Học sinh nhìn nhận gì về nền giáo dục Việt Nam.
Trình bày góc nhìn của học sinh (tôi) về nền giáo dục
Ai cũng nói học là tiếp cận tri thức, trường học là vùng đất của kiến thức, giáo viên là bách khoa toàn thư sống. Nhưng trong những năm tôi học thứ tôi nhìn lại chỉ là sự hàn lâm của kiến thức,là sự đàn áp tư duy phản biện,là sự sợ hãi của học sinh,là nơi học sinh luôn muốn rời đi. Vậy giáo dục Việt Nam đang đi về đâu?.
Liệu trường học có phải là nơi tạo ra tri thức hay chỉ là nơi nhồi và nhét kiến thức,đào tạo ra những cỗ máy giải đề?.
Xin chào mọi người,lại là tôi đây,mặc dù ngày mai tôi phải kiểm tra môn Hoá nhưng thôi, mặc kệ nó trước đã,dù sao thì hôm nay tôi sẽ trình bày quan điểm của một sinh cuối cấp 2 như tôi đối với nền giáo dục Việt Nam,tôi sẽ không nhắc đến bạo lực học đường nhiều đâu mà tập trung và những thứ chuyên sâu hơn.

Ảnh châm biếm về giáo dục - sưu tầm từ internet -
Dành cho các độc giả nào không biết đến tôi thì tôi tên Huy hiện tại là học sinh lớp 9. Được rồi cùng vào bài viết nào.
I. Thực trạng giáo dục Việt Nam: Bức tranh toàn cảnh qua lăng kính của một học sinh
Khi ngồi trên ghế nhà trường, tôi cũng như hàng triệu học sinh khác trên dải đất hình chữ S này, là một phần của hệ thống giáo dục quốc dân. Chúng tôi là những người trực tiếp trải nghiệm, trực tiếp cảm nhận từng thay đổi, từng áp lực và cả những điểm sáng le lói của nó. Nhìn một cách toàn cảnh, giáo dục Việt Nam trong mắt tôi là một bức tranh phức hợp với những gam màu đối lập.
Không thể phủ nhận rằng, nền giáo dục của chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể.Quy mô và mạng lưới trường lớp ngày càng phát triển, chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên.Điều khiến hầu hết mọi người tự hào nhất chính là những thành tích vang dội trên các đấu trường quốc tế. Hình ảnh những đội tuyển Olympic Toán học, Vật lý, Hóa học của Việt Nam liên tục mang về những tấm huy chương vàng, bạc đã trở nên quen thuộc. Trong giai đoạn 2020-2024, học sinh Việt Nam đã giành được 159 huy chương tại các cuộc thi Olympic quốc tế và khu vực, một con số đáng nể. Những thành tích này không chỉ khẳng định trí tuệ của người Việt mà còn cho thấy hướng đi đúng đắn trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi. Chúng ta,những học sinh bình thường, nhìn vào đó với sự ngưỡng mộ, coi đó là minh chứng cho sự ưu việt của một nền giáo dục trọng kiến thức.
Tuy nhiên, đằng sau ánh hào quang của những tấm huy chương là một thực tế mà chỉ những người trong cuộc như chúng tôi mới thấm thía hết được: sự hàn lâm và tính cạnh tranh đến nghẹt thở. Chương trình học ở Việt Nam, đối với tôi, thực sự rất nặng. Lượng kiến thức khổng lồ, đặc biệt ở các môn tự nhiên, được dồn nén trong những tiết học dày đặc. Chúng ta phải học liên tục, từ sáng đến chiều ở trường, tối về lại tiếp tục với hàng loạt bài tập về nhà và các lớp học thêm. Áp lực điểm số và thành tích là một gánh nặng vô hình nhưng luôn đè nặng lên vai.Áp lực này không chỉ đến từ nhà trường mà còn từ chính gia đình và xã hội.Mọi sự so sánh đều xoay quanh điểm số, thứ hạng và việc con có đỗ vào trường chuyên, lớp chọn hay không.
Cuộc cạnh tranh khốc liệt bắt đầu từ rất sớm. Ngay từ kỳ thi chuyển cấp vào lớp 6, lớp 10, và đỉnh điểm là kỳ thi tốt nghiệp THPT và xét tuyển đại học, tất cả đều bị cuốn vào một "cuộc chiến" không khoan nhượng. Tỷ lệ chọi vào các trường top đầu luôn ở mức cao ngất ngưởng, tạo ra một áp lực tâm lý khủng khiếp. Một nghiên cứu tại TP.HCM cho thấy có đến 97,05% học sinh bị stress ở các mức độ khác nhau, và nguyên nhân chính đến từ việc học tập với tỷ lệ 61,9%, đây mới chỉ là miền nam nơi mà giáo dục dễ thở hơn hẳn so với miền bắc. Bản thân tôi và nhiều bạn bè thường xuyên trong trạng thái mệt mỏi, căng thẳng, thậm chí kiệt sức. Đó là cái giá mà chúng ta phải trả cho sự hàn lâm và cạnh tranh của nền giáo dục. Mặc dù vậy, tôi vẫn phải thừa nhận, chính sự rèn luyện trong môi trường khắc nghiệt đó đã giúp ta có một nền tảng kiến thức cơ bản vững chắc, một khả năng chịu đựng áp lực tốt, điều mà có lẽ không phải học sinh ở quốc gia nào cũng có được.
II. Nền giáo dục tạo ra những cỗ máy sống chỉ biết vâng lời
Trong suốt những năm tháng đi học, tôi luôn trăn trở về một điều: dường như mục tiêu của giáo dục không phải là tạo ra những con người tự do tư duy, mà là những "cỗ máy" biết vâng lời. Nỗi sợ hãi lớn nhất của tôi ở lớp không phải là không hiểu bài, mà là nỗi sợ đặt câu hỏi. Tôi đã bị giáo viên chỉ trích vì đưa ra một ý kiến khác với bài giảng, hay bị gạt đi với câu nói "việc của em là học thuộc, không phải hỏi vặn". Hay thậm chí một giáo viên lịch sử còn nói thẳng mặt tôi là kiến thức sử của tôi có vấn đề chỉ vì khác quan điểm của cô ấy về vấn đề địa chính trị.
Đối với tôi, việc tranh luận gần như đã thứ gắn liền với tôi, tôi hay đâm đầu những cuộc tranh luận về hàng ngàn vấn đề khác nhau. Nhưng khi trên "Thánh địa của tri thức" trong mắt chúng ta. Nó lại bóp chết thứ tạo ra sự đỉnh cao trong trí tuệ con người.
Những trải nghiệm đó dần dần giết chết sự tò mò và khả năng tư duy phản biện trong nhiều người khác. Chúng ta học được rằng, cách an toàn nhất để tồn tại trong lớp học là im lặng và răm rắp tuân theo những gì được dạy. Kiến thức được truyền đạt theo một chiều, từ trên xuống, và chúng tôi, những học sinh, có nhiệm vụ tiếp thu và ghi nhớ một cách thụ động. Thói quen học vẹt, học đối phó để qua các kỳ thi đã ăn sâu vào tiềm thức. Tôi có thể viết một bài văn nghị luận văn học hoặc một mẩu truyện ngắn nhưng không thể làm toán,trong khi những người bạn tôi lại hoàn toàn ngược lại. Đây là một sự yếu kém khi chúng ta chỉ giỏi về kiến thức học mà rỗng tuếch về kiến thức xã hội.
Giáo dục, theo tôi, đáng lẽ phải là quá trình "khai sáng", mở ra những chân trời mới và giải phóng tiềm năng con người. Nhưng ở đây, tôi cảm thấy nó giống như một quá trình "khuôn đúc", cố gắng nhào nặn tất cả thành những sản phẩm giống hệt nhau, ngoan ngoãn, vâng lời và không có khả năng tạo ra sự đột phá. Chúng đang dần trở thành những cỗ máy sống, được lập trình để hoạt động theo một kịch bản định sẵn từ cha mẹ,nhà trường đến giới tinh hoa điều khiển chúng ta. Không xa đâu,gia đình ai cũng sẽ nói kiểu câu học giỏi,kiếm việc tốt,đi làm chăm chỉ, có cuộc sống ổn định, lập gia đình. Chúng lập đi lập lại như những NPC , không hơn không kém.
III. Sự thần thánh hóa giáo dục đặc biệt là toán và tiếng Anh quá mức
Trong hệ thống giáo dục Việt Nam, có hai "vị thần" tối cao mà mọi học sinh đều phải cúi mình thờ phụng: Toán học và Tiếng Anh. Sự thần thánh hóa hai môn học này đã lên đến mức cực đoan, biến chúng thành thước đo gần như duy nhất để đánh giá năng lực của một học sinh và tạo ra một sự mất cân đối nghiêm trọng trong giáo dục.
Toán học ở Việt Nam nổi tiếng về độ khó và sự hàn lâm. Cảm giác choáng ngợp của mỗi chúng ta khi lần đầu tiếp xúc với chương trình Toán lớp 9. Những bài toán về hệ thức Vi-ét, bất đẳng thức Cô-si, hay các bài toán hình học không gian phức tạp đã vượt xa những gì bạn bè quốc tế đang học. Có một sự so sánh phổ biến rằng kiến thức Toán lớp 9 ở Việt Nam có thể tương đương với chương trình cuối cấp THPT (lớp 12) ở một số nước phương Tây như Mỹ. Dù sự so sánh này có thể không hoàn toàn chính xác về mọi mặt, nó phản ánh một thực tế không thể chối cãi: chúng ta đang học một chương trình Toán quá nặng và quá trừu tượng so với lứa tuổi. Ở cấp tiểu học, trong khi học sinh Mỹ tập trung vào tư duy toán học ứng dụng qua các trò chơi và bài toán thực tế, chúng tôi đã phải vật lộn với các dạng toán mẹo, toán đố nâng cao. Lên cấp 2 và 3, sự khác biệt càng rõ rệt. Chương trình của họ tập trung vào thống kê, xác suất và những ứng dụng thực tiễn, còn chúng ta lại chìm sâu vào những lĩnh vực toán lý thuyết cao cấp, mà phần lớn trong số đó sẽ không bao giờ được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Hay mắc mớ gì phải bắt học sinh khối xã hội học tích phân?
Song hành cùng Toán học là Tiếng Anh, hay cụ thể hơn là "cơn bão" IELTS. Chứng chỉ IELTS đã bị lạm dụng và biến tướng một cách đáng báo động. Nó không còn là một công cụ đánh giá năng lực ngôn ngữ đơn thuần mà đã trở thành "tấm vé vàng" để được tuyển thẳng vào các trường đại học hàng đầu, được miễn thi môn ngoại ngữ trong kỳ thi tốt nghiệp. Điều này tạo ra một cuộc đua điên cuồng học IELTS. Tôi thấy nhiều bạn bè của mình, dù không có ý định du học, vẫn phải lao vào các lò luyện thi cấp tốc, học thuộc lòng các "tips", "tricks" và văn mẫu chỉ để đạt được band điểm mong muốn. Việc thần thánh một bằng chứng chỉ học thuật chỉ có thời hạn 2 năm mà lại còn vô cùng đắt đỏ khiến cho các bằng ngoại ngữ thông dụng quốc tế như PTE,PET,... Bị lưu mờ hoàn toàn và thậm chí bị coi là thấp kém hơn một người có bằng IELTS.
Điều này cũng dẫn đến hệ lụy là việc giáo viên ưu ái cho những học sinh học thêm cái môn của họ. Những học sinh học thêm ấy còn biết trước đáp án, học trước và thậm chí là biết cả đề thi. Đây rõ ràng là một sự thiên vị đối với những học sinh khác, những học sinh không đi học thêm thì họ chẳng phải là bị đì,ghim hoặc hãm điểm nữa mà là thua những người bạn đi học thêm của mình cả 1-2 học kì và phải ôn các dạng đề thi trong khi các học sinh học thêm chỉ cần học thuộc đáp án và làm bài thi.
Sự thần thánh hóa này bóp méo mục tiêu thực sự của việc học. Thay vì học tiếng Anh để giao tiếp, để khám phá tri thức thế giới, học sinh lại học để thi lấy chứng chỉ. Nhiều người có điểm IELTS rất cao nhưng lại không thể giao tiếp tự tin với người nước ngoài. Việc quá tập trung vào Toán và Tiếng Anh cũng vô tình hạ thấp giá trị của các môn học khác. Các môn xã hội như Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân bị coi là "môn phụ", và các môn nghệ thuật, thể chất gần như bị lãng quên. Hệ thống giáo dục đang gửi đi một thông điệp sai lầm rằng, chỉ cần giỏi Toán và Tiếng Anh là đủ để thành công, còn những phẩm chất, kiến thức và kỹ năng khác đều không quan trọng.Tôi từng tranh luận với một anh du học sinh vì anh ấy cho rằng chỉ duy nhất học Đại học là con đường để thành công,bất kỳ con đường khác đều chả dẫn đến thành công. Hãy nên nhớ Đại học là con đường dễ nhất để thành công, không phải là duy nhất. Đây là một minh chứng cho sự thần thánh hóa giáo dục.
Ngoài việc thần thánh hoá ra,giáo dục Việt Nam lại quá chú trọng vào việc giỏi toàn diện. Tôi là điển hình cho việc học lệch,điểm các môn xã hội của tôi như Văn,Sử , Địa luôn luôn 10 ,một số môn tự nhiên như Hoá,Lý,Sinh,Tin tôi vẫn dễ dàng đạt được điểm 8-9 nhưng khi đến toán và tiếng Anh lần lượt tôi chỉ có 3 và 6. Và như một lẽ tất yếu tôi bị gia đình đai nghiến mãi chỉ vì con 3 toán mà không lấy được một câu khen khi văn tôi viết còn hay hơn giáo viên, tôi cũng bị ép học thêm hàng tiếng toán học mà tôi chả hiểu lấy thứ gì.
Ở Việt Nam,nếu một học sinh giỏi môn A nhưng tệ ở môn B thì chắc chắn nền giáo dục sẽ ép học sinh ấy học giỏi cả môn B. Ở các nước phương Tây thì sao? Nếu bạn giỏi môn A nhưng tệ ở môn B thì bạn sẽ được học môn A cực giỏi. Giáo dục phương Tây đã hơn giáo dục Á Đông ở việc phát triển thế mạnh của học sinh mà không phải tạo ra một cỗ máy giải được mọi thứ.
IV. Nếu sự hàn lâm đem lại hiệu quả, vậy tại sao giáo dục Việt Nam mãi không phát triển?
Chúng ta thường tự hào về sự khắc nghiệt và hàn lâm của nền giáo dục Á Đông, trong đó có Việt Nam. Chúng ta tin rằng "khổ luyện thành tài", rằng áp lực và cạnh tranh sẽ tạo ra những cá nhân xuất sắc. Nhưng đây sự tự hào rất là ... tôi luôn tự hỏi, nếu phương pháp này thực sự hiệu quả, tại sao nền giáo dục của chúng ta vẫn loay hoay, chưa thể bứt phá và vẫn tồn tại quá nhiều vấn đề?.
Mức độ cạnh tranh trong giáo dục Á Đông là một thực tế không thể phủ nhận. Từ Hàn Quốc, Trung Quốc,Nhật Bản đến Việt Nam, học sinh đều phải sống trong một guồng quay học tập không ngừng nghỉ. Kỳ thi đại học được coi là trận chiến sinh tử, quyết định cả tương lai. Nhưng cái giá phải trả cho sự cạnh tranh này là quá đắt. Học sinh luôn nhút nhát phát biểu không phải vì họ kém mà là vì họ sợ sai,con người chúng ta vốn dĩ học hỏi từ những sai lầm mà phát triển đến bây giờ, vậy nếu nền giáo không cho phép sai thì chuyện gì sẽ diễn tiếp theo với học sinh?. Tỷ lệ học sinh bị căng thẳng, trầm cảm và các vấn đề sức khỏe tâm thần ngày càng gia tăng.Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trầm cảm, lo âu, căng thẳng ở học sinh THPT ở mức cao. Đau lòng hơn, xu hướng bỏ học, thậm chí là tự tử vì áp lực học tập, đã trở thành một vấn đề nhức nhối trong xã hội.Khi một học sinh phải kết thúc cuộc đời mình vì điểm số, đó là sự thất bại thảm hại của cả một nền giáo dục.
Trong khi đó, hãy nhìn sang các nền giáo dục phương Tây. Họ không đặt nặng kiến thức hàn lâm từ sớm. Thay vào đó, họ tập trung vào việc khơi gợi sự sáng tạo, phát triển tư duy độc lập và trang bị cho học sinh những kỹ năng cần thiết để tự học suốt đời. Học sinh của họ có thể không giải được những bài toán cao siêu như chúng tôi, nhưng họ biết cách làm việc nhóm, biết cách trình bày một dự án, biết cách áp dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.Họ được khuyến khích khám phá, được phép sai lầm và được tôn trọng sự khác biệt. Kết quả là, họ tạo ra những công dân toàn cầu, những nhà sáng tạo, những người không chỉ có kiến thức mà còn có cả hạnh phúc trong quá trình học tập.
Trong khi đó, hãy nhìn sang các nền giáo dục phương Tây. Họ không đặt nặng kiến thức hàn lâm từ sớm. Thay vào đó, họ tập trung vào việc khơi gợi sự sáng tạo, phát triển tư duy độc lập và trang bị cho học sinh những kỹ năng cần thiết để tự học suốt đời. Học sinh của họ có thể không giải được những bài toán cao siêu như chúng tôi, nhưng họ biết cách làm việc nhóm, biết cách trình bày một dự án, biết cách áp dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.Họ được khuyến khích khám phá, được phép sai lầm và được tôn trọng sự khác biệt. Kết quả là, họ tạo ra những công dân toàn cầu, những nhà sáng tạo, những người không chỉ có kiến thức mà còn có cả hạnh phúc trong quá trình học tập.
Tôi có một người họ hàng từng du học ở Singapore và một nữa ở Úc. Những gì họ được các bạn bè quốc tế khen là cực giỏi về toán cao cấp, nhưng lại chẳng có ai muốn làm bài nhóm với họ. Khi được hỏi câu trả lời nhận được là: "Bạn giỏi thật đấy, nhưng khả năng làm việc nhóm của bạn quá tệ".
Đến đây chắc hẳn sẽ có những ý kiến trái với tôi như. Trung Quốc chương trình còn nặng hơn Việt Nam nhưng Trung Quốc vẫn tạo ra vô số nhân tài. Không phải là những quan điểm như tôi đang trình bày. Đúng, nhưng thưa rằng là do người Trung Quốc vốn dĩ họ đã giỏi hơn chúng ta,hơn nữa nền giáo dục Trung Quốc tuy hàn lâm nhưng tư duy và phản biện được khuyến khích và thậm chí là phát triển rất mạnh, trong khi Việt Nam thì không. Hay là ở phương Tây tình trạng bỏ học, không tập trung học tập học rất cao. Tuy vậy nhưng chúng ta phải công nhận việc tự do giáo dục cũng như chấp nhận phát triển tư duy như thế này tạo ra những nhân tài xuất sắc của đất nước họ.
Hệ quả của sự hàn lâm và cạnh tranh quá mức ở Việt Nam là vô cùng khủng khiếp. Nó tạo ra một thế hệ học sinh mệt mỏi, thụ động và thiếu đi những kỹ năng sống còn của thế kỷ 21. Tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm có trình độ đại học lại cao hơn một số nhóm khác, cho thấy chất lượng đào tạo đang không đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Chúng ta có thể tạo ra những "thợ giải bài tập" xuất sắc, nhưng lại thiếu vắng những nhà tư tưởng, những nhà lãnh đạo có tầm nhìn và khả năng đổi mới. Nền giáo dục của chúng ta đang chạy theo thành tích bề nổi mà bỏ quên đi mục tiêu cốt lõi là phát triển con người một cách toàn diện. Chừng nào chúng ta còn coi áp lực là động lực duy nhất và điểm số là thước đo cuối cùng, chừng đó giáo dục Việt Nam sẽ còn mãi giậm chân tại chỗ.Chắc hẳn ai cũng biết đến "lò ấp tiến sĩ" của Việt Nam. Ở Việt Nam số tiến sĩ thì nhiều hơn cả những quốc gia phát triển đấy, nhưng rồi sao? Việt Nam vẫn chưa thể bứt tốc nhanh như họ được trong khi họ lại là những nguồn nhân lực quý giá trong mắt đất nước. Những vụ việc đạo văn thì đã quá nhan nhản đến mức phát ngán.Đến đây tôi mới cảm thấy may mắn khi chính bản thân tôi đã tự khai sáng cho chính mình từ lớp 4 và trở thành một người trong tầng lớp trí thức cao ở tuổi mà các bạn cùng thời còn đang bắt đầu chạy theo guồng quay của giáo dục.
V. Nền giáo dục tạo ra những cỗ máy
Nhìn vào cơ cấu các cuộc thi dành cho học sinh, tôi không khỏi cảm thấy một sự khập khiễng đến mức phi lý. Số lượng các cuộc thi về Toán học, Tin học, và Ngoại ngữ (chủ yếu là Tiếng Anh) áp đảo hoàn toàn so với những môn học khác. Từ cấp trường, cấp quận, cấp thành phố cho đến cấp quốc gia, dường như mọi nguồn lực và sự quan tâm đều đổ dồn vào việc tìm kiếm và vinh danh những "thần đồng" ở các lĩnh vực này. Trong khi đó, các cuộc thi về khoa học xã hội, nghệ thuật, hay các dự án thực tiễn lại vô cùng hiếm hoi và ít được coi trọng.
Sự so sánh khập khiễng này không chỉ là câu chuyện về số lượng. Nó phản ánh một triết lý giáo dục lệch lạc: một nền giáo dục tôn sùng tư duy logic, tính toán và khả năng ngôn ngữ thực dụng, nhưng lại xem nhẹ tư duy cảm xúc, khả năng sáng tạo nghệ thuật và sự thấu hiểu về xã hội. Chúng ta được dạy để trở thành những kỹ sư, những lập trình viên, những chuyên gia tài chính, nhưng lại không được khuyến khích để trở thành những nhà văn, những nhà sử học, những nghệ sĩ hay những nhà hoạt động xã hội. Một giấc mơ tôi luôn ao ước nhưng lại bị chà đạp,đó là trở thành một nhà văn,một nhà tư tưởng hiện đại,một nhà triết học hoặc một nhà lãnh đạo thực dụng.
Sự so sánh khập khiễng này không chỉ là câu chuyện về số lượng. Nó phản ánh một triết lý giáo dục lệch lạc: một nền giáo dục tôn sùng tư duy logic, tính toán và khả năng ngôn ngữ thực dụng, nhưng lại xem nhẹ tư duy cảm xúc, khả năng sáng tạo nghệ thuật và sự thấu hiểu về xã hội. Chúng ta được dạy để trở thành những kỹ sư, những lập trình viên, những chuyên gia tài chính, nhưng lại không được khuyến khích để trở thành những nhà văn, những nhà sử học, những nghệ sĩ hay những nhà hoạt động xã hội. Một giấc mơ tôi luôn ao ước nhưng lại bị chà đạp,đó là trở thành một nhà văn,một nhà tư tưởng hiện đại,một nhà triết học hoặc một nhà lãnh đạo thực dụng.
Tác động của thực trạng này đến nền giáo dục là vô cùng sâu sắc. Nó tạo ra một thế hệ "học lệch", nơi học sinh dồn toàn bộ thời gian và công sức vào các môn được coi là "môn chính", trong khi hoàn toàn bỏ bê các môn khác. Điều này không chỉ làm mất đi cơ hội phát triển toàn diện mà còn tạo ra những con người thiếu hụt chiều sâu văn hóa và sự nhạy cảm với các vấn đề xã hội.
nền giáo dục này không chỉ tạo ra những cỗ máy vâng lời, mà còn tạo ra những cỗ máy chuyên dụng. Mỗi học sinh được định hướng để trở thành một bánh răng trong một cỗ máy kinh tế khổng lồ, được tối ưu hóa cho một chức năng cụ thể. Chúng ta được đánh giá dựa trên hiệu suất (điểm số) và khả năng thực thi các nhiệm vụ được lập trình sẵn (giải bài tập theo khuôn mẫu). Sự đa dạng, tính độc đáo và khả năng liên ngành – những yếu tố cốt lõi của sự đổi mới – lại không có chỗ đứng. Chúng ta đang vô tình xây dựng một xã hội của những chuyên gia xuất sắc trong lĩnh vực hẹp của họ, nhưng lại thiếu đi sự kết nối, sự đồng cảm và tầm nhìn tổng thể để giải quyết những vấn đề phức tạp của thế giới hiện đại.
VI. Sự yếu kém của học sinh đối với kiến thức xã hội, kĩ năng sống và kĩ năng mềm
Một trong những hệ quả đáng buồn nhất của nền giáo dục coi trọng kiến thức hàn lâm là sự yếu kém một cách đáng báo động của học sinh về kiến thức xã hội, kỹ năng sống và kỹ năng mềm. Học sinh giống như những "gà công nghiệp", được nuôi dưỡng trong một môi trường được kiểm soát chặt chẽ, được cung cấp đầy đủ "thức ăn" là kiến thức sách vở, nhưng lại hoàn toàn thiếu khả năng "sinh tồn" khi bước ra thế giới thực.
Dẫn chứng rõ ràng nhất là thái độ thờ ơ của phần lớn học sinh đối với các vấn đề chính trị - xã hội. Khi được hỏi về một sự kiện thời sự nóng hổi, nhiều bạn bè của tôi chỉ có thể đưa ra những câu trả lời rất chung chung, mơ hồ hoặc thậm chí là không biết. Họ còn không được dạy cách phân tích thông tin, cách nhận diện tin giả, hay cách hình thành một quan điểm chính trị độc lập, dù sao tôi cũng cảm thấy đáng thương cho họ nhưng cũng vui vì ít nhất tôi cảm thấy bản thân đặc biệt và lạc lõng hơn. Môn Giáo dục Công dân thường bị biến thành môn học thuộc lòng những điều luật khô khan, thay vì là những buổi thảo luận sôi nổi về quyền và nghĩa vụ, về các giá trị đạo đức và lối sống.
Sự thiếu hụt kỹ năng sống còn thể hiện ở những điều rất cơ bản. Nhiều học sinh thành phố không biết nấu một bữa ăn đơn giản, không biết cách quản lý chi tiêu cá nhân, hay không có kỹ năng tự bảo vệ bản thân trước các tình huống nguy hiểm. Vâng không đâu xa khi lớp tôi tồn tại những thành phần thế này. Ai cũng dành quá nhiều thời gian cho việc học đến nỗi không còn thời gian để học những điều mà lẽ ra cuộc sống phải dạy. Gia đình và nhà trường, vì quá lo lắng cho việc học của con em, cũng vô tình tước đi cơ hội để chúng tôi trải nghiệm, va vấp và trưởng thành.
Về kỹ năng mềm, đây có lẽ là điểm yếu chí mạng. Kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, thuyết trình, giải quyết xung đột, tư duy sáng tạo... đều là những thứ xa xỉ. Trong một lớp học mà sự tương tác chủ yếu là một chiều, chúng ta không có cơ hội để thực hành những kỹ năng này. Hệ quả là khi bước vào môi trường đại học hay đi làm, rất nhiều người cảm thấy bỡ ngỡ, lúng túng, không thể hòa nhập và phát huy hết năng lực của mình. Đây chính là nghịch lý "thừa bằng, thiếu năng lực" mà xã hội vẫn thường hay nhắc tới.
Nhà trường đang thất bại trong nhiệm vụ cơ bản nhất là chuẩn bị cho chúng ta hành trang vào đời. Bằng cách duy nhất là hồi nhét kiến thức lý thuyết và xem nhẹ các kỹ năng thực tế, giáo dục Việt Nam đang tạo ra những công dân không hoàn chỉnh, dễ bị tổn thương và khó thích ứng với một thế giới luôn biến đổi. Thứ thành công duy nhất của nền giáo dục có lẽ là việc thành công tạo ra cả một thế hệ chỉ biết nghe,đọc,giải và phục tùng.
Dẫn chứng rõ ràng nhất là thái độ thờ ơ của phần lớn học sinh đối với các vấn đề chính trị - xã hội. Khi được hỏi về một sự kiện thời sự nóng hổi, nhiều bạn bè của tôi chỉ có thể đưa ra những câu trả lời rất chung chung, mơ hồ hoặc thậm chí là không biết. Họ còn không được dạy cách phân tích thông tin, cách nhận diện tin giả, hay cách hình thành một quan điểm chính trị độc lập, dù sao tôi cũng cảm thấy đáng thương cho họ nhưng cũng vui vì ít nhất tôi cảm thấy bản thân đặc biệt và lạc lõng hơn. Môn Giáo dục Công dân thường bị biến thành môn học thuộc lòng những điều luật khô khan, thay vì là những buổi thảo luận sôi nổi về quyền và nghĩa vụ, về các giá trị đạo đức và lối sống.
Sự thiếu hụt kỹ năng sống còn thể hiện ở những điều rất cơ bản. Nhiều học sinh thành phố không biết nấu một bữa ăn đơn giản, không biết cách quản lý chi tiêu cá nhân, hay không có kỹ năng tự bảo vệ bản thân trước các tình huống nguy hiểm. Vâng không đâu xa khi lớp tôi tồn tại những thành phần thế này. Ai cũng dành quá nhiều thời gian cho việc học đến nỗi không còn thời gian để học những điều mà lẽ ra cuộc sống phải dạy. Gia đình và nhà trường, vì quá lo lắng cho việc học của con em, cũng vô tình tước đi cơ hội để chúng tôi trải nghiệm, va vấp và trưởng thành.
Về kỹ năng mềm, đây có lẽ là điểm yếu chí mạng. Kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, thuyết trình, giải quyết xung đột, tư duy sáng tạo... đều là những thứ xa xỉ. Trong một lớp học mà sự tương tác chủ yếu là một chiều, chúng ta không có cơ hội để thực hành những kỹ năng này. Hệ quả là khi bước vào môi trường đại học hay đi làm, rất nhiều người cảm thấy bỡ ngỡ, lúng túng, không thể hòa nhập và phát huy hết năng lực của mình. Đây chính là nghịch lý "thừa bằng, thiếu năng lực" mà xã hội vẫn thường hay nhắc tới.
Nhà trường đang thất bại trong nhiệm vụ cơ bản nhất là chuẩn bị cho chúng ta hành trang vào đời. Bằng cách duy nhất là hồi nhét kiến thức lý thuyết và xem nhẹ các kỹ năng thực tế, giáo dục Việt Nam đang tạo ra những công dân không hoàn chỉnh, dễ bị tổn thương và khó thích ứng với một thế giới luôn biến đổi. Thứ thành công duy nhất của nền giáo dục có lẽ là việc thành công tạo ra cả một thế hệ chỉ biết nghe,đọc,giải và phục tùng.
VII. Tương lai?
Nhìn về tương lai của giáo dục Việt Nam, tôi thấy cả những tia hy vọng và những nỗi lo âu. Hy vọng đến từ những nỗ lực đổi mới đang được triển khai. Chương trình Giáo dục Phổ thông 2018, với định hướng chuyển từ tập trung vào kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học, là một bước đi đúng đắn. Chương trình này nhấn mạnh việc tăng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, chú trọng thực hành và vận dụng kiến thức vào đời sống.Về lý thuyết, đây chính là liều thuốc mà nền giáo dục của chúng ta đang cần. Việc cho phép nhiều bộ sách giáo khoa cùng tồn tại cũng là một tín hiệu tích cực, hứa hẹn phá vỡ sự độc quyền và mang lại sự đa dạng trong cách tiếp cận kiến thức.
Tuy nhiên, con đường từ chính sách đến thực tế vẫn còn rất nhiều chông gai. Nỗi lo của tôi là những tư duy cũ, những thói quen cố hữu sẽ là rào cản lớn nhất cho sự thay đổi. Liệu đội ngũ giáo viên, những người vốn đã quen với phương pháp truyền thụ một chiều, có sẵn sàng và đủ năng lực để chuyển mình thành người hướng dẫn, người gợi mở?Liệu các nhà trường có thực sự dám trao quyền tự chủ, dám sáng tạo hay vẫn chỉ thực hiện một cách hình thức để đối phó? Và quan trọng nhất, liệu xã hội và các bậc phụ huynh có chấp nhận một hệ thống đánh giá mới, không còn quá ám ảnh bởi điểm số và các kỳ thi hay không?
Câu trả lời có lẽ là không,kiến thức thì giảm tải đấy. Nhưng giảm tải ở các môn xã hội còn các môn tự nhiên thì hoàn toàn ngược lại, chúng tôi phải học thêm những môn,khoá học mới hay là độ khó tăng lên sau mỗi kì thi,mặc dù chương trình mới đã có sự đổi mới thật,có những giáo viên gen Z xuất hiện mang theo làn gió mới nhưng từng ấy vẫn chưa thể thay đổi được quá nhiều. Nếu giảm tải kiến thức thì chúng tôi lại phải học thêm các môn học mới, đề thi và hình thức thi mới. Thay vì giúp học sinh nó lại chỉ tăng áp lực khi các phương pháp thi mới hoàn thành chặt đứt khả năng gian lập hoặc thậm chí là cho phép sai sót nhỏ, nó là con dao hai lưỡi theo đúng nghĩa.Lập luận của tôi là, nếu không có một sự thay đổi đồng bộ và quyết liệt từ gốc rễ tư duy của tất cả các bên liên quan – từ nhà quản lý, giáo viên, phụ huynh và cả học sinh – thì mọi cải cách dù tốt đẹp đến đâu cũng sẽ chỉ như "bình mới rượu cũ". Chúng ta có thể có chương trình mới, sách giáo khoa mới, nhưng nếu cách dạy, cách học và cách thi vẫn như cũ, thì áp lực vẫn sẽ còn đó, và những "cỗ máy" vẫn sẽ tiếp tục được sản xuất. Tương lai của giáo dục Việt Nam phụ thuộc vào việc chúng ta có dám đối mặt và thay đổi tận gốc những vấn đề đã tồn tại hàng thập kỷ hay không.
Tuy nhiên, con đường từ chính sách đến thực tế vẫn còn rất nhiều chông gai. Nỗi lo của tôi là những tư duy cũ, những thói quen cố hữu sẽ là rào cản lớn nhất cho sự thay đổi. Liệu đội ngũ giáo viên, những người vốn đã quen với phương pháp truyền thụ một chiều, có sẵn sàng và đủ năng lực để chuyển mình thành người hướng dẫn, người gợi mở?Liệu các nhà trường có thực sự dám trao quyền tự chủ, dám sáng tạo hay vẫn chỉ thực hiện một cách hình thức để đối phó? Và quan trọng nhất, liệu xã hội và các bậc phụ huynh có chấp nhận một hệ thống đánh giá mới, không còn quá ám ảnh bởi điểm số và các kỳ thi hay không?
Câu trả lời có lẽ là không,kiến thức thì giảm tải đấy. Nhưng giảm tải ở các môn xã hội còn các môn tự nhiên thì hoàn toàn ngược lại, chúng tôi phải học thêm những môn,khoá học mới hay là độ khó tăng lên sau mỗi kì thi,mặc dù chương trình mới đã có sự đổi mới thật,có những giáo viên gen Z xuất hiện mang theo làn gió mới nhưng từng ấy vẫn chưa thể thay đổi được quá nhiều. Nếu giảm tải kiến thức thì chúng tôi lại phải học thêm các môn học mới, đề thi và hình thức thi mới. Thay vì giúp học sinh nó lại chỉ tăng áp lực khi các phương pháp thi mới hoàn thành chặt đứt khả năng gian lập hoặc thậm chí là cho phép sai sót nhỏ, nó là con dao hai lưỡi theo đúng nghĩa.Lập luận của tôi là, nếu không có một sự thay đổi đồng bộ và quyết liệt từ gốc rễ tư duy của tất cả các bên liên quan – từ nhà quản lý, giáo viên, phụ huynh và cả học sinh – thì mọi cải cách dù tốt đẹp đến đâu cũng sẽ chỉ như "bình mới rượu cũ". Chúng ta có thể có chương trình mới, sách giáo khoa mới, nhưng nếu cách dạy, cách học và cách thi vẫn như cũ, thì áp lực vẫn sẽ còn đó, và những "cỗ máy" vẫn sẽ tiếp tục được sản xuất. Tương lai của giáo dục Việt Nam phụ thuộc vào việc chúng ta có dám đối mặt và thay đổi tận gốc những vấn đề đã tồn tại hàng thập kỷ hay không.
VIII. Xu hướng bỏ học gia tăng
Một thực trạng đáng báo động, phơi bày tất cả những yếu kém và áp lực của nền giáo dục, chính là xu hướng bỏ học ngày càng gia tăng. Con số này không chỉ giới hạn ở những học sinh có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, mà đã bắt đầu xuất hiện ngay cả ở các thành phố lớn, trong những gia đình có điều kiện.
Dẫn chứng cho thấy, nguyên nhân bỏ học không còn đơn thuần là do kinh tế. Rất nhiều học sinh bỏ học vì cảm thấy chán nản, mệt mỏi và không tìm thấy ý nghĩa trong việc học.
Ở khu phố tôi sống,mặc dù tôi đang sinh sống ở một trong những thành phố có quy mô lớn bậc nhất ở Việt Nam có lẽ chỉ sau Sài Gòn ở khu vực nhưng trong khu phố tôi sống có 4 anh chị 2010 (lớn hơn tôi 1 tuổi) nhưng cả 4 đều khi thi đỗ trường công, có 2 người vào trường Trung cấp 2 còn lại vào trường tư. Hay ở chính ngôi trường cũ của họ,nơi tôi đang theo học >400 học sinh của lứa 2010 thì chỉ có ~80 vào được trường công. Một con số đáng báo động.
Cũng dễ hiểu vì chương trình học quá tải, áp lực thành tích từ gia đình và nhà trường, cùng với một môi trường học tập thiếu thân thiện đã bào mòn tình yêu với tri thức của các em. Khi việc đến trường mỗi ngày trở thành một cực hình, một chuỗi những căng thẳng và sợ hãi, thì việc từ bỏ là một lựa chọn dễ hiểu. Các em không còn nhìn thấy con đường tương lai thông qua giáo dục chính quy, thay vào đó, các em tìm kiếm những lối đi khác như học nghề, kinh doanh online, hoặc đơn giản là đi làm sớm.
Hệ quả thấy quá rõ ràng,bạo lực,tệ nạn,tội phạm gia tăng. Ở cấp cao hơn là việc lệch lạc tư tưởng hay thiếu hụt nhân tài và chất xám. Chắn hẳn nếu ai sống ở các thành phố phát triển không đồng đều sẽ thấy rõ tình trạng này.
Xu hướng bỏ học không nên được nhìn nhận như là sự thất bại của cá nhân học sinh, mà phải được xem là một bản cáo trạng đanh thép dành cho cả hệ thống giáo dục. Nó cho thấy nền giáo dục đã thất bại trong việc tạo ra một môi trường học tập hạnh phúc, nơi mỗi học sinh được là chính mình, được khơi gợi niềm đam mê và được phát triển theo năng lực riêng. Khi hệ thống chỉ có một con đường duy nhất, một thước đo duy nhất, nó đã vô tình đẩy những người không phù hợp ra bên lề. Sự gia tăng của xu hướng bỏ học chính là tiếng chuông cảnh tỉnh, buộc chúng ta phải nhìn nhận lại một cách nghiêm túc về mục tiêu và phương pháp giáo dục của mình. Nếu không có những thay đổi căn bản, chúng ta sẽ không chỉ mất đi những tài năng tiềm ẩn mà còn tạo ra một thế hệ trẻ mất phương hướng và niềm tin vào con đường học vấn.
Dẫn chứng cho thấy, nguyên nhân bỏ học không còn đơn thuần là do kinh tế. Rất nhiều học sinh bỏ học vì cảm thấy chán nản, mệt mỏi và không tìm thấy ý nghĩa trong việc học.
Ở khu phố tôi sống,mặc dù tôi đang sinh sống ở một trong những thành phố có quy mô lớn bậc nhất ở Việt Nam có lẽ chỉ sau Sài Gòn ở khu vực nhưng trong khu phố tôi sống có 4 anh chị 2010 (lớn hơn tôi 1 tuổi) nhưng cả 4 đều khi thi đỗ trường công, có 2 người vào trường Trung cấp 2 còn lại vào trường tư. Hay ở chính ngôi trường cũ của họ,nơi tôi đang theo học >400 học sinh của lứa 2010 thì chỉ có ~80 vào được trường công. Một con số đáng báo động.
Cũng dễ hiểu vì chương trình học quá tải, áp lực thành tích từ gia đình và nhà trường, cùng với một môi trường học tập thiếu thân thiện đã bào mòn tình yêu với tri thức của các em. Khi việc đến trường mỗi ngày trở thành một cực hình, một chuỗi những căng thẳng và sợ hãi, thì việc từ bỏ là một lựa chọn dễ hiểu. Các em không còn nhìn thấy con đường tương lai thông qua giáo dục chính quy, thay vào đó, các em tìm kiếm những lối đi khác như học nghề, kinh doanh online, hoặc đơn giản là đi làm sớm.
Hệ quả thấy quá rõ ràng,bạo lực,tệ nạn,tội phạm gia tăng. Ở cấp cao hơn là việc lệch lạc tư tưởng hay thiếu hụt nhân tài và chất xám. Chắn hẳn nếu ai sống ở các thành phố phát triển không đồng đều sẽ thấy rõ tình trạng này.
Xu hướng bỏ học không nên được nhìn nhận như là sự thất bại của cá nhân học sinh, mà phải được xem là một bản cáo trạng đanh thép dành cho cả hệ thống giáo dục. Nó cho thấy nền giáo dục đã thất bại trong việc tạo ra một môi trường học tập hạnh phúc, nơi mỗi học sinh được là chính mình, được khơi gợi niềm đam mê và được phát triển theo năng lực riêng. Khi hệ thống chỉ có một con đường duy nhất, một thước đo duy nhất, nó đã vô tình đẩy những người không phù hợp ra bên lề. Sự gia tăng của xu hướng bỏ học chính là tiếng chuông cảnh tỉnh, buộc chúng ta phải nhìn nhận lại một cách nghiêm túc về mục tiêu và phương pháp giáo dục của mình. Nếu không có những thay đổi căn bản, chúng ta sẽ không chỉ mất đi những tài năng tiềm ẩn mà còn tạo ra một thế hệ trẻ mất phương hướng và niềm tin vào con đường học vấn.
IX. Tổng kết
Đây không phải là bài viết tuyên truyền hay cổ động việc bỏ học. Đây là góc nhìn cá nhân của chính tôi đối với nền giáo dục Việt Nam, tôi là học sinh,tôi có thể nhìn nhận chính xác. Nếu bất kì ai phản đối cái quan điểm ấy của tôi. Tôi sẵn sàng tranh luận đến cùng để bảo vệ quan điểm của tôi.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
