Hoạt động bang giao, thương mại của Công ty Đông Ấn Pháp tại Việt Nam và Xiêm (Thế kỷ XVII - XVIII)
Vào thế kỷ XVII ở Đông Nam Á diễn ra nhiều biến đổi chính trị và xã hội: Ngoài vùng hải đảo, các nước phương Tây (mà đại diện là Công...
1. Bối cảnh Đông Nam Á thế kỷ XVII và những tính toán của Pháp
Vào thế kỷ XVII ở Đông Nam Á diễn ra nhiều biến đổi chính trị và xã hội: Ngoài vùng hải đảo, các nước phương Tây (mà đại diện là Công ty Đông Ấn) đang từng bước thiết lập ảnh hưởng, xây dựng vị thế và chiếm đoạt nhiều vùng lãnh thổ, các nguồn tài nguyên đặc hữu. Các thế lực này có xu hướng ngày càng thâm nhập, can thiệp mạnh vào đời sống chính trị, xã hội Đông Nam Á và châu Á. Trong khi đó, tại Đông Nam Á lục địa vẫn tồn tại nhiều trung tâm quyền lực, và ở mức độ nhất định là các cường quốc khu vực như Đàng Ngoài/Đàng Trong (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan), Miến Điện... Các quốc gia này không chỉ ổn định về mặt chính trị, vững mạnh về kinh tế mà trong nhiều thời điểm còn tiến hành các cuộc xung đột quân sự và chiến tranh quy mô lớn. Đối với phương Tây, điều này sẽ là một trở ngại lớn trong quá trình xâm nhập vào các thị trường bản địa, và điều chắc chắn là việc đàm phán thương mại với các quốc gia lục địa khó khăn hơn nhiều so với Đông Nam Á hải đảo.
Nửa sau thế kỷ XVII, nước Pháp sau khi ổn định tình hình chính trị đã thành lập Công ty Đông Ấn Pháp (Compagnie des Indes orientales - CIO), tiến sang phương Đông với mục tiêu nhanh chóng xác lập ảnh hưởng tại các thị trường châu Á trước khi bị Anh và Hà Lan chiếm đoạt hết. Nhận thức rõ bản thân là quốc gia đi sau, triều đình Pháp đã xác định bước đầu trong chiến lược xâm nhập châu Á rằng cần phải thúc đẩy quan hệ bang giao, thương mại; tìm kiếm đồng minh chính trị lớn tại khu vực, từng bước xây dựng ảnh hưởng thay vì cạnh tranh trực tiếp bằng thương mại - quân sự với Anh và Hà Lan. Kết quả, tại khu vực Đông Nam Á, chính quyền Paris đã lựa chọn Việt Nam và Xiêm - hai quốc gia có vị trí chiến lược, nằm gần thị trường Trung Quốc giàu có, đồng thời là các trung tâm kinh tế - chính trị phát triển.

Huy hiệu của CIO.
Từ góc nhìn địa - chính trị, quyết định của triều đình Pháp hoàn toàn phù hợp với tình hình châu Á lúc bấy giờ: Hà Lan đã kiểm soát phần lớn các tuyến hải thương, các không gian kinh tế và khai thác tài nguyên tại quần đảo Indonesia; Anh ngày càng thể hiện rõ tham vọng độc quyền thương mại tại Ấn Độ; còn Đông Bắc Á thì chưa đủ thế và lực để xâm nhập. Bối cảnh đó yêu cầu Pháp phải chuyển hướng sang Đông Nam Á lục địa với các chính thể chưa bị chi phối và kiểm soát bởi các nước châu Âu khác, cho thấy một không gian kinh tế mở đầy tiềm năng. Việc lựa chọn Đại Việt và Xiêm không chỉ phục vụ hoạt động giao thương, mà còn mang tính chiến lược nhằm thiết lập ảnh hưởng từ Ấn Độ Dương sang Biển Đông, qua đó hoàn thiện mạng lưới thương mại - chính trị kết nối giữa Ấn Độ (Pondicherry) - Xiêm - Việt Nam - Trung Quốc để cạnh tranh với các thế lực phương Tây khác.
2. Hoạt động của Công ty Đông Ấn Pháp tại Việt Nam
Là một quốc gia bán đảo, có đường bờ biển dài và chỉ số duyên hải cao, Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển, mở rộng quan hệ giao thương trên biển. Hơn thế nữa, lịch sử Việt Nam cũng chứng kiến sự tham gia sớm, dự nhập mạnh mẽ của các triều đại quân chủ vào Hệ thống giao thương châu Á trong các thế kỷ X - XV, gắn liền với thương cảng quốc tế Vân Đồn (thời Lý gọi là trang Vân Đồn) được thành lập dưới thời vua Lý Anh Tông năm 1149, nhờ vậy mà thuyền buôn nhiều nước Đông Nam Á đã đến trao đổi hàng hoá, dâng các vật lạ và đề nghị mở quan hệ ngoại giao. Mặt khác, Việt Nam cũng sở hữu nhiều nguồn tài nguyên, sản vật và thương phẩm có giá trị cao như tơ lụa, gốm sứ... và đặc biệt là trầm hương, đã trở thành điểm đến thu hút của nhiều cộng đồng thương nhân quốc tế.
Vào thế kỷ XVII, sự chia cắt về chính trị giữa chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài và chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong không ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình giao thương khu vực. Thực tế cho thấy, chính quyền Lê - Trịnh (Đàng Ngoài), cũng như chúa Nguyễn (Đàng Trong) đều có thái độ cởi mở với thương nhân và giáo sĩ nước ngoài. Mặt khác, người phương Tây cũng thể hiện rõ mục tiêu buôn bán và truyền đạo và hoan nghênh chủ trương không bài trừ tôn giáo của các chính thể quân chủ Việt Nam. Nhờ đó, “Trong suốt thế kỷ XVII, các giáo sĩ cũng đều qua các hải cảng để cập bến và truyền đạo. Chẳng hạn, năm 1615, linh mục Francesco Buzomi, linh mục Diego Carvalho và các giáo sĩ Dòng Tên đã qua Cửa Hàn (Đà Nẵng) để vào Đàng Trong. Tháng 12 năm 1624, linh mục Alexandre de Rhodes cùng với 4 giáo sĩ Dòng tên khác và một tín hữu người Nhật cập bến Hội An để đến Đàng Trong. Năm 1627, ông cùng linh mục Pedro Marque cập bến Cửa Bạng, Thanh Hóa truyền giáo ở Đàng Ngoài”. Trong đó, cần phải nhấn mạnh vai trò của Alexandre de Rhodes với những hoạt động tích cực xây dựng nền móng cho Thiên Chúa giáo, “đã thúc đẩy để thành lập Hội Truyền giáo hải ngoại Paris (Société des Missions Étrangères de Paris) và hội này có ảnh hưởng rất lớn đối với sự thay đổi cục diện ở Việt Nam”, qua đó tạo điều kiện cho các hoạt động đầu tiên của CIO tại Đàng Ngoài.

Bản đồ các phái bộ của Hội Truyền giáo hải ngoại Paris.
Nhìn thấy những tiềm năng, cơ hội thương mại mà CIO có thể khai thác tại Đàng Ngoài, vào năm 1672 giáo sĩ Pallu đã viết thư báo cáo Bộ trưởng Colbert của triều đình Louis XIV rằng: “... vì vinh quang của quốc vương, xin ngài Bộ trưởng khuyên các Tổng giám đốc quyết định ngay tất cả những gì cần thiết để thành lập một thương điếm ở vương quốc này (tức Đàng Ngoài)… Việc này rất có lợi cho công ty”. Năm 1681, CIO cử Chappelain đến Đàng Ngoài thương thuyết việc thành lập thương điếm, mang theo 3000 réaux (tiền Tây Ban Nha) tiền hàng và 20.000 écus (tiền vàng thời Louis XIV) để mua tơ lụa và xạ hương làm quà biếu chính quyền bản địa. Kết quả, triều đình Lê - Trịnh đã đón nhận và đồng ý cho CIO lập một địa điểm buôn bán nhỏ ở Phố Hiến.
Tới năm 1682, tàu Pháp chở theo giáo sĩ De Bourges mang theo quốc thư của vua Louis XIV, cùng các tặng phẩm giá trị đến Đàng Ngoài với hi vọng tiếp tục thành lập thương điếm tại đây. Tuy nhiên vào thời điểm này, chúa Trịnh đang thi hành chính sách cấm đạo, không có ý định giao thương với các giáo sĩ nên dù có sự tiếp đón nồng hậu phái đoàn Pháp và gửi thư phúc đáp cho vua Louis XIV, yêu cầu truyền đạo đã bị từ chối thẳng thừng. Như vậy, CIO mới chỉ đạt được mục tiêu về thương mại mà không thỏa thuận được về quyền tự do truyền giáo tại Đàng Ngoài, và chuyến đi của Bourges được nhận xét là tốn kém mà không đem lại nhiều kết quả. Cùng năm đó, Hà Lan về cơ bản hoàn thành công cuộc kiểm soát vùng quần đảo Indonesia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các chuyến hải trình và hoạt động buôn bán của Pháp ở Viễn Đông, vì vậy CIO không còn cử tàu buôn đến Đàng Ngoài nữa. Trong khi đó, các giáo sĩ Pháp quyết định ở lại đây để tiến hành truyền giáo trong những điều kiện hạn chế.
Có thể thấy, quan hệ giữa chính quyền Lê - Trịnh và Công ty Đông Ấn Pháp diễn ra ngắn hạn, chỉ được củng cố qua hai cuộc gặp trong giai đoạn 1681 - 1682. Các loại hàng hóa Pháp mang đến Đàng Ngoài bao gồm: Vũ khí, len dạ châu Âu, tiền châu Âu, hạt tiêu, vải bông Ấn Độ và gỗ đàn hương. Đáng chú ý, các nghiên cứu chỉ ra rằng phần lớn nguồn hàng hóa này bên cạnh hoạt động biếu tặng (bang giao) và buôn bán (thương mại) ở Đàng Ngoài, còn lại đều được trao đổi với thị trường Trung Quốc, thể hiện rõ lập trường của người Pháp chỉ coi Đàng Ngoài là điểm trung chuyển cho các chuyến đi sang Trung Quốc.
Sau khi thất bại trong việc xây dựng thương điếm tại Đàng Ngoài, CIO chuyển hướng tập trung phát triển tại Đàng Trong. Khi nhà hàng hải người Ý - Cristoforo Borri đến Đàng Trong năm 1621, ông đã rất ngạc nhiên và chép trong hồi ký của mình: “chỉ trong khoảng hơn một trăm dặm một chút mà người ta đếm được hơn sáu mươi cảng, tất cả đều rất thuận tiện để để cập bến và lên đất liền… Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam [Hội An]”, cho thấy Đàng Trong đã trở thành một cường quốc hải thương của khu vực. Các loại hàng hóa của Đàng Trong cũng rất đa dạng như hàng thủ công, hoa quả nhiệt đới, sừng tê ngà voi, gia vị, gỗ quý (với trầm hương là sản vật nổi tiếng nhất)… Thiết lập quan hệ tích cực với Đàng Trong có thể mang đến tiềm năng kinh tế và vị thế quan trọng cho Pháp, vốn là thế lực phương Tây sang châu Á muộn hơn, có ít dư địa phát triển so với Anh và Hà Lan. Vào nửa sau thế kỷ XVII, thương nhân Pháp đã có mặt tại các thương cảng Đàng Trong tham gia buôn bán các mặt hàng tơ lụa, đường, quế, trầm hương, cùng với các sản phẩm công nghiệp như vải bông, súng, thủy tinh và đồ kim khí. Các tàu buôn Pháp thường neo đậu dài ngày, tiến hành nhiều chuyến đi qua lại giữa Hội An, Manila, Batavia... và Pondicherry - trung tâm của CIO tại Ấn Độ. Tuy nhiên, người Pháp chỉ tập trung vào buôn bán mà ít có sự tìm hiểu vùng đất bản địa; đồng thời phải cạnh tranh đầy khó khăn với Hà Lan, Anh và thương nhân Hoa kiều khiến người Pháp không đạt được vị thế ưu tiên tại Hội An. Thương nhân Pháp không có đặc quyền cố định, thường phải phụ thuộc vào thái độ của triều đình cũng như các quan lại địa phương. Do không có được ảnh hưởng về kinh tế và chính trị, người Pháp dù vẫn hiện diện ở Đàng Trong giai đoạn này nhưng hoạt động không còn tích cực so với các tập đoàn thương nhân khác.

Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII.
Đối với Đàng Trong, mối quan tâm của người Pháp luôn xoay quanh Côn Đảo và đồng bằng Nam Bộ. Năm 1675, một thương nhân Pháp tên là Leroux đã đề nghị CIO chiếm hòn đảo này. Sau đó, vào năm 1686, một nhân viên của CIO tên Verret cũng đề nghị công ty chiếm Côn Đảo để có thể thâm nhập vào Đàng Trong. Báo cáo của Verret cho biết: “phải nói rằng các thương thuyền của Trung Quốc, Đàng Ngoài, Macao, Manila, Đàng Trong... muốn tiến hành buôn bán với Ấn Độ nên cần nhận thức vị trí của hòn đảo này, cũng như tàu thuyền của Ấn Độ muốn vào biển Trung Hoa, tàu Hà Lan, Anh đi qua đảo này thuận tiện không kém so với đi qua hai eo biển Sunda và Malacca...”. Ngay cả Alexandre de Rhodes cũng nhận định rằng “nếu chiếm được Côn Đảo thương nhân châu Âu có thể tìm thấy nguồn lợi phong phú tiền lời và của cải”, từ đó luôn hối thúc chính phủ Pháp phải chiếm lấy miền nam Đàng Trong, trong đó có Côn Đảo. Như vậy, có thể thấy Côn Đảo có một vai trò quan trọng trong mạng lưới thương mại Đông Nam Á, nhưng hơn hết là cho thấy dã tâm xâm chiếm lãnh thổ của Pháp từ rất sớm. Tuy nhiên, người Pháp chưa kịp chiếm Côn Đảo thì người Anh đã chiếm trước vào năm 1702.

Côn Đảo trong họa đồ xưa của người châu Âu.
Phải đến tận năm 1744, De Rothe, một thương nhân đại diện cho CIO ở Pondicherry đã uỷ quyền cho Jacques O’Friell đến Đàng Trong xem xét tình hình buôn bán, quan hệ bang giao Pháp - Đàng Trong mới có những biến chuyển mới. Trong cuộc gặp này, Friell đã được chúa Nguyễn Phúc Khoát cấp giấy phép buôn bán và cho xây dựng kho hàng. Trên cơ sở đó, Friell và De Rothe đề xuất lên Toàn quyền Pondicherry (Ấn Độ) là Joseph-François Dupleix nhanh chóng tổ chức quan hệ buôn bán với Đàng Trong. Tuy nhiên, kế hoạch này bị gián đoạn do cuộc chiến tranh ở Áo (1740-1748) rồi cuộc chiến tranh 7 năm với Anh (1756-1763). Trong thời gian chờ đợi, người Pháp nhận thấy cần phải tìm hiểu kĩ lưỡng Đàng Trong về mọi mặt (địa lý, cư dân, tài nguyên, chính sách...). Chính vì vậy, Pierre Poivre, một thương nhân - giáo sĩ đã được Công ty Đông Ấn Pháp cử sang tìm hiểu Đàng Trong vào năm 1748. Kết quả, Poivre đã có bản tường trình lên vua Louis XV về những tài nguyên quý giá cùng tiềm năng thương mại của Đàng Trong. Chẳng hạn, Pierre Poivre đã dành nhiều thời gian để nói về vàng của xứ Quảng: “Các mỏ vàng có tiếng thuộc Dinh Chiêm (tức Dinh trấn Quảng Nam) ở một địa điểm gọi là “Phunrac” cách Hội An gần tám dặm... Tại nơi tôi trực tiếp quan sát, thỉnh thoảng người ta nhặt được những cục vàng ròng nặng khoảng 2 ounce. Vàng được thu gom dưới dạng vàng cám hoặc từng cục nhỏ rồi nấu thành thỏi, mang ra chợ bán như mọi thứ hàng hóa khác” và kết luận: “Đàng Trong là xứ sở của vàng, vàng ở đây tốt, đẹp và tinh khiết nhất thế giới”. Ngoài ra, Poivre còn nắm được tình hình chính trị, thuế khóa, phong tục, tôn giáo của Đàng Trong.

Pierre Poivre.
Mặc dù đã tìm hiểu và chuẩn bị kĩ lưỡng, các kế hoạch của Pierre Poivre, O’Friell đều không thành hiện thực do có nhiều bất đồng với các quan lại địa phương cũng như những thay đổi thất thường về chính sách của chúa Nguyễn: “Vào năm 1753, một tàu buôn Pháp từ Pondicherry tới, họ Nguyễn đã đòi 8.000 quan thay vì 4.000 quan mà họ đã hứa vào năm 1752”, khiến bang giao Pháp - Đàng Trong gặp nhiều khó khăn. Sau những thất bại trong nỗ lực thành lập thương điếm ở Hội An, CIO vẫn còn một kế hoạch quay trở lại Đàng Ngoài của Charles Thomas de Saint Phalle và một kế hoạch quay trở lại Côn Đảo của Protais Leroux, song đều không thể thực hiện được. Kể từ đó, CIO gần như không có thêm hoạt động nào ở Đàng Trong và chấm dứt hoàn toàn hoạt động giao thương vào năm 1769.
Động lực tiếp cận Đàng Ngoài - Đàng Trong (Việt Nam) của Pháp xuất phát từ cả nhu cầu thực tiễn về kinh tế và tham vọng cạnh tranh với Hà Lan, Anh trên các tuyến thương mại Á - Âu. Tuy vậy, khó khăn lớn nhất của Pháp trong quá trình tiếp cận Việt Nam có lẽ là tình trạng phân chia chính trị, tạo thành hai chính thể đối đầu nhau, mỗi chính quyền có luật lệ, thuế khóa, chính sách kinh tế đối ngoại và hành chính khác biệt. Mặt khác, đại diện của người Pháp ở Việt Nam chủ yếu là thương nhân, giáo sĩ, điều này đã đặt Pháp luôn ở thế yếu trong các cuộc gặp mặt, thương thuyết với chính quyền bản địa, dẫn đến kết quả thất bại trong hoạt động thương mại và xây dựng thương điếm tại Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần ghi nhận rằng những tiếp xúc giữa Pháp - Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII đã góp phần đặt nền móng cho các mối quan hệ chính trị - ngoại giao sâu sắc hơn giữa hai bên, và sẽ trở thành cơ sở cho các chính sách can thiệp của Pháp vào Việt Nam trong thế kỷ XIX.
3. Hoạt động của Công ty Đông Ấn Pháp tại Xiêm

Họa đồ kinh đô Ayutthaya.
Từ thế kỷ XV, Xiêm (Ayutthaya) đã trở thành trung tâm giao thương quan trọng tại Đông Nam Á, “người Thái có tới 30 tàu gỗ chuyên buôn bán với Java, Philippin… một thương cảng quốc tế nằm ở khúc cong, gần hạ lưu sông Mê Nam, cách Băng Cốc 80km về phía bắc. Nơi đây có hoàng cung bên bờ sông, xưởng đóng và sửa chữa tàu gỗ, bãi dạy voi, những đường phố và khoảng 10 khu ngoại kiều: Nhật, Pháp, Bồ, Hà Lan, Java, Anh, Việt…”. Có thể thấy, người Pháp đã biết đến Xiêm từ những thế kỷ trước đó, song nhiều khả năng đây chỉ là số ít thương nhân Pháp có mặt trong các chuyến hải trình của Bồ Đào Nha sang phương Đông.

Quang cảnh kinh đô Ayutthaya.
Quan hệ chính thức giữa triều đình Xiêm và Công ty Đông Ấn Pháp khởi đầu thông qua các ghi chép của giáo sĩ Pallu tới kinh đô Ayutthaya năm 1673, trong bối cảnh vua Narai (Ramathibodi III) của Ayutthaya chủ trương mở rộng quan hệ với phương Tây nhằm cân bằng ảnh hưởng của Hà Lan và Anh - những thế lực đã thiết lập vị thế thương mại và ngày càng mở rộng quyền lực tại Xiêm: Trước sức ép của tư bản Hà Lan, ngày 22/8/1664, vua Narai phải nhượng bộ và ký kết hòa ước, trong đó Hà Lan được tự do buôn bán bất cứ hàng hóa gì tại Xiêm và được hưởng thuế xuất nhập cảng thấp; được quyền cấp giấy phép cho tàu Xiêm đi các nơi; nhân viên VOC được hưởng quyền lãnh sự tài phán; Xiêm phải trừng trị những người làm hại tới Công ty. Người Anh thì ép Xiêm mua một khối lượng hàng Anh với giá niêm yết bất kể có cần hay không, đồng thời cho Anh xây dựng pháo đài tại các đảo. Trước tình hình đó, Đông Ấn Pháp đóng vai trò như thế lực ngăn cản Hà Lan và Anh bành trướng tại Xiêm, đồng thời kết nối giữa hoàng gia Pháp và triều đình Narai. Để thể hiện thiện chí bang giao, vua Narai đã cho phép CIO mở thương điếm ở Ayutthaya vào năm 1680.
Các hoạt động giao thương, bang giao của CIO tại Xiêm diễn ra khá sôi động. Hàng hóa của Xiêm bán cho CIO đa dạng phong phú, trong đó thiếc là mặt hàng được ưa chuộng nhất của Pháp, Năm 1638, CIO ước tính tổng lượng thiếc buôn bán tại Đông Nam Á vào khoảng 4 triệu livres thiếc (xấp xỉ 2.000 tấn); trong đó 3 triệu đến từ Perak và Kedah (Malaysia ngày nay), còn lại là ở Joncelang (Phuket, Thái Lan ngày nay). Những mặt hàng phổ biến khác như trầm hương, thường được Xiêm dùng làm quà biếu vua Louis XIV. Năm 1681, trên chiếc tàu le Vautour có 50 piculs trầm hương (khoảng 60.5kg) là quà tặng của vua Narai dành cho Công ty Đông Ấn Pháp. Voi cũng là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Xiêm, được mua bởi CIO và mang sang vịnh Bengal, nhiều khả năng để phục vụ chiến tranh tại Ấn Độ. Ở chiều ngược lại, CIO cũng đem nhiều mặt hàng tới Xiêm trao đổi, buôn bán bao gồm: Vải lụa Ấn Độ được bán lấy tiền, hoặc dùng để đổi lấy gia vị và thiếc. Ngoài ra, các loại quà biếu như gương, thủy tinh, pha lê, y phục, dây đeo gươm, len dạ, nhung... cũng chiếm số lượng lớn trong các mặt hàng mà CIO mang vào Xiêm. Trong đó, quà biếu chiếm một tỉ lệ lớn và là gánh nặng kinh tế đáng kể đối với CIO.

Sứ giả Xiêm đến triều đình Pháp năm 1686.
Nhận thấy cần phải xâm nhập mạnh hơn vào Xiêm, độc quyền thương mại và ảnh hưởng chính trị tại đây. Hiểu rõ tình thế bị cả Anh và Hà Lan áp lực của triều đình Narai, hoàng gia Pháp cùng CIO đã nhanh chóng ép Xiêm phải nhượng bộ các đặc quyền: Năm 1685, một thỏa ước được triều đình Narai ký kết với sứ đoàn Pháp của Chevalier de Chaumont và Abbé de Choisy, trao cho CIO nhiều quyền lợi: Được quyền buôn bán và miễn tất cả thứ thuế xuất nhập khẩu; được độc quyền buôn bán ở vùng đảo Joncelang - mỏ thiếc quan trọng nhất của Xiêm; được tự do truyền đạo… Năm 1687, một hạm đội Pháp gồm 6 chiếc với hơn 1.300 người dưới sự chỉ huy của Desfarges tiến về Ayutthaya, buộc vua Narai phải chấp nhận những điều khoản sau: Thứ nhất, khẳng định lại vai trò độc quyền thiếc của Pháp ở Joncelang, đã ký kết vào năm 1685; Thứ hai, trao quyền tự do thương mại mà không gặp bất kỳ cản trở nào; Thứ ba, cho phép Pháp độc quyền hạt tiêu; Thứ tư, cho phép Pháp buôn bán các mặt hàng thuốc súng, vũ khí và diêm tiêu. Không dừng lại, năm 1688, Pháp còn vạch ra một cuộc viễn chinh quân sự với Xiêm, dự định chuyển trụ sở CIO từ Pondicherry sang Mergui - một thành phố biển trên vịnh Andaman, từ đây CIO có thể vận chuyển hàng hóa nhanh chóng, thuận tiện giữa Xiêm, Pondicherry và châu Âu. Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa ở Lopburi ngày 18/5/1688 dẫn đến việc hành quyết Tể tướng Xiêm Constantine Phaulkon (người đã gắn kết chặt chẽ quan hệ Pháp - Xiêm) và sự phế truất vua Narai khiến dự định của Pháp bất thành, phải rút quân khỏi Xiêm và dần mất các quyền lợi.

Tể tướng Xiêm Constantine Phaulkon.
Đối với Xiêm, Công ty Đông Ấn Pháp không chỉ là tác nhân kinh tế mà còn là nhân tố chính trị quan trọng trong cục diện quốc gia cuối thế kỷ XVII. Trong bối cảnh vua Narai chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại để cân bằng quyền lực, giảm thiểu áp lực từ Hà Lan và Anh, Pháp được Xiêm kết giao để tạo thêm đối trọng với các thế lực phương Tây còn lại. Đối với Pháp, lựa chọn của Xiêm mang lại nhiều lợi ích cho CIO, đồng thời phù hợp với chiến lược của Pháp tại Đông Nam Á - tìm kiếm các “đồng minh” bản địa để để thâm nhập sâu vào cấu trúc quyền lực khu vực, thiết lập một hàng lang kinh tế, chính trị nối liền châu Âu - Nam Á - Đông Nam Á. Triều đình Xiêm cũng có sự tiếp nhận chủ động, thái độ tích cực trước ý định kết giao của Pháp và đã cho CIO nhiều đặc quyền thương mại. Tuy nhiên, những tính toán chính trị có phần hấp tấp khiến quan hệ Pháp - Xiêm ngày càng đi xuống, một nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc CIO phải rút lui khỏi thị trường Xiêm. Song, ảnh hưởng của người Pháp nói chung không mất đi do vẫn còn những gia đình thương nhân Pháp ở lại sinh sống và buôn bán; những hỗ trợ về khoa học - kĩ thuật, ảnh hưởng văn hóa - tôn giáo Pháp vẫn tiếp tục tồn tại, tạo dấu ấn lâu dài trong lịch sử Xiêm. Sự thất bại tại Xiêm cũng giúp Công ty Đông Ấn Pháp rút ra bài học quan trọng về chiến lược, cẩn trọng với các hành động can thiệp kinh tế, chính trị tại Xiêm nói riêng và Đông Nam Á nói chung trong các thế kỷ kế tiếp.
4. Một số nhận xét và kết luận
Về bối cảnh lịch sử - địa - chính trị, Việt Nam lúc bấy giờ lại tồn tại tình trạng phân liệt kéo dài giữa chính quyền Lê – Trịnh (Đàng Ngoài) và chính quyền chúa Nguyễn (Đàng Trong). Cả hai chính thể đều có nền chính trị vững chắc, có nguồn lực kinh tế - quân sự tương đối mạnh và thể hiện sự đối đầu lẫn nhau. Đặc điểm này khiến người Pháp gặp khó khăn khi phải nhận diện, hiểu rõ tình hình và yêu cầu ứng xử khéo léo ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong, dẫn đến sự rời rạc trong chiến lược đối ngoại, làm hạn chế cơ hội khai thác tiềm năng thương mại của Việt Nam. Còn với Xiêm, triều đình Ayutthaya đã xây dựng một bộ máy trung ương tập quyền ổn định dưới sự cai trị của vương triều Prasat Thong. Sự thống nhất tương đối về quyền lực và lãnh thổ cho phép Xiêm thực hiện các chính sách kinh tế, đối ngoại một cách nhất quán và chủ động. Trong quan hệ với Pháp, điều này được thể hiện khi triều đình Narai đối xử với CIO như một đối tác chiến lược.
Về mức độ bang giao, hoạt động của CIO tại Xiêm có sự tích cực và diễn ra thường xuyên. Thương thuyền Đông Ấn Pháp được triều đình Xiêm cung cấp nhiều đặc quyền thương mại và tiếp cận các nguồn thương phẩm giá trị; cho phép CIO xây dựng các cơ sở, kho tàng và nhà ở. Không chỉ trao đổi, buôn bán hàng hóa, người Pháp còn hỗ trợ nhiều lĩnh vực giúp chính quyền Xiêm. Trong khi đó ở Việt Nam, hoạt động thương mại chủ yếu mang tính phi quan phương - thương nhân Pháp tìm cách mua các sản vật ở Việt Nam, cũng như có quan hệ với các cộng đồng thương nhân người Việt, không sâu sắc trong quan hệ quan phương - tức quan hệ giữa triều đình Pháp và Đàng Ngoài/Đàng Trong. Sự hiện diện của Công ty Đông Ấn Pháp tại Phố Hiến, Hội An không mang về đặc quyền thương mại nào giá trị, thậm chí các thương điếm này còn bị đóng cửa sớm do thiếu sự hậu thuẫn chính trị từ chính quyền.
Về hoạt động thương mại - truyền giáo, hai mục tiêu này luôn song hành trong chiến lược Công ty Đông Ấn Pháp nói riêng và người Pháp nói chung tại châu Á. Chính vì vậy, sự có mặt của các giáo sĩ có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của CIO tại Xiêm và Việt Nam. Triều đình Ayutthaya chấp nhận sự hiện diện của giáo sĩ và đạo Kitô như một phần trong chiến lược bang giao với Pháp. Như vậy, trong quan hệ Pháp - Xiêm, lực lượng tôn giáo (giáo sĩ) đã trở thành cầu nối chính trị - thương mại quan trọng. Điều đó cũng tạo động lực để Pháp duy trì bang giao lâu dài với Xiêm bởi mục tiêu thương mại - truyền giáo đều được đáp ứng. Tại Việt Nam, chính sách hạn chế tôn giáo (và ở mức độ nào đó là cấm đạo) được thực hiện ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong từ cuối thế kỷ XVII. Các giáo sĩ bị theo dõi hoạt động, trục xuất hoặc truy quét khiến thương nhân Pháp mất đi một đầu mối quan trọng, làm gián đoạn sự tiếp xúc với chính quyền và cư dân bản địa. Quan hệ bang giao, thương mại Pháp - Việt vì thế ít có dư địa để phát triển.
Từ những đối chiếu nêu trên, có thể thấy rõ sự khác biệt đáng kể giữa Việt Nam và Xiêm thế kỷ XVII - XVIII về bối cảnh lịch sử, từ đó dẫn đến sự phân hóa trong cách tiếp cận, thực hiện chính sách thương mại, bang giao cũng như mức độ can dự của Công ty Đông Ấn Pháp tại từng quốc gia. Điều đó khẳng định, các hoạt động bang giao, thương mại không thể được xem xét một cách đơn tuyến từ góc độ lợi ích kinh tế hay tiềm năng thị trường, mà cần phải đánh giá bối cảnh lịch sử - chính trị, cũng như tư duy đối ngoại của từng thể chế bản địa. Hoạt động của Công ty Đông Ấn Pháp tại Việt Nam và Xiêm là minh chứng cho tầm quan trọng của việc thấu hiểu đối tác trước khi hoạch định chiến lược kết giao, của một chính sách và tư duy linh hoạt, có khả năng ứng biến để bảo đảm hiệu quả và tránh những thất bại không cần thiết.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

