Suốt cả tuổi thơ, tôi lẽo đẽo theo mẹ bê một cái mẹt hàng đi bán. Cái mẹt chỉ bằng mâm ăn cơm, trên có vài bao thuốc lá, hai cái bát đựng ô mai, một nhúm táo ta, vài củ đậu, chục gói lạc rang và mấy trái dưa chuột. Mẹ để cái mẹt trên ghi-đông xe đạp, vừa giữ cho nó không bị lật, vừa điều khiển xe, vừa ngồi yên để tôi ngồi sau bám lấy bụng cho thật chặt.
Hai mẹ con thuộc lòng giờ chiếu và giờ tan tầm của mấy rạp chính trong thành phố. Phải tính toán làm sao để đến nơi khi người xem vẫn còn một chút thời gian dừng lại mua một gói ô mai hay châm một điếu thuốc. Trong khoảng thời gian ấy, tôi có nhiệm vụ quan trọng là đứng canh... công an.

Bắt cóc bỏ dĩa

Thật không gì khổ bằng bị đuổi. Chỉ cần nghe tôi hét lên "công an" là gần chục bà bán hàng như vỡ trận, bỏ lại sau lưng nào ghế, nào nón, nào khách hàng còn chưa kịp trả tiền. Khi đó tôi còn quá nhỏ để thấy đau lòng trước cái cảnh bỏ chạy trong cuống quýt, nhớn nhác, hốt hoảng ấy. Tôi chỉ thấy tự hào vì đã lập công cứu mẹ.
Thế rồi một hôm, mẹ chạy chậm, bị bắt vào đồn. Mẹt hàng bị tịch thu, cả cái ghế con đóng bằng 3 mẩu gỗ ghép lại, cả cái làn nhựa rách phải mạng bằng sợi nilon. Mẹ khóc tướng lên: "Tôi từng là bộ đội đấy. Tôi có cả huân chương chống Pháp lẫn chống Mỹ đấy. Chồng tôi là sỹ quan đấy. Nghèo thì mới phải bán hàng ngoài vỉa hè. Các chú cho tôi đường sống để còn nuôi con."
[...] Gần 40 năm qua đi, nhưng cảnh tượng công an dẹp những người bị coi là chiếm dụng vỉa hè thì vẫn y nguyên như cũ. Trong một lần về thăm nhà, tôi đã bật khóc khi thấy một chủ quán sinh tố giằng co mấy túm củ đậu với công an. Củ lăn lóc một đằng, rễ nắm trong tay một nẻo, cả người dân lẫn người thi hành công vụ đều ngã bổ chửng. Có lần tôi gợi chuyện, tâm sự với một bạn công an. Chàng trai còn rất trẻ, đau khổ nói thành thực: "[...] Bắt cóc bỏ dĩa. Tụi em không thực hiện luật lệ thì không được, mà làm thì thương bà con tiểu thương vô cùng. Nhiều lúc đành đi xe chậm, nói loa thật to để bà con có thời gian chạy thu hàng vào trong".
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Huyết mạch kinh tế

Suốt bao năm qua, những người sống bám vỉa hè, bám lòng đường có thể khiến ta có cảm giác lộn xộn, nhếch nhác. Đùng một cái, đại dịch ập tới, cái sự lộn xộn nhếch nhác đó bỗng hiện nguyên hình là huyết mạch kinh tế của hàng triệu người, cả giàu lẫn nghèo. Đóng cửa cái là họ lăn đùng ra ngắc ngoải, kéo theo sự suy sụp bất thình lình của cả một hệ thống cung ứng những thứ thiết yếu hàng ngày như miếng cơm miếng nước cho cả một cộng đồng xung quanh.
Sự tan hoang của nó bật lên một sự thật rằng, kinh tế đô thị Việt Nam phụ thuộc phần lớn vào quán xá vỉa hè và bà con tiểu thương. Chỉ cần một cái xe hủ tiếu cũng đủ nuôi sống cả gia đình. Chỉ cần một khoảnh đất nhỏ hơn mét vuông cũng đủ để làm cửa hiệu. Đó cũng là nền kinh tế nương vào nhau mà sống. Một tẹo không gian thôi mà sáng sớm người bán bún, ban ngày người bán cà phê, tối mịt người tranh thủ làm khay hạt dẻ nướng. Ngõ hẻm nào biết đoàn kết thì cái dây điện hay cái ghế nhựa cũng dùng chung.
Một gian hàng vỉa hè
Một gian hàng vỉa hè
Cũng như trước đây nhiều người dè bỉu nghề đưa hàng, giờ đây ta mới có thể nhận ra không có shipper thì xã hội đứt gãy. Tiểu thương vỉa hè cũng vậy. Không có họ, nền kinh tế của một đô thị cũng có thể lao đao. Theo Giáo sư Annette Kim - tác giả cuốn Sidewalk City - nền kinh tế vỉa hè hiện cung ứng tới 30% việc làm và lượng thực phẩm cho Thành phố Hồ Chí Minh.
Mô hình chợ làng và buôn bán nhỏ lẻ từ xa xưa đã luôn là huyết mạch chính nuôi dưỡng cơ thể đất nước. Từ thời phong kiến, những mẹ những chị "quanh năm buôn bán ở mom sông" như trong bài thơ của Tú Xương chính là con thoi vận hành nền kinh tế của một xã hội nặng tính làng xã với quy mô kinh tế nhỏ bé, khiêm nhường. Những cuộc chiến liên miên, những biến động thời cuộc, những năm dài đô hộ cũng khiến hình thái buôn bán nhỏ được ưa chuộng hơn vì nó dễ làm dễ sống. Can qua khốc liệt thế nào, chết đi rồi nó vẫn có thể hồi sinh nhanh chóng.

Không chỉ là vấn đề kinh tế...

Ngoài vai trò là phương tiện kiếm kế sinh nhai của nhiều người, vỉa hè và tiểu thương còn là một văn hoá. Theo bà Annette Kim, đó là một không gian cộng đồng dù nhỏ bé nhưng vô cùng thiết yếu. Cởi mở, thân thiện và đầy tính hợp tác, vỉa hè không những là nơi sinh nhai của hàng triệu con người mà còn là nơi trẻ con chơi đùa, người rảnh việc đọc báo, người lao động dừng chân tránh nắng, bác tài ngoẹo cổ làm giấc trưa, bà con tám chuyện và hỏi thăm lẫn nhau. Nhà quy hoạch Nguyễn Đỗ Dũng cho rằng bản sắc độc đáo của đô thị Việt Nam là cái tình làng xóm vẫn ẩn trong lối sống thành thị. Đó là nơi con người vẫn còn có thể nói chuyện với nhau.
Đối với khách du lịch, cảnh sinh hoạt buôn bán trên vỉa hè và đường phố là nét văn hoá Việt đặc trưng và cuốn hút. Khi họ nói về đô thị Việt Nam, 40% các chủ đề trao đổi liên quan đến vỉa hè. Họ yêu thích các món ăn dân dã, ngồi trên ghế nhựa uống cà phê và hoà mình vào cuộc sống sống động xung quanh mà không hề biết chán.
Tranh biếm họa về kinh tế vỉa hè thời xưa
Tranh biếm họa về kinh tế vỉa hè thời xưa
[...] Trên giấy tờ chính sách, chức năng của vỉa hè chủ yếu là dành cho người đi bộ. Buôn bán bị dẹp chủ yếu vì cản trở người đi bộ. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của Giáo sư Annette Kim đã quan sát và kết luận rằng các hoạt động buôn bán chỉ chiếm từ 10-40% không gian của vỉa hè. Thứ chiếm dụng lớn nhất là "chỗ đậu xe". Câu hỏi nghiên cứu trên đặt ra là, liệu chúng ta có nên đánh đổi không gian văn hoá cộng đồng quan trọng này bằng cách o bế tiểu thương để hy sinh cho một yếu tố, tuy cũng quan trọng nhưng không mấy đóng góp cho văn hoá đô thị, là việc đỗ xe?
Cũng theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), khoảng 2,5 tỷ người chọn ăn trên phố mỗi ngày. Tính đến năm 2007, quán xá vỉa hè ở Bangkok cung cấp 40% thực phẩm cho người dân bởi hai phần ba số hộ gia đình ăn ngoài hàng ngày.
Có cung thì ắt có cầu, nên cấm kiểu gì cũng khó. Và kết cục là, trên văn bản thì cấm, ngoài thực tế thì phải thả nổi. Đó chính là lý do khi ông Đoàn Ngọc Hải kiên quyết làm quang vỉa hè theo đúng luật thì bà con tiểu thương Quận 1 mới dùng luật bất thành văn mà hỏi lại: “Từ xưa các ông có xuống đâu?”

Nhìn nhận để thay đổi

Mạnh dạn bứt ra khỏi cái vòng luẩn quẩn suốt mấy chục năm qua chính là thành phố Huế. Đây là đô thị đầu tiên thí điểm bán hàng trên vỉa hè có thu phí. Cũng như nhiều nước châu Á khác đang thay đổi lại cách nhìn, chính quyền Huế dường như đã nhận ra sự bế tắc của việc đuổi dẹp suốt gần nửa thế kỷ qua. Họ nhận ra vị trí kinh tế và văn hoá của những quán hàng nhỏ bé nhưng trĩu nặng bản sắc của người Việt. Họ nhận ra không phải tự nhiên mà nét đời ấy tồn tại và có sức sống mãnh liệt bất chấp thời gian và luật lệ.
Một khi đã có tính chính danh, vỉa hè sẽ được chia sẻ công bằng hơn, rõ ràng và văn minh hơn giữa người đi bộ và tiểu thương. Được minh oan, sự nhếch nhác, tạm bợ và lộn xộn sẽ có cơ hội trở nên chỉn chu hơn, vừa mắt hơn, biết nhường nhịn nhau hơn, phát triển bền vững hơn. Biết đâu, khi bà Bảy bán bún bò không sợ bị công an thu đồ nữa, bà sẽ thay cái ghế nhựa gãy chân và cắm thêm một bình bông trên bàn cho vui mắt?
Và nay khi Sài Gòn đã cho phép quán xá mở cửa, dù chỉ là bán mang đi, nếu được gặp lại những gương mặt hồ hởi mời chào ấy, ta sẽ hiểu rằng đó không chỉ là bát hủ tiếu hay tách cà phê. Đó đã trở thành một phần đời của ta khi tự nhận mình là người phố thị...
*Ký ức tuổi thơ khiến tôi luôn nhìn thấy trong mỗi sấp ngửa của tiểu thương đô thị hình ảnh của mẹ. Khi cơn đại dịch này qua đi, hy vọng những người hoạch định chính sách sẽ có cái nhìn khoan dung, cởi mở và mang tính bền vững hơn với nhịp sống của một không gian văn hóa thân thương có tên vỉa hè.*
Tác giả: Nguyễn Phương Mai
Bài viết đã được hiệu đính bởi người đăng bài.