1. Những tiếp xúc đầu tiên giữa Nhật Bản và Tây Ban Nha

Từ thế kỷ XIII - XIV, thông qua chuyến phiêu lưu và những ghi chép về phương Đông của nhà thám hiểm Marco Polo, đã hình thành trong tâm thức của người châu Âu thời điểm bấy giờ về một phương Đông xa xôi, huyền bí và giàu có, được cụ thể hóa thông qua vùng đất truyền thuyết “Cinpango/Zinpangu”. Quan điểm này đã quán triệt nhận thức và tư duy của người châu Âu thời đại tiền khai phá hàng hải, tạo tiền đề cho những ước vọng dong thuyền vượt qua biển khơi để tới miền đất hứa giàu có và trù phú kia của người châu Âu: “Cipangu là một hòn đảo nằm về phía Đông, vô cùng giàu có về vàng... vị quốc vương tại đó sở hữu một cung điện tráng lệ, toàn bộ mái được lợp bằng vàng nguyên chất”. Từ những ghi chép trên, có thể đoán Cinpango là hình tượng hóa cụ thể của phương Đông, được lấy dựa trên nguyên mẫu chính là Nhật Bản. Các nhà nghiên cứu cũng đã xác nhận tên “Cipango” là một cách chuyển âm châu Âu từ cách gọi Trung Hoa đối với Nhật Bản, Rinben/Jih-peh-kuo/Rinbenguo (Nhật Bản Quốc). Sau này tên gọi Cinpango dần được thay thế bằng Japon (tiếng Pháp) hoặc Japan (tiếng Anh). Có thể thấy, lăng kính của người châu Âu thêu dệt và hình tượng hóa Nhật Bản trở thành đại diện cho khát vọng về “Vùng đất Viễn Đông lý tưởng”.
Nhật Bản trong nhận thức xưa của châu Âu.
Nhật Bản trong nhận thức xưa của châu Âu.
Năm 1492, công cuộc Reconquista (Tái chính phục) được hoàn tất đã giúp các công quốc Iberia giành lại quyền kiểm soát bán đảo từ người Hồi giáo. Trong bối cảnh đó, cuộc hôn nhân giữa Isabella I của Castile và Ferdinand II của Aragon đã đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử Tây Ban Nha khi lần đầu tiên dân tộc này có một lãnh thổ thống nhất. Trên đà phát triển nhanh chóng của chế độ quân chủ, triều đình Tây Ban Nha tuyên bố sứ mệnh bảo vệ và truyền bá đức tin Công giáo, coi việc đưa các dân tộc chưa theo Công giáo về với ngai vàng và đức tin là thiên mệnh: “Các vị vua Công giáo [Reyes Católicos] đã thực hiện công cuộc truyền đạo như một sự mở rộng tự nhiên quyền lực tối cao của họ đối với các vùng lãnh thổ mới được khám phá”. Ngày 4/5/1493, tông sắc của Giáo hoàng Alexander VI tuyên rằng: Lấy ranh giới là đường kinh tuyến cách 100 hải lý về phía tây của Mũi Hảo Vọng, toàn bộ các vùng đất từ đường kinh tuyến này đổ sang phía tây của nó sẽ thuộc quyền kiểm soát của Ferdinand II và Isabella I. Cùng với Hiệp ước Tordesillas được ký kết một năm sau đó, triều đình Tây Ban Nha đã có sự hậu thuẫn về chính trị - tôn giáo để chuẩn bị cho các hải trình từ Tân thế giới (châu Mỹ) tiến sang phương Đông.
Tông sắc của Giáo hoàng Alexander VI (1493).
Tông sắc của Giáo hoàng Alexander VI (1493).
Mặt khác, trong bối cảnh chủ nghĩa trọng kim chi phối các nhà cầm quyền tại châu Âu, sự tồn tại của vùng đất giàu vàng bạc như Cinpago càng kích thích tham vọng hướng về châu Á. Thực tế, vào năm 1486, Christopher Columbus đã nộp bản kế hoạch hải trình đến “las Indias” cho triều đình, nhấn mạnh mục tiêu chuyến hải trình hướng tới là Cipango (Nhật Bản) và Cathay (Trung Quốc). Trong bức thư gửi về năm 1492, Colombus nhắc lại rằng: “Tôi xin đề xuất với Bệ hạ về việc khám phá hòn đảo là Cinpago và nhiều hòn đảo khác, giàu vàng và gia vị”. Sau chuyến đi đầy thành công của Columbus đến châu Mỹ, triều đình Tây Ban Nha tiếp tục tài trợ cho các chuyến đi của Magellanes, Elcano, Lezgapi… với mục tiêu khám phá toàn bộ châu Á, trong đó Trung Hoa và Nhật Bản là đối tượng tìm kiếm trọng tâm.
Có thể thấy rằng, Nhật Bản đã trở thành một điểm đến đầy tiềm năng trong mắt người châu Âu nói chung và Tây Ban Nha nói riêng, vừa phục vụ tham vọng mở rộng lãnh thổ, truyền bá tôn giáo; vừa mang nguồn tài nguyên giá trị trong bối cảnh chủ nghĩa trọng kim đang là xu thế tại phương Tây. Chính từ những động lực trên, những tiếp xúc đầu tiên giữa Nhật Bản và Tây Ban Nha đã diễn ra, mở ra một thời kỳ giao lưu Đông - Tây hết sức sôi động với các hoạt động chính trị, tôn giáo và thương mại đan xen, để lại nhiều dấu ấn đối với lịch sử khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, những tiếp xúc đầu tiên giữa Nhật Bản và Tây Ban Nha không đến từ quan hệ đối ngoại chính thức giữa hai nhà nước, mà thông qua các hoạt động truyền giáo gắn liền với Francis Xavier - một giáo sĩ Dòng Tên (Jesuit). Xavier đã có mặt trong các thương đoàn của Bồ Đào Nha đi sang phương Đông, và tại Malacca, ông đã có cơ duyên gặp gỡ một người Nhật Bản tên là Paul Yajiro có ý muốn trở thành tín đồ Công giáo. Năm 1549, Xavier cùng người này đã cập cảng ở Kagoshima nhưng gặp phải sự đề phòng của chính quyền và bị từ chối gặp mặt. Chính vì vậy Xavier phải chuyển mục tiêu tiếp cận sang các lãnh chúa địa phương. Bằng nhiều cách thức thể hiện thiện chí (biếu tặng quà cáp, trình thư từ của vua John III (Bồ Đào Nha) và Giáo hoàng Paul III…), các lãnh chúa vùng Kyushu đã tin tưởng và cho phép Xavier cùng các tu sĩ cộng sự quyền tự do truyền đạo; cho phép người dân trở thành tín đồ Công giáo nếu muốn; và thậm chí có hành động cực đoan như phá bỏ đền thờ Shinto giáo và chùa Phật giáo. Song, mặc dù Francis Xavier là người Tây Ban Nha nhưng phái đoàn mà vị giáo sĩ này tham gia là của Bồ Đào Nha, vì thế quan hệ bang giao chính thức Nhật Bản - Tây Ban Nha vẫn chưa được thiết lập vào thời điểm này. Sau khi Xavier qua đời vào năm 1552, sứ mệnh truyền giáo được giao cho giáo sĩ Tây Ban Nha là Cosme de Torre đảm nhận, nhưng đến năm 1570 thì Torre lâm trọng bệnh cáo chung. Từ đó cho đến thập niên 80 của thế kỷ XVI, vai trò truyền đạo tại Nhật Bản do các tu sĩ Dòng Tên khác phụ trách, mà đóng vai trò quan trọng nhất là Alessandro Valignano. Nhờ tầm hiểu biết sâu rộng, tài năng tổ chức, sự nhạy bén và thấu hiểu đặc điểm chính trị - xã hội và văn hóa Nhật Bản, Valignano đã góp phần phát triển Kito giáo tại Nhật Bản cũng như đời sống tôn giáo tại đây trong giai đoạn cuối thế kỷ XVI. Hình ảnh tốt đẹp về người châu Âu có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng đến các hoạt động thương mại, truyền giáo của Tây Ban Nha với Nhật Bản trong những năm kế tiếp.

2. Hoạt động thương mại, truyền giáo của Tây Ban Nha với Nhật Bản

Thuyền Tây Ban Nha tại vùng biển Đông Nam Á.
Thuyền Tây Ban Nha tại vùng biển Đông Nam Á.
Sự phân chia vùng ảnh hưởng từ tông sắc của Giáo hoàng Alexander VI và Hiệp ước Tordesillas đã khiến các hoạt động của Tây Ban Nha tại Viễn Đông gặp nhiều hạn chế. Con đường sang châu Á của Bồ Đào Nha cũng nhanh hơn, thuận tiện hơn so với hải trình vượt qua Đại Tây Dương - Thái Bình Dương nhờ khoảng cách địa lý và mối liên kết sâu dày giữa các nhà nước Đông phương. Vì vậy, trong lúc Tây Ban Nha đang chinh phạt và xác lập quyền lực tại châu Mỹ (xuyên suốt thế kỷ XVI) thì Bồ Đào Nha đã có quan hệ với nhiều trung tâm kinh tế - chính trị châu Á, trong đó Trung Quốc và Nhật Bản sớm thu hút sự chú ý của người châu Âu bởi đây là hai thị trường buôn bán lớn, đem lại nhiều lợi nhuận nhất trong thế kỷ XVI - XVII: Người Bồ Đào Nha đã đến buôn bán ở Macao (Trung Quốc, 1517); Deshima (Nhật Bản, 1543) và Formosa (Đài Loan, 1544). Về phía Nhật Bản, nhờ ảnh hưởng của các giáo sĩ Dòng Tên mà vào năm 1570, lãnh chúa Omura Sumitada của phiên Shimabara đã cho phép Bồ Đào Nha sử dụng cảng Nagasaki, cho thấy thế lực của người Bồ bắt đầu cắm sâu gốc rễ trên đất Nhật Bản. Bối cảnh lịch sử đó báo hiệu những khó khăn mà triều đình Tây Ban Nha khi tiến hành hoạt động thương mại, truyền giáo tại nước Nhật.
Từ thế kỷ XV, Nhật Bản đã bước vào thời kỳ Chiến quốc (Sengoku jidai) - cuộc nội chiến giữa các thế lực quân phiệt trong bối cảnh Mạc phủ Ashikaga ngày càng suy yếu. Đến cuối thế kỷ XVI, tình hình Nhật Bản đã diễn ra sự kiện quan trọng: Năm 1573, Oda Nogunaga giải thể Mạc phủ Ashikaga, phát động chiến tranh nhằm thống nhất lãnh thổ Nhật Bản. Do quy mô chiến trận và tính chất khốc liệt ngày càng tăng, các lãnh chúa có xu hướng xây dựng các tòa thành kiên cố, tăng cường khả năng phòng thủ. Điều này đã mở ra xu hướng du nhập các loại vũ khí, chiến thuật quân sự phương Tây vào Nhật Bản, kéo dài đến hết thời kỳ Chiến quốc. Tuy nhiên, do vừa chiếm Philippines và xây dựng thương điếm ở Manila vào năm 1571, Tây Ban Nha cần thời gian để ổn định lực lượng và mạng lưới thương mại Galleons, vì thế phải đến những năm 1590 thì người Tây Ban Nha mới tăng cường hoạt động tại Nhật Bản.
Oda Nobunaga.
Oda Nobunaga.
Toyotomi Hideyoshi là bề tôi, đồng thời là người kế thừa ý chí của Nobunaga sau khi lãnh chúa này bị ám sát năm 1582. Trong nhận thức của mình, Hideyoshi cho rằng hành động đốt phá đền chùa, tàn sát các nhà tu hành của chủ tướng Nobunaga và nhiều lãnh chúa trước đó sẽ làm tổn hại đến tôn giáo truyền thống của Nhật Bản. Sự suy yếu của Phật giáo, Shinto giáo… chính là điều kiện để Kito giáo nhanh chóng vượt ngoài khả năng kiểm soát của Hideyoshi và có thể sẽ làm đảo lộn thể chế cũng như quan hệ, tập quán cố hữu của người Nhật. Ngày 25/7/1587, với tư cách Nhiếp chính (Kampaku), Hideyoshi đã ra lệnh cấm các giáo đoàn hoạt động, cấm tuyên truyền Kito giáo và yêu cầu các giáo đoàn rời khỏi Nhật Bản. Năm 1591, lệnh cấm thứ hai được ban hành với chỉ thị rằng chính Kito giáo đã làm đảo lộn trật tự truyền thống và nếu như tình trạng đó cứ tiếp diễn thì sự thống nhất dân tộc sẽ bị đe dọa. Là một nhà chuyên chế, Hideyoshi không cho phép bất cứ một lực lượng nào gây ra tình trạng bất ổn, vì vậy đã thực hiện chủ trương bài trừ tôn giáo quyết liệt.
Toyotomi Hideyoshi.
Toyotomi Hideyoshi.
Năm 1592, Tây Ban Nha chính thức thiết lập quan hệ giao thương với chính quyền Hideyoshi. Đối với Tây Ban Nha, Nhật Bản là thị trường hết sức quan trọng bởi đây là nước có trữ lượng bạc lớn, có thể sánh với những mỏ bạc ở Peru hay một số vùng mỏ khác tại Nam Mỹ. Hơn thế nữa, loại bạc khai thác ở Nhật Bản được coi là tinh chất nhất, rất được ưa chuộng trên thị trường thế giới lúc bấy giờ. Vào giữa thế kỷ XVI, có tới 50 mỏ vàng, 30 mỏ bạc được khai thác ở Nhật Bản. Bên cạnh đó, biết được những ghi chép rằng người Bồ Đào Nha thường mang khỏi Nhật hàng trăm nghìn ducats bạc mỗi năm đã thu hút mạnh mẽ giới thương nhân Tây Ban Nha. Hoạt động thương mại giữa Tây Ban Nha và Nhật Bản diễn ra năng động trong bối cảnh hoàng kim của giao thương Đông Á. Do đất nước đang chiến loạn, thương thuyền Nhật thường vận chuyển các mặt hàng đến Manila - trụ sở kinh tế của Tây Ban Nha tại Viễn Đông, đóng vai trò là trạm trung chuyển giữa thị trường Trung Hoa, Nhật Bản và Châu Mỹ. Trong hệ thống này, bạc Nhật và tơ lụa Trung Hoa là các thương phẩm trọng tâm, có giá trị cao tại Manila; còn người Tây Ban Nha cũng mang đến len dạ, đồ thủy tinh, vũ khí… để trao đổi với hàng hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Các hoạt động này được coi là phi quan phương, chủ yếu diễn ra giữa các tập đoàn thương nhân với nhau.
Tuy nhiên, với vị thế là một cường quốc hàng hải, mang sứ mệnh mà Giáo hội Công giáo La Mã giao phó, “tôn giáo và thương mại là sự song hành không thể tách rời trong chiến lược mở rộng của Tây Ban Nha ở châu Á”. Bất chấp những chỉ thị cấm đạo đã được ban hành của chính quyền Nhật Bản, các giáo sĩ Tây Ban Nha thuộc nhiều tổ chức khác nhau vẫn tiếp tục đến truyền giáo ở một số khu vực thuộc vùng Tây - Nam Nhật Bản. Sự hiện diện của các tổ chức Kitô giáo này càng làm cho sinh hoạt tôn giáo ở Nhật Bản trở nên phức tạp. Năm 1596, thương thuyền San Felipe của Tây Ban Nha bị mắc cạn ngoài khơi Urato (thuộc phiên Tosa) và toàn bộ hàng hóa trên tàu bị lãnh chúa địa phương thu giữ. Để giành lại số hàng nói trên, viên hoa tiêu của chiếc tàu mắc nạn đã dùng những lời lẽ trịch thượng đầy vẻ đe doạ để nói về uy quyền của vua Tây Ban Nha và chỉ rõ mục đích của Tây Ban Nha là dùng tôn giáo đi trước mở đường cho quá trình làm chủ biển khơi và xâm lược lãnh thổ. Sau khi khẳng định chắc chắn nguồn tin nói trên, Hideyoshi càng tin rằng Kitô giáo có liên hệ chặt chẽ với những thế lực quân sự ngoại bang và sẽ dọn đường cho các nước châu Âu xâm lược Nhật Bản. Ngay lập tức ông đã có những phản ứng mạnh mẽ chống lại “dị giáo” này bằng việc hành quyết một lúc 26 người. Đoàn tử tội gồm: 6 giáo sĩ thuộc dòng Francisco cùng 17 tín đồ Nhật Bản và 3 linh mục Dòng Tên sau khi đã bị tra tấn dã man rồi cho súc vật kéo đi khắp các thành phố Kyoto, Osaka, Sakai... để uy hiếp dân chúng, đã bị hành hình trên cây thánh giá.
Đầu thế kỷ XVII, thời kỳ Chiến quốc dần đi đến hồi kết. Sau khi Hideyoshi qua đời, Tokugawa Ieyasu là thuộc tướng đã tiếp tục công cuộc thống nhất Nhật Bản, lập ra Mạc phủ Tokugawa vào năm 1603. Trong thời gian đầu, chính quyền Edo để tập trung lực lượng giải quyết những vấn đề trong nước, đã chủ trương giữ hòa hiếu trong quan hệ với nước ngoài. Nhờ đó, khoảng 10 năm đầu của Mạc phủ Tokugawa, Kitô giáo vẫn tiếp tục được truyền bá ở Nhật Bản. Năm 1605 số lượng tín đồ trên cả nước đã đạt đến mức cao nhất khoảng trên 400.000 người. Riêng thành phố Nagasaki, được coi là trung tâm Kitô giáo của Nhật Bản lúc đó, chỉ với số dân ước chừng 20.000 người nhưng đã có tới 10 nhà thờ và rất nhiều trường học, bệnh viện, cô nhi viện, nhà từ thiện... hoạt động trong sự chi phối của giáo hội. Sự phát triển này hẳn là đóng góp của nhiều lực lượng tôn giáo thuộc nhiều quốc gia, trong đó Tây Ban Nha không ngoại lệ. Năm 1608, cảng Uraga của tỉnh Kanagawa được mở cho các tàu Tây Ban Nha trong tuyến buôn bán Philippines - Mexico; và chỉ 2 năm sau người Tây Ban Nha đã có một thỏa thuận thương mại với chính quyền Edo.
Tokugawa Ieyasu.
Tokugawa Ieyasu.
Dưới thời kỳ Tokugawa, chính quyền đã mở rộng ngoại thương với chế độ Châu ấn thuyền (Shuinsen). Trong chế độ này, Mạc phủ sẽ cấp giấy phép cho các tàu buôn Nhật Bản đi ra nước ngoài cũng như các tàu nước ngoài muốn đến giao thương với Nhật Bản. Trong một bức thư hồi đáp chúa Nguyễn Hoàng (Đàng Trong), Ieyasu nhấn mạnh: “Bây giờ Nhật Bản chúng tôi tứ phương vô sự, mọi nơi đều thái bình. Thương gia Nhật Bản khi vượt biển đi buôn bán xa xôi, không được vi phạm chính trị ở những quốc gia đi đến. Vì tôi suy nghĩ như thế nên xin Ngài yên tâm. Thương thuyền của quốc gia chúng tôi, khi đến Quý quốc đều phải mang theo văn thư có áp dấu Châu ấn. Đây là bằng chứng mà tôi đã công nhận là thương thuyền. Thương thuyền nào không mang thư Châu ấn thì không nên cho thông thương”. Bằng việc thực hiện chế độ Châu ấn, Mạc phủ Tokugawa còn kêu gọi các nước Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh đến buôn bán để tạo ra một thế cân bằng tối ưu trong quan hệ quốc tế. Nhưng trên thực tế, do hiểu rõ tiềm lực khoa học quân sự của Nhật Bản còn kém so với phương Tây, tính toán của Nhật Bản là muốn mượn lực lượng của Tây Ban Nha để kiềm chế thế lực Bồ Đào Nha và ở mức cao hơn là dùng uy lực của các nước tư bản đang phát triển mạnh là Hà Lan, Anh để khống chế lại ảnh hưởng của hai quốc gia bán đảo Iberia này.
Tranh vẽ một chiếc Châu ấn thuyền. Dòng lạc khoản bên phải ghi “Tự Trường Kỳ đáo An Nam quốc thuyền đồ” tức tranh vẽ thuyền từ Nagasaki đi An Nam.
Tranh vẽ một chiếc Châu ấn thuyền. Dòng lạc khoản bên phải ghi “Tự Trường Kỳ đáo An Nam quốc thuyền đồ” tức tranh vẽ thuyền từ Nagasaki đi An Nam.
Mọi việc đều diễn ra thuận lợi đối với Tây Ban Nha cho đến khi Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) xuất hiện tại Nhật Bản. Lịch sử cho thấy, giữa Hà Lan và Tây Ban Nha tồn tại những mâu thuẫn sâu sắc. Minh chứng cho điều này là sự kiện năm 1568, quân dân Hà Lan chính thức nổi dậy chống lại Felipe II của Tây Ban Nha; và đến năm 1581 thì mười bảy tỉnh ở phía bắc Hà Lan đã tự tuyên bố độc lập khỏi Tây Ban Nha và thành lập nước Cộng hòa. Chiến tranh Hà Lan - Tây Ban Nha thậm chí kéo dài đến tận năm 1648, hay còn gọi là “Chiến tranh Tám mươi năm”. Rõ ràng là sự hiện diện của Hà Lan trên vùng biển Đông Á đã trở thành mối đe dọa đến quyền lợi của Tây Ban Nha. Vì vậy, bằng mọi cách Tây Ban Nha đã cố gắng ngăn cản sự xâm nhập của Hà Lan vào Nhật Bản.
Điều chắc chắn là chính quyền Edo đã nhận ra, vì vậy người Nhật muốn tìm hiểu rõ lập trường của người Hà Lan. Với sự khôn khéo và kiên nhẫn, Hà Lan đã giải thích rằng tôn giáo mà họ theo đuổi (đạo Tin lành) không chịu sự chi phối của nhà thờ La Mã và chính người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha mới là những kẻ có mưu đồ chính trị đối với Nhật Bản. Người Hà Lan đến Nhật Bản chỉ vì mục đích buôn bán mà thôi. Đồng thời, VOC khẳng rằng họ có đủ khả năng đáp ứng được mọi nhu cầu thương mại, cung cấp hàng hóa cho Nhật Bản. Trong một bức thư chính thức gửi đến Mạc phủ năm 1610, thái tử Hà Lan Mauritius đã cảnh báo rằng: “Xã hội của các giáo sĩ, trong sự bao phủ thiêng liêng tôn giáo muốn biến người Nhật Bản theo tôn giáo của họ, rồi từng bước chia cắt đất nước Nhật Bản tuyệt vời và cuối cùng sẽ đưa Nhật Bản đến nội chiến”. Mạc phủ cho rằng người Hà Lan không tin theo một tôn giáo giống như người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và chí ít chưa thể hiện những mưu đồ xâm lược lãnh thổ Nhật Bản.
Do Hà Lan là một thế lực mới xuất hiện, đồng thời Mạc phủ cần có thời gian để bảo đảm cho lời trình báo của VOC, chính quyền Tokugawa vẫn không muốn đoạn tuyệt hoàn toàn mọi liên hệ với hai nước châu Âu đầu tiên đến buôn bán là Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Năm 1611, Tây Ban Nha đã gửi đến chính quyền Edo một kiến nghị với 4 điểm: Thứ nhất, người Tây Ban Nha được phép đóng bất kỳ loại tàu nào mà họ muốn ở Nhật Bản; Thứ hai, được phép khảo sát các bờ biển Nhật Bản; Thứ ba, tàu Tây Ban Nha được bán những hàng hóa của mình ở nơi họ muốn mà không bị kiểm tra; Thứ tư, phải cấm Hà Lan không được đến buôn bán và Tây Ban Nha được quyền cho tàu chiến đốt cháy tàu Hà Lan. Trong thư trả lời, Ieyasu đã chấp nhận điểm 1 và 2, không trả lời điểm 3 đồng thời giải thích rằng Tây Ban Nha không được can thiệp vào công việc nội bộ của Nhật Bản cũng như không được đuổi người nước ngoài ra khỏi Nhật Bản. Với Tây Ban Nha, Mạc phủ cũng đã nhiều lần phái đại diện đến Manila đề nghị những người cầm quyền ở đây mở quan hệ giao thương và cử các tàu buôn đến Nhật Bản. Nếu các tàu này đến buôn bán tại các cảng miền Đông gần Edo thì sẽ được ưu đãi. Trên thực tế, chính quyền Edo đã cấp 8 giấy phép cho các tàu buôn Tây Ban Nha vào các cảng Nhật Bản.
Sau khi xác thực những điều VOC đã nói, cũng như nhận thức được ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của đạo Kitô và các lãnh chúa Nhật Bản theo Công giáo sẽ trở thành lực lượng cản trở chủ trương nhằm đưa Nhật Bản hướng tới sự phát triển thống nhất, Tokugawa Ieyasu đã ra lệnh cấm đạo và triệt phá nhà thờ vào năm 1613. Một năm sau đó, Mạc phủ Edo ra lệnh bắt tất cả tín đồ Kitô giáo, ban hành một chỉ thị mới khẳng định rằng không thể có một người nào theo Kitô giáo lại có thể tồn tại ở Nhật Bản. Sau khi Tokugawa Ieyasu qua đời, những người kế nhiệm tiếp tục tăng cường thêm các chính sách cấm đạo gắt gao. Trong thập niên 1620, nhiều cuộc đụng độ đẫm máu giữa các tàu buôn Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha với Nhật Bản trên các vùng biển Đông Nam Á. Nhiều người Nhật đã bị giết, tàu và hàng hóa bị cướp phá. Nhận thấy nguy cơ bị xâm lược, Mạc phủ đã ra lệnh trục xuất tất cả người Bồ Đào Nha đang sinh sống ở Nhật Bản, đưa ra hàng loạt các chỉ thị cấm đạo và quản lý sát sao các giáo sĩ Kito còn ở Nhật. Về phía Tây Ban Nha, vào năm 1624, nước này đã yêu cầu một thỏa thuận thương mại với Mạc phủ nhưng bị phản đối. Kết quả, thương nhân Nhật bị cấm không được đến Manila và các tàu buôn Tây Ban Nha cũng hoàn toàn rút khỏi Nhật Bản. Thập niên 1630, Mạc phủ chính thức ban hành chính sách Tỏa quốc (Sakoku), vai trò của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha do vậy cũng bị suy giảm nhanh chóng và cuối cùng các nước này hoàn toàn bị mất vị trí ở Nhật Bản. Từ sau Tỏa quốc, quan hệ của Nhật Bản được tập trung vào 4 nước: Trung Quốc, Hà Lan, Triều Tiên và Ryukyu (Lưu Cầu).

3. Nhìn lại các chính sách và chiến lược của Tây Ban Nha tại Nhật Bản

Có thể thấy rằng, các hoạt động thương mại, truyền giáo với Nhật Bản hầu như không diễn ra theo tính toán của người Tây Ban Nha mà bị chi phối mạnh mẽ bởi những yếu tố chính trị, vấn đề nội tại của Nhật Bản lúc bấy giờ: Bối cảnh các thế lực phân tranh trong thời Chiến quốc gắn liền với nhu cầu du nhập vũ khí, kỹ thuật phương Tây để phục vụ mục tiêu thống nhất lãnh thổ, đã tạo cơ hội cho các thế lực châu Âu thâm nhập vào nước Nhật. Vào giữa thế kỷ XVI, nhiều lãnh chúa Nhật Bản như Omura Sumitada, Arima Harunobu và Otomo Yoshishige đã chấp nhận, bảo hộ và thậm chí cải đạo sang Kitô giáo, làm nên cái gọi là “Tam gia Thiên Chúa” ở Nhật Bản. Mặc dù đến Nhật Bản muộn hơn nhiều so với đối thủ Bồ Đào Nha, sự lan tỏa mạnh mẽ của Kito giáo tại Nhật Bản lại là điều kiện để Tây Ban Nha xâm nhập mà chưa gặp phải quá nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, Tây Ban Nha không chỉ đơn thuần buôn bán mà còn phải thực hiện sứ mệnh truyền đạo. Điểm then chốt khiến tham vọng mở rộng ảnh hưởng của Tây Ban Nha tại Nhật Bản thất bại là do không tách bạch được tôn giáo và thương mại, còn phía chính quyền Nhật Bản luôn muốn tách vấn đề Kitô giáo ra khỏi quan hệ thương mại với phương Tây. Điều này nhanh chóng đặt Tây Ban Nha vào tình thế khó xử, trong bối cảnh giới cầm quyền Nhật Bản đang nghi ngờ hoạt động tôn giáo gắn liền âm mưu chính trị. Như đã thấy, sự kiện tàu San Felipe năm 1596 càng củng cố suy nghĩ của Nhật Bản về nguy cơ xâm lược lãnh thổ từ phía Tây Ban Nha. Lệnh hành quyết tín đồ Công giáo của Toyotomi Hideyoshi thể hiện sự quyết đoán của nhà cầm quyền Nhật Bản đối với các mối nguy bên ngoài, nhưng cũng cho thấy sự bấp bênh và dễ tổn hại trong quan hệ Tây Ban Nha - Nhật Bản.
Khi Mạc phủ Tokugawa nắm quyền, ban đầu Nhật Bản vẫn tỏ ra cởi mở với hoạt động thương mại, truyền giáo và thậm chí khuyến khích các nước phương Tây đến bang giao nhằm duy trì thế cân bằng giữa các thế lực ngoại quốc. Điều này đã dẫn đến sự hiện diện của một số quốc gia châu Âu khác như Hà Lan và Anh - đối thủ cạnh tranh lớn của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thời Cận đại. Với sự thấu hiểu tâm lý người Nhật, Hà Lan đã bày tỏ rõ lập trường khi đến kết giao quan hệ với chính quyền Edo rằng họ chỉ tập trung vào hoạt động thương mại chứ không phải truyền giáo. Trong khi đó, Tây Ban Nha không có sự ứng biến thời cuộc, luôn giữ vững mục tiêu kinh tế - tôn giáo song hành trong quan hệ với Nhật Bản, điều đó tác động trực tiếp đến chính sách quản lý đất nước và mối lo ngại của chính quyền bản địa. Kết quả, Hà Lan ngày càng có vị thế và được hưởng các đặc quyền tại Nhật Bản, còn người Tây Ban Nha bị trục xuất và bị cấm đến Nhật Bản. Kết cục đó phản ánh hậu quả tất yếu của một đường lối tiếp cận thiếu linh hoạt (thậm chí có phần bảo thủ), không chịu điều chỉnh trước những biến động lịch sử, chính trị và xã hội bản địa.

4. Kết luận

Hoạt động thương mại, truyền đạo tại Nhật Bản của Tây Ban Nha gắn liền với các lợi ích chính trị - kinh tế - tôn giáo, trong đó yếu tố tôn giáo thể hiện sâu đậm nhất qua sự ủy thác của Giáo hội Công giáo La Mã về sứ mệnh của hoàng gia Tây Ban Nha tại phương Đông. Song, Tây Ban Nha luôn trong tình trạng thất thế trước sự cạnh tranh với Bồ Đào Nha và sau đó là Hà Lan trong nỗ lực bang giao với Nhật Bản. Những lợi ích kinh tế, chính trị mà Tây Ban Nha đưa ra vẫn còn mờ nhạt đối với chính quyền Nhật Bản, và thậm chí những hoạt động truyền đạo của giáo sĩ Tây Ban Nha còn gây ra sự phản cảm, hoài nghi và phẫn nộ từ các nhà cầm quyền người Nhật, khiến Tây Ban Nha dần bị gạt khỏi các chiến lược đối ngoại của Nhật Bản.
Là một trong những quốc gia phương Tây xuất hiện sớm tại Đông Á, Tây Ban Nha đã có nhiều cơ hội để củng cố quan hệ với Nhật Bản. Song, do thiếu sự nhạy bén với bối cảnh lịch sử; hành động một cách cảm tính; không hiểu được suy nghĩ và sự lo ngại của chính quyền bản xứ, Tây Ban Nha đã tự đánh mất vị thế của mình tại Nhật Bản. Để lại bài học lịch sử về vấn đề đối ngoại, cần phải theo dõi và tìm hiểu kĩ những biến chuyển về nhiều mặt của quốc gia đối tác, từ đó thiết kế chính sách đối ngoại thực tế, phù hợp thay vì hoạch định chỉ thông qua góc độ suy nghĩ, lập trường cá nhân.