất bận và ông ta đi đi cho rồi. Nhưng ông ta cứ tiếp tục khoa đại ngôn như chẳng hề hám chuyện gì cả.
     Đến giờ ăn tối. Trước khi cáo lui, ông ta bảo:
Chúng ta không thành người được. Đúng thế. Cứ cái lối sa đà trò chuyện thế này thì chẳng có bao giờ nên người.
Bác nói thật chí lý – tôi đáp.
     Khoắng vội cho xong bát cơm, tôi quay về làm việc. Tiểu thuyết! Phải viết tiểu thuyết!
Cái chính là phải lao động. Những việc khác là phụ - Tôi bỗng nghe có tiếng người nói.
     Ngẩng đầu lên tôi đã thấy một bạn cùng khám đứng cạnh.
Theo anh thì sao? – anh ta hỏi và ngồi xuống giường bên.
Ai dám tranh luận chuyện đó? Lao động cần quá đi chứ - Tôi đáp.
Bố mẹ tôi giáo dục tôi theo tinh thần nước Đức...
Tôi giận đến tím ruột.
Còn anh bạn thì sôi nổi tiếp tục:
Tôi tốt nghiệp trường licée Đức ở Istanbul rồi sang Đức học đại học, sau đó tôi ở lại làm việc bên ấy nhiều năm. Người Đức chả có ai ăn không ngồi rồi cả. Còn bên ta thì thế nào? Cứ lấy tất cả những người trong khám này ra làm bằng mà xem. Không. Không, chúng ta không thể thành người được. Còn lâu chúng ta mới là những người chân chính!
     Tôi hiểu ra: ban ngày người ta không cho tôi viết tiểu thuyết. Cố viết, tôi chỉ giết chết thần kinh của mình mà thôi. Bây giờ chỉ còn nước đợi đến đêm cho mọi người đi ngủ cái đã.
     Anh bạn không mời mà đến của tôi lại thao thao về đất nước Đức.
     Ở Đức mà ngồi không ăn bám là điều sỉ nhục. Người Đức dù bị số phận xua đuổi đến đâu đi nữa cũng không bao giờ chịu ngồi bó gối, thế nào họ cũng phải tìm được một việc gì đó mà làm. Một lẽ đương nhiên là không thể không lao động được. Còn đây là một dẫn chứng phản diện: chúng ta đã nằm đây mấy tháng rồi, thử hỏi có ai làm gì hay không? Đụng đến chuyện đấy là người ta lấy làm lạ: trong tù thì làm gì được! Một người trí thức Đức sẽ không nói như vậy. Ông ta sẽ ngồi viết hồi ký, viết báo, lo nghĩ công việc của mình hoặc đọc sách báo, tóm lại, ông ta không có chơi bời phí phạm. Còn chúng ta thì sao? Anh muốn nói gì thì nói, chúng ta không thể thành người được.
     Đến tận nửa đêm anh ta mới về. Bây giờ có thể làm việc được rồi. Không còn ai đến ngồi quấy phá và lên lớp cho tôi về chuyên đề lý do khiến chúng ta không nên người được.
    Chao ôi, tôi đã lầm to: lại có người đến. Người này đã lăn lộn nhiều năm bên Pháp. Ông ta khe khẽ thì thầm sợ phiền đến giấc ngủ mọi người. Theo lời ông, người Pháp là người biết làm việc ra trò, nghỉ ngơi và vui chơi ra trò, dân tộc đó không bao giờ lẫn lộn thời gian làm việc với thời giờ nghỉ ngơi. Rồi ông ta khuyên tôi không nên làm việc quá nửa đêm như thế.
Bây giờ anh đi ngủ ngay đi, sáng mai đầu óc tỉnh táo anh lại tiếp tục viết. Bên nước ta mọi thứ cứ lùng nhùng với nhau: lao động, nghỉ ngơi, giải trí, không cái gì ra cái gì cả. Lúc nghỉ thì mình làm việc, giờ làm việc mình lại muốn nghỉ. Đấy cứ bảo tại sao chúng ta không biết làm việc cho có năng suất. Không bao giờ chúng ta thành người được đâu. Không bao giờ!
     Lúc ông ta đi thì tôi cũng không còn sức để viết được nữa. Hai mí mắt tôi cứng lại. Tôi lăn ra ngủ vùi.
     Sáng hôm sau tôi dậy thật sớm, lúc chưa ai dậy, và lại bắt tay vào việc.
     Có một người cùng kám mà tôi rất kính nể vừa đi ngoài về.
     Thấy tôi ông ta bước lại.
Mọi thứ ở bên Anh không có như bên ta – ông nhận xét – Anh đã ở bên Anh bao giờ chưa?
Chưa ạ.
Anh cứ hình dung như anh đang ở bên đấy và đang đi tàu. Người cùng phòng với anh suốt nửa ngày không thèm nói câu nào. Bên ta mà thế thì lại bảo: “Cái thằng kênh kiệu! Mặt lạnh như tiền!”. Nhưng đó có phải tại người ta lạnh lùng và kênh kiệu đâu – đó là người ta rất có ý thức và rất tế nhị. Biết đâu anh không thích nói chuyện với người ta thì sao. Cơn cớ gì mà người ta làm phiền đến anh! Còn bên ta thì sao? Anh ta có quên anh hay không, anh đang bận hay đang rỗi, mặc! Anh ta cứ mở miệng tán phét. Chính vì thế mà chúng ta chẳng bao giờ thành người được cả.
     Tôi vò nát tờ giấy trên đầu gối, quẳng xuống gậm giường và nhét bút vào túi.
     Thế là hết!... Thế là tiêu tan cái mộng tiểu thuyết của tôi. Phải, trong tù tôi không viết được gì cả. Nhưng nhà tù đã mở ra cho tôi một chân lý trăm ngàn lần quý hơn cuốn sách thai nghén kia. Tôi đã hiểu vì sao chúng ta không thể thành người được.
     Bây giờ chỉ cần một người nào đó đứng bên tôi bảo rằng: “Không, chúng ta không thể thành người được!...” thì lập tức tôi giơ tay hô lớn:
Tôi biết lý do rồi!
     Tôi trưởng thành hẳn lên.
Tác giả: A-zit Nê-xin (Aziz Nesin), người dịch: Đức Man.