1. Mở đầu

Biển Tây Nam Việt Nam.
Biển Tây Nam Việt Nam.
Biển Tây Nam Bộ là vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, trải dài từ Mũi Cà Mau (tỉnh Cà Mau) đến Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang). Về đặc điểm, "vùng Biển Tây Nam (gồm 7 tỉnh: Tiền Giang - Bến Tre - Trà Vinh - Sóc Trăng - Bạc Liêu - Cà Mau - Kiên Giang) vừa là cửa ngõ giao lưu kinh tế vừa là một không gian văn hóa hình thành sớm của Việt Nam. Từ vùng biển này, có nhiều tuyến hải trình thuận lợi đến các quốc gia khu vực như: Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia… Trong các đảo thuộc Biển Tây Nam, Phú Quốc nổi bật lên vì tầm cỡ, tiềm năng kinh tế, truyền thống và cả những huyền tích lịch sử. Phú Quốc có diện tích 580 km², là đảo ven bờ lớn nhất Việt Nam, có phát triển cao và nhiều ảnh hưởng nhất trong vùng vịnh… Là một vùng biển ấm, biển Phú Quốc là môi trường thuận lợi cho sự sinh trưởng của các loài hải sản…". Có thể thấy rằng, biển Tây Nam Bộ ẩn chứa nhiều tiềm năng, sở hữu cả nguồn tài nguyên kinh tế (thủy hải sản, dầu khí, du lịch, vận tải biển…) và tài nguyên vị thế (đặc điểm tự nhiên, vị trí địa - kinh tế - chính trị…).
Trong lịch sử Việt Nam, biển Tây Nam Bộ từng là không gian sinh tồn của cư dân Óc Eo - Phù Nam (thế kỷ I - VI), điều này được xác định trong các thư tịch cổ Trung Quốc: Lương thư viết: "Nước Phù Nam, ở trong vịnh lớn phía tây biển nam quận Nhật Nam, cách Nhật Nam độ bảy ngàn dặm, cách tây nam Lâm Ấp hơn ba ngàn dặm. Đô thành cách biển năm trăm dặm. Có sông lớn rộng mười dặm, từ phía tây bắc, chảy sang phía đông đổ ra biển". Nhờ có điều kiện địa lý thuận lợi, nằm trong vịnh biển lớn thu hút các luồng gió mùa Tây Nam (từ Ấn Độ dương) và Đông Nam (từ Thái Bình dương), các đô thị của vương quốc Phù Nam nhanh chóng phát triển thành trung tâm kinh tế quan trọng, giao lưu buôn bán với nhiều nền văn minh trên thế giới: "Trong hành trình giao thương với đô thị Óc Eo, Nền Chùa có thể là điểm dừng chân của các thương nhân ngoại quốc, họ ghé qua đây để thực hành nghi lễ tôn giáo hay bán buôn hoặc trao đổi hàng hóa. Có lẽ cả hai hoạt động này đều có thể đã từng diễn ra ở Nền Chùa. Bởi lẽ, tại khu di tích này đã tìm thấy khá nhiều đồ gốm nước ngoài, bao gồm đồ La Mã (thế kỷ 2), đồ gốm Trung Quốc (thế kỷ 2-8), đồ gốm Ấn Độ (thế kỷ 1-6) và đồ gốm Tây Á (gốm Islam, thế kỷ 8)… Từ phát hiện quan trọng này cho thấy rằng, với vị trí nằm cách trung tâm đô thị cổ Óc Eo khoảng 12 km về phía Bắc, cách cảng biển Rạch Giá khoảng 15 km về phía Nam, và nằm trên con đường giao thông thủy lộ quan trọng kết nối giữa cảng biển ở biển Tây Nam với đô thị cổ Óc Eo. Đây cũng là cửa ngõ thông thương giữa đô thị cổ Óc Eo với quốc tế thông qua đường biển".
Song để đạt được thành tựu đó, Phù Nam cũng tiến hành những cuộc chinh phạt các nhà nước, tiểu quốc láng giềng nhằm xác lập quyền lực và chủ quyền đối với vùng vịnh. Lương thư chép rõ: "Man [tướng Phù Nam] là người dũng mãnh có trí lược, lại đem quân đánh các nước lân cận, đều quy phục cả, tự xưng là Phù Nam đại vương. Bèn cho đóng thuyền lớn, đi khắp Trướng Hải, đánh hơn mười nước: Khuất Đô Côn, Cửu Trĩ, Điển Tôn… mở đất năm sáu ngàn dặm". Hoạt động kinh tế biển là cơ sở quan trọng nhất của Phù Nam, giúp Phù Nam phát triển thành một "Thể chế biển" hùng mạnh ở Đông Nam Á, một trung tâm thương mại liên thế giới đương thời.
Tuy nhiên, vì nhiều nguyên dân khác nhau (quá trình biển tiến - biển lùi, sự xâm phạm từ vương quốc Chân Lạp, bối cảnh thương mại quốc tế…) mà vương quốc Phù Nam dần đánh mất ảnh hưởng tại vùng biển Tây Nam Bộ, dẫn đến sự suy tàn vào thế kỷ VII. Điều quan trọng là, Phù Nam đã để lại những di sản và bài học kinh nghiệm về khai thác kinh tế biển, quản lý chủ quyền biển cho những triều đại Việt Nam sau đó. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đến thế kỷ XVII - XVIII, chính quyền Đàng Trong của chúa Nguyễn dần từng bước mở rộng, xác lập quyền lực đối với vùng Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long, trong đó có vùng biển đảo Tây Nam Bộ.

2. Cạnh tranh Việt - Khmer - Xiêm tại khu vực thế kỷ XVII - XVIII

Sau khi Phù Nam sụp đổ, vùng Nam Bộ và biển Tây Nam chịu ảnh hưởng lớn của các vương quốc Chân Lạp (thế kỷ VI - IX) và Angkor (thế kỷ VI - XV). Người Khmer đã kiểm soát khu vực này cho đến thế kỷ XIV, khi vùng Đông Nam Á lục địa nổi lên vương quốc Ayutthaya (1351-1767) của người Thái. Trên đà phát triển nhanh chóng, chính quyền Ayutthaya đã chủ trương "Đông tiến" và "Nam tiến" nhằm mở rộng ảnh hưởng, xác lập quyền lực rộng khắp để tạo thế đối đẳng với các thế lực của người Miến vốn luôn thường trực đe dọa: "trước áp lực ngày càng tăng từ phía Bắc của người Miến, chính quyền Ayutthaya đã thực hiện chính sách mở rộng phạm vi ảnh hưởng xuống vùng bán đảo Mã Lai và hướng mạnh về phía Đông Nam tức khu vực hạ lưu Mekong". Từ năm 1431, nhận thấy vương quốc Angkor đang suy yếu, Ayutthaya đã nhiều lần đem quân xâm lược, "tấn công một cách tàn bạo, đốt phá kinh đô, bắt người cướp của, giết vua, buộc người Khmer phải rời bỏ kinh đô, lui về phía Nam, đẩy vương quốc này đến tình trạng kiệt quệ và suy sụp nặng nề". Tại Phnom Penh, Longvek và Oudong, người Khmer lập ra những tiểu quốc riêng, dẫn đến những xung đột nội bộ nhằm tranh giành ngôi vua; đồng thời phải chịu sự kìm kẹp giữa hai thế lực hùng mạnh của người Thái ở phía Tây và người Việt ở phía Đông. Nhìn chung, sự suy tàn của vương triều Angkor đã đánh dấu mốc hoàn thành công cuộc "Đông tiến" của Ayutthaya, tạo tiền đề cho người Thái khẳng định quyền lực tại khu vực, trở thành cường địch đối với các nước láng giềng. Đồng thời, với sự bảo trợ cần thiết của nhà Minh lúc bấy giờ, "triều đình Ayutthaya đã tự coi mình là "Chúa tể của vùng biển Nam". mang tham vọng lớn trong việc cạnh tranh quyền lực tại các vùng biển Đông Nam Á, bao gồm cả biển Tây Nam Bộ.
Cũng trong thời kỳ đó, xung đột Đại Việt - Champa đạt tới đỉnh điểm: "trong 2 năm, 1463 và 1470, Bàn La Trà Toàn đem đại quân đánh châu Hóa… Bàn La Trà Toàn bị triều thần Đại Việt lên án nặng nề "là người hung bạo, làm bậy, dối thần, ngược dân, lại kiêu ngạo tự cho mình là giỏi, khinh rẻ làm nhục sứ thần của triều đình (Đại Việt), xâm nhiễu dân biên giới...". Nhưng không phải chỉ có thế. Hiện tượng Bàn La Trà Toàn có lẽ còn khơi lại cả sự kiện Chế Bồng Nga, nhắc lại một mối lo ngại không dứt". Trong thế cuộc đó, Lê Thánh Tông (1442-1497) cùng vương triều Lê buộc phải hướng đến một quyết sách dứt khoát, nhằm hạn chế đến tối đa và ở mức độ nào đó là ngăn chặn hoàn toàn những tính toán khu vực và hành động gây hấn của Champa. Có thể thấy rằng, Champa có đủ khả năng làm ảnh hưởng đến mục đích phát triển quốc gia, không gian sinh tồn và thế vươn lên của thể chế Đại Việt trong bối cảnh khu vực có nhiều biến động. Kết quả là "sau khi dẹp yên mối hiểm họạ từ phương Bắc, ổn định được thế cuộc chính trị trong nước đồng thời nhận thấy nhà Minh khó có khả năng tiếp tục tổ chức những hạm đội lớn tiến xuống biển Nam nên năm 1471 Lê Thánh Tông đã thân chinh dẫn đại quân gồm hơn 1.000 chiến thuyền và 70 vạn tinh binh vượt biển tấn công vào kinh đô Chà Bàn (Vijaya)". Về cơ bản, Champa đã không còn khả năng vực dậy sau trận chiến năm 1471, và đến thế kỷ XVII thì chính quyền Đàng Trong tiếp tục sáp nhập các tiểu quốc còn lại của người Chăm, lập ra trấn Thuận Thành. Trên cơ sở đó, các chúa Nguyễn tiếp tục công cuộc mở rộng bờ cõi, xác lập chủ quyền tại Nam Bộ và biển Tây Nam.
Nhìn chung, cho đến thế kỷ XVII, cạnh tranh ở phía Nam bán đảo Đông Dương diễn ra chủ yếu giữa người Việt, người Thái (Xiêm) và người Khmer; trong đó, quan hệ giữa Khmer và Xiêm thường xuyên căng thẳng. Trước mối đe dọa thường trực từ phía Tây, các vua Khmer đã thể hiện thiện chí liên kết với chính quyền Đàng Trong, điều này đã được phía chúa Nguyễn đón nhận, thể hiện qua cuộc hôn nhân giữa công chúa Ngọc Vạn (con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên) và vua Khmer là Chey Chetta II vào năm 1620. Dựa vào mối quan hệ này, chúa Nguyễn có thể đưa quân đội vào những vùng sâu xa hơn phía Nam với mục tiêu giúp đỡ đồng minh chống lại quân đội Xiêm và các lực lượng thân Xiêm. Năm 1628, Chey Chetta II qua đời dẫn đến cuộc nội chiến giữa các tiểu quốc Khmer nhằm tranh giành ngôi vương. Kết quả, "con của Chey Chetta II và bà Ngọc Vạn lên kế vị vua cha. Các thế lực hoàng thân đã tìm cách tranh giành quyền lực, nhiều người đã trốn vào cung của Hoàng thái hậu Ngọc Vạn để nhờ bà xin viện binh của chúa Nguyễn. Năm 1658, chúa Nguyễn sai đem 3.000 quân sang đánh Chân Lạp, bắt được vua là Nặc Ông Chân sau đó tha cho về nước, bắt phải triều cống và phải tạo điều kiện cho người Việt sang làm ăn sinh sống. Sau khi Nặc Ông Chân qua đời, với sự hậu thuẫn của Đàng Trong, vua Batom Reachea (1660 - 1672) lên ngôi đã chấp nhận triều cống chúa Nguyễn hàng năm và bảo đảm cho người Việt đến khai phá ở vùng đất Chân Lạp". Như vậy, chính quyền Đàng Trong đã có cơ sở vững chắc để vừa tiến xuống phía Nam, vừa hạn chế đụng độ quân sự với Khmer nhờ quyền uy đã được khẳng định. Không lâu sau đó, năm 1673, vua Khmer là Ang Chee (1652-1677) cầu viện Xiêm để tiêu diệt phó vương Ang Nan (1654-1691). Ang Nan đã cầu cứu chúa Nguyễn Phúc Tần, phía Đàng Trong cử Cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Đình Phái đem binh sang giúp Ang Non, chiếm được Prey Nokor (sau trở thành Sài Gòn). Sang thế kỷ XVIII, các vua Khmer lần lượt dâng đất Mỹ Tho, Vĩnh Long, Long An, Gò Công (nay là Tiền Giang), Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Sa Đéc (nay là Đồng Tháp) và Châu Đốc (nay là An Giang).
Cần phải nhấn mạnh rằng, các chúa Nguyễn ban đầu không chủ trương xâm phạm lãnh thổ của Khmer. Bằng chính sách đối ngoại linh hoạt, can thiệp phù hợp và hỗ trợ thiết thực trong các xung đột hoàng tộc Khmer; chính quyền Đàng Trong đã từng bước xác lập uy thế, ảnh hưởng ổn định đối tại vùng hạ lưu sông Mekong. Nhờ vậy, tiến trình mở rộng xuống phương Nam diễn ra tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, sức ép từ Xiêm luôn hiện hữu, nhất là khi nước này liên tục đe dọa Khmer nhằm tìm cách kiểm soát khu vực hạ lưu Mekong, từ đó vươn ra vùng vịnh phía Nam. Trong bối cảnh đó, các chúa Nguyễn nhận thức rằng bảo vệ lãnh thổ và an ninh quốc gia không chỉ giới hạn trong phạm vi đất liền mà còn phải kiểm soát chặt chẽ không gian biển đảo. Từ cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII, song song với việc phát triển vùng đất Nam Bộ, nhu cầu củng cố quyền lực tại vùng biển Tây Nam càng trở nên cấp thiết. Điều đó trở thành cơ sở cho các hoạt động xác lập chủ quyền và khai thác kinh tế của chúa Nguyễn tại vùng biển Tây Nam Bộ trong những năm tháng cầm quyền.

3. Hoạt động xác lập chủ quyền và khai thác kinh tế biển của chính quyền Đàng Trong trên vùng biển Tây Nam Bộ

Có thể nói, điểm then chốt trong quá trình xác lập chủ quyền biển Tây Nam Bộ của chính quyền Đàng Trong là phải giữ vững Hà Tiên do vị trí địa - chiến lược của vùng đất này: Nằm trong vịnh biển lớn, có tuyến đường thương mại quốc tế đi qua, các đảo vây quanh có thể hỗ trợ trong các tình huống quân sự và hơn hết là rất gần với biên giới Khmer và Xiêm.
Trước kia, Hà Tiên có tên Mang Khảm (Peam), thuộc phủ Sài Mạt (Banteay Meas) do người Khmer làm chủ nhưng lại không có chính sách quản lý, khai thác triệt để. Khi Mạc Cửu (1655-1735), một thương nhân Trung Quốc tới biển Tây Nam, đặt chân lên đất Mang Khảm, ông đã tiến hành lập nghiệp, tập hợp dân chúng sản xuất dưới sự cho phép của vua Khmer. Tại đây, Mạc Cửu cùng những đồng hương đã tiến hành nhiều hoạt động kinh tế đa dạng, mở mang kĩ thuật canh tác theo kiểu Trung Hoa do cư dân địa phương. Bên cạnh đó, là một thương nhân giàu kinh nghiệm, Mạc Cửu đã nhận ra Hà Tiên có nhiều tiềm năng kinh tế và tiềm năng vị thế. Đến cuối thế kỷ XVII, dưới sự dẫn dắt của Mạc Cửu, "từ đó cho đến bây giờ [từ xưa cho đến nay] chưa có lúc nào Hà Tiên nhộn nhịp và phát triển như thế. Tàu của các nước láng giềng như Mã Lai, Nam Dương, Hải Nam, Hoa Nam… ít lui tới Xiêm La và tấp nập tại đây, gọi vùng Hà Tiên là "Cẳn Khảo" (Giang Khẩu, Cảng Khẩu) còn vùng giang sơn của Mạc Cửu gọi là <Mang Khảm>". Tuy nhiên, sự lớn mạnh của Hà Tiên đã động chạm trực tiếp đến lợi ích của Xiêm tại biển Tây Nam, do đó Hà Tiên đã bị kẻ thù tấn công, Mạc Cửu bị bắt trong trận này. Một thời gian sau, nước Xiêm có loạn, Mạc Cửu may mắn trốn thoát trở về đất Hà Tiên xây dựng lại cơ đồ.
Lễ giỗ Đức khai trấn Mạc Cửu là một trong những lễ hội ở Phú Quốc nổi tiếng.
Lễ giỗ Đức khai trấn Mạc Cửu là một trong những lễ hội ở Phú Quốc nổi tiếng.
Đến đầu thế kỷ XVIII, chính quyền Đàng Trong vẫn đang đẩy mạnh công cuộc khai khẩn đất tại vùng đồng bằng Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long với mục tiêu tìm kiếm các không gian kinh tế mới, bao gồm cả rừng núi, châu thổ và biển. Với tư duy trọng thương, hướng ngoại cởi mở, nhiều cộng đồng dân cư ở Nam Bộ đã quy phục chúa Nguyễn, hướng theo tinh thần phát triển truyền thống giao thương, giao lưu văn hóa trên biển và khai thác kinh tế biển của chính quyền. Nhận thấy điều đó, Mạc Cửu đã xin quy phục chúa Nguyễn Phúc Chu và chính quyền Đàng Trong vào năm 1714. Chúa Nguyễn chấp thuận, sắc phong và tạo nhiều điều kiện cho Hà Tiên phát triển, vì thế mà họ Mạc hết sức trung thành với chính quyền Đàng Trong.
Đất Cancao ou Pontiamo (Hà Tiên) do Mạc Cửu cai trị quy phục chúa Nguyễn, nằm trong bản đồ Đại Nam năm 1829.
Đất Cancao ou Pontiamo (Hà Tiên) do Mạc Cửu cai trị quy phục chúa Nguyễn, nằm trong bản đồ Đại Nam năm 1829.
Năm 1735, Mạc Cửu qua đời, con trai là Mạc Thiên Tích (hay Mạc Thiên Tứ, 1718-1780) thay cha cai quản Hà Tiên. Với chính sách trọng thương, tự do buôn bán, Hà Tiên dưới thời Mạc Thiên Tích ngày càng phát triển hưng thịnh, tăng cường vị thế: "Hà Tiên lúc đó được gọi là "Tiểu Quảng Châu" tiếp đón tàu của các vương quốc bán đảo Mã Lai, Sumatra, Java, Xiêm, Ấn, Miến Điện, Ngũ Quảng, Phúc Kiến, Hải Nam, Quảng Đông… Bang giao với các vương quốc Mã Lai được thắt chặt nhờ ngoại thương. Bang giao với Miến Điện là mối ưu tư lớn nhất của Hà Tiên, vì Miến Điện là kẻ thù của đối phương (Xiêm)". Có thể thấy rằng, chiến lược phát triển của Hà Tiên luôn giữ vững hai trọng điểm: Thứ nhất, Xiêm là kẻ thù hàng đầu, mối thù này đã có từ đời Mạc Cửu. Việc họ Mạc quy phục Đàng Trong không chỉ vì chính quyền này có tư duy hướng ngoại và trọng thương, mà còn vì Xiêm là đối thủ cạnh tranh chính của Đàng Trong trên vùng biển Tây Nam; Thứ hai, chính sách bang giao của Hà Tiên gắn liền với hoạt động thương mại của xứ này.
Nhận thức rõ rằng quá trình xác lập chủ quyền luôn gắn liền với hoạt động khai thác kinh tế, hai quá trình này diễn ra song song và có sự tương hỗ lẫn nhau, chính quyền Đàng Trong đã dành nhiều điều kiện để phát triển Hà Tiên thành trọng điểm kinh tế - chính trị. Khi đã bảo đảm được sự trung thành từ họ Mạc, chính sách đối với Hà Tiên của chúa Nguyễn rất rõ ràng: Về chính trị - an ninh, Hà Tiên sẽ là "tiền đồn" ngăn cản Xiêm tiến vào vùng vịnh, tránh xâm phạm biên giới đất liền và biển đảo của Đàng Trong; Về kinh tế, Hà Tiên sẽ trở thành thương cảng trung tâm ở phía Nam (tương tự như Hội An ở miền Trung). Các thuyền buôn quốc tế khi đến biển Tây Nam sẽ có thể nhận diện vị thế, chủ quyền của Đàng Trong thông qua Hà Tiên.
Cụ thể hóa chính sách đó, để tăng cường khả năng chiến đấu - phòng thủ cho trấn Hà Tiên, "Năm 1736, Mạc Thiên Tứ được phong làm Đô đốc [Tổng binh] trấn Hà Tiên. Nhà vua [chúa Nguyễn] tặng ông ba con tàu có biểu tượng rồng. Những con tàu này được miễn thuế trong sứ mệnh đi biển và mua bảo vật cho nhà vua. Vua ra lệnh cho họ Mạc lập một xưởng đúc tiền để đúc tiền dùng trong buôn bán. Vì vậy, Mạc Thiên Tứ bắt đầu lập xưởng đúc tiền, tập hợp binh lính, xây dựng thị trấn và pháo đài, mở rộng đường phố". Quyết định này của Đàng Trong đã thể hiện sự dứt khoát trong vấn đề chính trị và bảo đảm an ninh biên giới, cho thấy tiềm lực và uy thế của một cường quốc hải thương. Về thủy quân Đàng Trong ở Hà Tiên, Phủ biên tạp lục chép: "Dinh trấn Hà Tiên, có các thuyền Kiên nhất, Kiên nhị, Kiên đao, Kiên nhưng, Nghĩa thắng, Kiên phong, Long Kỳ, Tráng súng, 8 thuyền (Tổng binh quản 6 thuyền, cai bạ, tri bạ mỗi viên quản một thuyền). Có đội Thủy thắng, thuộc về đấy 3 thuyền. Có đội Hùng bộ 3 thuyền và các đội Tả thủy, Hữu thủy. Các cơ đội thuyền trên đây, trừ thổ binh được miễn tiền gạo sưu suất không cấp lương ra, còn đều lĩnh lương ở kho Nhà nước". Có thể thấy rằng, bên cạnh quân đội của riêng trấn Hà Tiên, chúa Nguyễn cũng tăng cường, hỗ trợ thêm cho Hà Tiên các lực lượng thủy quân chính quy. Nhờ vậy mà Xiêm đã nhiều lần thất bại khi cố gắng xâm phạm chủ quyền biển đảo của dân tộc Việt: "Vương quốc [Hà Tiên] đã cản được phần nào sự tiến ra bể của dân Thái. Cứ nhìn bản đồ Đông Nam Á chúng ta sẽ thấy được điều này. Quân Xiêm không tràn qua phía đông được vì gặp phải sức mạnh Hà Tiên, trong lúc đó sức mạnh của Xiêm không ai cản trở [từ phía tây] nên đã chiếm một phần rất lớn bán đảo Mã Lai. Như vậy, Hà Tiên đã hoàn tất vai trò giữ vững cho dân tộc Việt cửa ngõ nhìn ra Vịnh [Biển Tây Nam], và những thành trì kiên cố để bảo vệ cửa ngõ này, là các hải đảo trong Vịnh [Biển Tây Nam]".
Cho đến nửa đầu thế kỷ XVIII, các chúa Nguyễn đã thiết lập một hệ thống thương cảng rộng khắp, liên kết từ miền Trung (Thị Nại, Hội An, Cù Lao Chàm…) đến miền Nam (Đồng Nai, Sài Gòn, Gia Định…) và đặc biệt là Hà Tiên đóng vai trò trọng yếu. Từ thời Mạc Cửu, Hà Tiên đã trở thành đối tác kinh tế của Trung Hoa và Nhật Bản: "Năm 1728 và năm 1729, Mạc Cửu phái Lưu Vệ Quân và Huỳnh Tập Quan mang hai thương thuyền sang Nhật Bản liên hệ việc mậu dịch, được chính phủ Nhật Bản - Mạc Phủ Đức Xuyên [Tokugawa] cấp giấy phép buôn bán. Năm 1731 và năm 1732, lại phái thương thuyền sang Nhật. Việc buôn bán với Trung Quốc cũng được bắt đầu từ năm 1729, từ đó những thổ sản của Hà Tiên như hải sâm, cá khô, tôm khô… liên tục được xuất cảng sang Trung Quốc". Còn đến thời Mạc Thiên Tứ, "vùng đất Tây Nam nước ta phát triển cực thịnh, Hà Tiên là một thương cảng, nơi cập bến của những đội tàu buôn Đông-Tây. Những con tàu của thương nhân Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha chở gốm sứ, rượu sang đổi sản vật, tơ lụa ở Châu Á đều phải đi qua vùng biển này… Sách Gia Định thành thông chí và Đại Nam nhất thống chí cũng cho biết: từ thế kỷ XVII, XVIII, thuyền Quỳnh Châu từ Quảng Đông thường đến vùng biển Hà Tiên, Phú Quốc đậu để mua hải sâm, bong bóng cá, lẫn với dân ta, buồm thuyền liền nhau…".
Ngoài các mặt hàng trong nước, thương phẩm từ nước ngoài cũng được các thuyền buôn Hà Tiên mang về bán: "Từ năm 1758 đến năm 1774, thông qua các thương cảng ở Đông Nam Á, Quảng Châu nhập khẩu 83.267 đàm thiếc, trong đó chỉ riêng nhập khẩu từ thương cảng Hà Tiên là 24.684 đàm thiếc, chiếm 30% tổng số lượng thiếc nhập khẩu về Quảng Châu. Chỉ tính riêng năm 1769, Quảng Châu nhập khẩu từ Hà Tiên là 6.000 đàm thiếc, năm 1774 một thuyền buồm từ Hà Tiên cập cảng Quảng Châu đã mang theo 1.400 đàm thiếc, ngoài ra còn hai thuyền khác cũng đều vận chuyển thiếc đến Quảng Châu, ước tính trong năm này số lượng thiếc vận chuyển từ thương cảng Hà Tiên về Quảng Châu là 5.000 đàm". Cần phải làm rõ là, thiếc không phải là mặt hàng có nguồn gốc ở Hà Tiên, loại khoáng sản này là sản vật tư nhiên đặc trưng của Palembang (Sumatra, Indonesia). Hơn thế nữa, Hà Tiên còn đóng vai trò là "kho thóc dồi dào nhất của phần đất miền Đông châu Á", nơi mà người Malay, Nam Hà (Đàng Trong), Xiêm đều dựa vào nếu như nạn đói xảy ra, bởi vị trí đặc thù nằm giữa hai trung tâm cung cấp lúa gạo chủ đạo trên Đông Nam Á lục địa - châu thổ sông Mekong và châu thổ sông Chao Phraya. Có thể thấy, cư dân Hà Tiên đã biết cách khai thác và chế biến các sản vật từ nhiều không gian kinh tế, trong đó có vùng biển đảo (như hải sâm, cá khô, tôm khô...) để xuất khẩu. Những hoạt động kinh tế này, cùng với việc lập cảng, vận tải và buôn bán của người Việt tại vùng biển Tây Nam, đều được vận hành hiệu quả dưới sự quản lý của chính quyền họ Mạc. Quan trọng hơn, nền ngoại thương của trấn Hà Tiên trở nên năng động chính nhờ sự bảo hộ và hỗ trợ tích cực từ chính quyền Đàng Trong. Giữ vững và phát triển trấn Hà Tiên tạo cho Đàng Trong một điểm tựa vững chắc để hoàn thành hai mục tiêu then chốt: Xác lập chủ quyền và kiểm soát các hoạt động khai thác kinh tế trên biển Tây Nam.

4. Kết luận

Nhìn tổng thể, hoạt động xác lập chủ quyền và khai thác kinh tế biển của chính quyền Đàng Trong tại vùng biển Tây Nam Bộ thế kỷ XVIII luôn có sự song hành, được triển khai với một chủ trương nhất quán. Trong bối cảnh cạnh tranh phức tạp với các thế lực khu vực, các chúa Nguyễn đã thể hiện tầm nhìn chiến lược thông qua chính sách đối ngoại linh hoạt và xây dựng các tiền đồn kinh tế - quân sự tại những vị trí then chốt (với trường hợp Hà Tiên là minh chứng rõ nhất): "Mạc Cửu rồi sau đó là Mạc Thiên Tứ không chỉ ra sức xây dựng và phát triển Hà Tiên trở thành một trung tâm kinh tế phồn thịnh, mà còn nêu cao ý thức bảo vệ chủ quyền với tư cách là người được giao trách nhiệm bảo vệ vùng biên giới cực Nam đất nước". Nhờ đó, Đàng Trong không chỉ khai thác được nhiều nguồn lợi kinh tế từ biển, mà hơn hết là củng cố vững chắc chủ quyền của người Việt tại vùng biển Tây Nam.