Tôi quen anh trong chuyến đi Hội An đầy vội vã và chán nản. Đó là chuyến du lịch cùng công ty mới đầy uể oải và tôi chỉ quyết định đi ngay trước đó một hôm sau lần nói chuyện gay gắt với sếp. 
"M, sao mày lại không đi du lịch cùng công ty? Lý do mày đưa ra thật nực cười. Tao phải bảo với chủ công ty rằng nhân viên của tôi không đi du lịch vì cô ấy muốn ở nhà nghỉ ngơi, không muốn đi đâu sao? Điều đó có phải là một lý do hợp lẽ thường tình không?"
Suốt chuyến hành trình từ Sapa về Hà Nội, tôi đã kể cho T nghe về câu chuyện xảy ra giữa mình và sếp. T bảo: "em có thể trút mọi bực dọc lên anh nhưng hãy quyết định đi. Vì rõ ràng là em đang phân vân. Và một khi em đang phân vân nghĩa là em nên nghe theo lý trí thay vì con tim."  Tối hôm đó, tôi xếp quần áo vào va li, chuẩn bị tâm trạng cho một chuyến đi nặng nề sắp tới. 
Ngày đầu tiên đến Huế. Không nhiều cảm xúc ngoài việc cả đoàn vội vã vào thăm Đại nội để quay về Phá Tam Giang cho kịp ngắm hoàng hôn. Cả ngày mệt nhoài. Tối về đến khách sạn, tôi chẳng buồn tắm rửa mà đi ngủ luôn. Mặc mấy người đồng nghiệp tranh thủ ngắm nghía phố phường của thành phố mộng mơ. 
Trong danh sách điểm đến năm nay của mình, tôi nhớ mình đã liệt kê Huế. Tôi đã mơ mình đến Huế trong một chiều tím ngắt, ngắm nhìn dòng sông Hương thơ mộng lững lỡ trôi, xem màu hoàng hôn ở phá Tam Giang, ghé chùa Linh Mụ, khám phá Đại nội và đến thăm căn gác Trịnh. Nhưng rồi chuyến đi này, đã hút cạn kiệt chút năng lượng còn sót lại của tôi sau chuỗi ngày sự kiện thiếu ngủ. Huế trong trí nhớ của tôi, rốt cuộc, chỉ thoáng chốc như vậy. Không một chút gợn lòng. Không phải nơi đầy lưu luyến và buồn bã như người ta vẫn viết trong những áng văn thơ. Ừ thì thôi, sẽ có ngày tôi quay lại Huế, như dự định của năm nay, dù không quyết tâm nhưng bằng cách nào đó, tôi cuối cùng cũng đạt được. 
Rời cố đô vào sáng muộn sau một giấc ngủ dài, một cung đường chạy dọc bờ sông Hương và một bữa búp phê sáng muộn thảnh thơi, xe chúng tôi rời bánh vào Hội An trong cái nắng hanh hao của những ngày cuối tháng 9. 
Đêm đó tôi đã hẹn với Thành nhờ cái lịch trống duy nhất trong lịch trình với công ty. Thành đón tôi tại khách sạn bằng ô tô và bằng cách nào đó đã đưa tôi đến nơi định mệnh của đời mình. Nơi tôi gặp anh. Đó là quán ăn nhỏ, cũ kỹ, xa với khu phố chính đông người. Thành bảo quán này có món hủ tiếu nổi tiếng nên dẫn tôi tới đây. 
Và bằng cách tình cờ nào đó, anh ngồi cạnh bàn chúng tôi, trò chuyện cùng bác chủ quán bằng ngôn ngữ cơ thể và nhăn mặt mỗi khi uống xong một chén rượu được mời. Tôi, cũng tình cờ, bằng cách thú vị nào đó, trở thành phiên dịch viên bất đắc dĩ cho anh. Vừa lo lắng khi thấy anh phải uống, vì lịch sự, vừa buồn cười, vì anh sắp ngà ngà say.
 Sau vài ba câu chuyện ban đầu, tôi và Thành rời quán, ra biển dạo chơi. Anh thấy chúng tôi rời đi, cũng vội vã rời đi theo. Chắc vì sợ những thịnh tình khó chối từ bác chủ quán. Chúng tôi nói lời tạm biệt không nhiều lưu luyến, như những người lữ khách gặp nhau trên những hành trình vô định, hỏi thăm dăm ba câu rồi gật đầu chào không hẹn ngày gặp lại. Để chắc anh vẫn ổn, tôi hỏi thăm thêm dăm ba câu. Anh bảo anh sẽ đạp xe loanh quanh ra phố. Rồi chúng tôi cùng gật đầu cười và bảo: “Take care”. Tôi và Thành lái xe ra biển sau vài cuốc lòng vòng vì trời tối. 
Anh nhắn hỏi tên tôi qua Whatsapp vì vội vã chưa kịp hỏi tên sau khi nhờ tôi gửi lại bức ảnh chụp anh cùng bác chủ quán. Tôi trả lời theo phép lịch sự dù trong đầu vẫn băn khoăn: để làm gì cơ chứ? Rồi cũng theo phép lịch sự, tôi mời anh đi dạo biển cùng nhưng anh ngượng ngùng từ chối.
Đó là một góc thoáng còn sót lại của Cửa Đại, nơi gần như đã bị xâm chiếm bởi sụt lún và bởi các khu resort đang mọc nhanh như nấm. Thành bảo Thành thường ra đây nằm đọc sách và ngắm các cô gái tây mặc bikini. Đó có lẽ là khoảng thời gian thật sự bình yên và có đôi chút bình lặng của Thành, tôi cho là vậy. Đêm đó, chúng tôi ngồi trên đá, uống bia, lặng yên nghe tiếng sóng, nói dăm ba câu chuyện vu vơ và dõi theo một nhóm trẻ con địa phương vui đùa đi bắt còng đêm. Đó là một buổi tối thật dễ thương như tiếng của Ray Peterson lặp lại trong đêm “Tell Laura I love her”. 
Thành là đồng nghiệp cũ của tôi ở công ty F. Chúng tôi chỉ làm việc cùng nhau 2 tháng nhưng run rẩy làm sao vẫn liên lạc đến tận bây giờ. Có lẽ vì Thành ít tuổi hơn nên có gì đó khiến tôi thấy thoải mái khi chơi cùng. Mà có lẽ đơn giản chỉ là nhân duyên giữa chúng tôi chưa kịp đứt đoạn giữa đường. 
Sáng tiếp theo ở Hội An, T nhắn tin cho tôi từ sáng sớm. Anh có thói quen ngủ sớm và dậy sớm mỗi ngày, một thói quen đặc biệt như chính con người anh. Lúc đầu tôi thấy nó thật kỳ lạ nhưng lâu dần rồi cũng quen. Đơn giản ai rồi cũng phải học cách tôn trọng những khác biệt từ những người xung quanh. 
Anh hỏi tôi về cuộc đi chơi tối qua và những câu chuyện vu vơ khác. Đó là cách chúng tôi thường bắt đầu mỗi ngày. Tất nhiên là cũng có nhiều ngày chúng tôi không làm vậy. Nhưng phần đông những ngày còn lại, chúng tôi dường như nói chuyện với nhau mỗi ngày. Chủ yếu là chat chít vu vơ, và thỉnh thoảng là những cuộc gọi từ T qua messenger trong khoảng thời gian anh trở về nhà từ chỗ làm. 
Đó là một mối quan hệ kỳ lạ. Vì tôi không biết giữa chúng tôi là gì. Chẳng phải bạn thân cũng chẳng phải yêu đương tình cảm thắm thiết. Đó là một mối quan hệ mơ hồ, không ràng buộc. Chúng tôi có thể nói chuyện với nhau mỗi ngày nhưng cũng có thể ngừng liên lạc vài ngày mỗi lần T đi chơi đâu đó hay vì giận nhau. Tôi chưa bao giờ có can đảm hỏi T: Rốt cuộc mình là gì của nhau? Trong khoảng 6 tháng quen nhau, tôi hiếm khi chủ động liên lạc trước với T. Nhiều người hắn sẽ để ý đến nó nhưng chưa một lần tôi thấy T lăn tăn về nó. Hoặc là không để ý hoặc là anh không muốn hỏi tôi về nó. Và dù lý do là gì nhưng đó rõ ràng không phải là điều bình thường trong một mối quan hệ. Tôi hiếm khi liên lạc trước với T vì tôi luôn nhìn thấy một bức tường anh dựng nên cho cả hai. Tôi chẳng muốn phá vỡ nó vì cũng chẳng biết liệu đó có phải là điều mình nên. Nhưng với T, tôi luôn cảm thấy một khoảng cách vô hình khó vượt qua dù chúng tôi vẫn nói chuyện với nhau mỗi ngày. Cũng như nhiều mối quan hệ mờ mờ khác, tôi tin rồi câu chuyện của chúng tôi cũng sẽ kết thúc, sớm hay muộn. Nhưng trước mắt tôi vẫn chưa đủ can đảm nói tạm dừng. Vì chẳng biết sẽ nói nó bằng tư cách nào và vì sợ sẽ phải  mất đi một người bạn thú vị như T.  
Còn anh, dù chưa từng tin vào bất kỳ mối lương duyên nào trên đời nhưng tại thời điểm đó tôi đã thực lòng tin vào mối nhân duyên giữa hai chúng tôi. Sáng hôm sau cái đêm ở quán hủ tiếu, anh nhắn tin cho tôi hỏi về chuyến tàu ra đảo. Anh bảo anh không hiểu lắm cách di chuyển ra đảo, không hiểu nên đi thuyền bé hay thuyền lớn và mua vé ra sao. Tôi gọi lại cho anh để hướng dẫn rồi cũng nhanh chóng lên xe cùng đồng nghiệp di chuyển về bến tàu.
 Lịch trình của chúng tôi, theo cách nào đó, giống nhau đến kỳ lạ, dù không hề hẹn trước. Tôi nhắn tin hỏi thăm anh lúc ra đến bến tàu và thật thú vị chúng tôi gặp nhau ngay lúc tôi vội vã lên cano còn anh thì vội vã vào buồng bán vé. Anh mất một lúc lâu để nhận ra tôi bởi “trông em giống mấy cô gái Ấn Độ, che kín toàn thân”!  
Đây là lần thứ ba tôi tới Hội An nhưng là lần đầu tiên đến thăm Cù Lao Chàm. Hai lần trước tôi đều bỏ lỡ bởi toàn đúng dịp mùa mưa bão các chuyến tàu đều bị huỷ. Lần này thì may mắn vào một ngày nắng chói chang, nước biển trong vắt và tôi hoàn toàn bị choáng ngợp bởi cách mà người dân nơi đây bảo vệ biển của mình. Cách mà chúng tôi không được đem theo bất kỳ một chiếc túi ni lông hay chai nhựa nào ra biển.  Tôi chọn ngắm san hô thay vì lặn biển như một vài người khác. Lần đầu tiên ngắm san hô đại dương trở nên thật rộng lớn với tôi.
 Nhìn từng đàn cá bơi lượn tung tăng tôi đã nhớ đến anh Thịnh, một người đặc biệt mà tôi may mắn được quen. Anh là người quyết định ăn chay vì tình yêu thương với động vật. Và mặc dù anh vẫn ăn cá bởi anh bảo anh thấy chúng ko quá gần gũi với mình nhưng cái xúc cảm mạnh mẽ trong anh luôn lan toả trong tôi như mạch nước ngầm bé nhỏ nhưng có sức mạnh làm mòn sỏi đá. Tôi thấy mình cũng dần có tình cảm với mọi con vật mà mình gặp trên đời. Tôi thấy một tôi của ngày còn bé bỏng quay trở lại. Tôi thấy hình ảnh cô bé 5,6 tuổi đứng khóc khi thấy mẹ làm thịt gà, ngan hay khi nghe tin chú chó nhà hàng xóm bị chết. Đó là những cảm xúc kỳ lạ tôi đã chôn giấu gần hai chục năm trời rồi một ngày được khai phá. Tôi thấy mình sống vị tha và an yên hơn hết thảy. Như vẫn đùa với mấy chị trong công ty rằng đi ngắm san hô rồi thì em lại hết can đảm mà ăn cá. Ấy là tôi đùa vậy chứ thực ra thì tôi vẫn ăn thịt động vật như bình thường. Nhưng lời hứa từ bỏ thì rồi sẽ có ngày tôi quay lại, khi đã sẵn sàng mà ko có lý do gì chống cự.