Artwork: <a href="https://www.reddit.com/user/Marvelzukas/">u/Marvelzukas</a> via r/Cthulhu
Artwork: u/Marvelzukas via r/Cthulhu
Lược dịch từ bài: The Man Who Can Scare Stephen King
Trong số những món quà Giáng Sinh được gửi tới cho Howard Phillips Lovecraft vào mùa lễ năm 1936, có một cái sọ vốn được đào lên từ một nghĩa trang ở Ấn Độ. Với một người sành sỏi và rất thạo về những thứ quái dị, món quà này dường như cực kỳ thích hợp với ông. Nhưng chính món quà ấy cũng là một điềm xấu: chưa đầy ba tháng sau khi nhận được thứ ấy, Lovecraft qua đời vì ung thư ở tuổi bốn mươi sáu.
Vào thời điểm qua đời, tên tuổi của H.P. Lovecraft gần như không được ai biết tới; trừ độc giả của một số tạp chí giá rẻ như Weird Tales và Astounding Stories. Nhưng nay, hơn một thế kỷ sau khi ông sinh ra, những câu chuyện của Lovecraft đã trở nên nổi tiếng một cách đáng kinh ngạc. Phần lớn những câu chuyện của ông đã được in - dưới cả dạng bìa cứng lẫn bìa mềm. Chúng cũng đã được chuyển thể thành các câu chuyện trên radio, phim chiếu rạp và phim truyền hình; đồng thời cũng là chủ đề của nhiều luận văn cũng như các bài nghiên cứu. Các tác phẩm của Lovecraft cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng và có cho mình những cộng đồng hâm mộ nhiệt thành ở Nhật Bản; giới trí thức ở Pháp và Tây Ban Nha thì cho rằng ông là một thiên tài văn học Mỹ bị lãng quên.
img_0
Suốt cuộc đời của mình, Lovecraft luôn thích tự nhận bản thân là một quý tộc trung niên người Anh thế kỷ 18, trong các bộ tóc giả và quần chẽn. Ông cũng chính là người đã góp phần tạo nên sự nổi tiếng và thịnh hành của thể loại viễn tưởng siêu nhiên trong thế kỷ 20. Điều đặc biệt trong phong cách sáng tác của Lovecraft chính là việc ông đã từ bỏ những chủ đề quen thuộc mà các tiền bối ở thế kỷ 19 sử dụng rộng rãi như ma quỷ hay ma cà rồng; để chuyển sang những chủ đề kinh dị hơi hướng hiện đại hơn, mang âm hưởng của thuyết tiến hóa Darwin và vật lý của Einstein.
Nhà văn Stephen King cũng đã từng ca ngợi Lovecraft rằng: “Giờ khi đã có nhiều thời gian để xem xét kỹ càng hơn về các tác phẩm của ông, cá nhân tôi nghĩ không còn nghi ngờ gì nếu chúng ta nói rằng chưa ai vượt qua được H.P. Lovecraft với tư cách là một người kể chuyện kinh dị cổ điển vĩ đại nhất thế kỷ 20.”
Vào những năm 1960, một chàng trai trẻ tên Stephen King đã tình cờ tìm được một cuốn sách cũ mang tên “The Lurking Fear and Other Stories” của Lovecraft. Đó là một khoảnh khắc quan trọng với nhà văn xuất chúng chuyên viết kinh dị này. King nói rằng: “Lovecraft đã giúp tôi mở mang tầm mắt, cũng giống như nhiều người khác trước tôi vậy… tất cả những câu chuyện kinh dị quan trọng được ra đời sau Lovecraft, đều phần nào nằm dưới cái bóng của ông - một cái bóng cao lớn, hốc hác; và nằm dưới con mắt vừa khắt khe vừa tăm tối của ông.”
Chất kinh dị của Lovecraft, đặc biệt là trong các tác phẩm về sau của ông, thường xoáy vào tâm trí thay vì khai thác chúng thông qua hình ảnh và âm thanh rùng rợn thông thường. Nỗi sợ mà các nhân vật của ông cảm nhận thấy không phải nỗi sợ cái chết hay mất mát; mà chúng đơn thuần là nỗi sợ cái bất định, cái bí ẩn nằm ẩn giấu sau bề ngoài của mọi thứ. Trong truyện ngắn “The Nameless City”; Lovecraft đã viết như sau: “Nỗi sợ thể chất mà cơ thể tôi cảm thấy khi bị kẹt trong một hành lang chật hẹp chất đầy xác chết của những con thằn lằn… cũng không bao giờ bằng được sự khiếp hãi kinh hoàng tôi cảm thấy khi nhìn vào những khung cảnh cổ xưa đến độ không thể đong đếm nổi thời gian.”
Câu chuyện nổi tiếng bậc nhất của Lovecraft - “The Call of Cthulhu” cũng bắt đầu với những câu như sau:
Tôi cho rằng điều may mắn nhất trên đời này chính là khi tâm trí con người trở nên bất lực trong việc sắp xếp lại tất cả những nội dung mà nó đã nắm bắt. Loài người chúng ta đang sống trên hòn đảo bình yên của sự vô tri giữa biển đen vô tận, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta nên ra khơi. Các ngành khoa học, mà mỗi ngành phát triển theo một hướng riêng, cho đến nay chưa gây ra tổn hại nhiều cho chúng ta; nhưng đến một ngày nào đó, việc thống nhất các mảng kiến thức rời rạc này sẽ làm sáng tỏ hoàn cảnh kinh khủng của thực tại, tiết lộ tình thế đáng sợ của chúng ta, chúng ta hoặc sẽ hóa điên bởi phát hiện này, hoặc sẽ chạy trốn khỏi thứ ánh sáng chết chóc đó để quay về sự yên bình của một thời đại tăm tối mới.
img_1
Với Lovecraft, vào đâu đó khoảng thế kỷ 19, khoa học đã trở thành một “thứ ánh sáng chết chóc”. Vào những năm 1700 mà ông yêu thích, khoa học đại diện cho sự thắng thế của nhân loại với những điều mê tín dị đoan. Những quy luật và nguyên tắc của tự nhiên dần thay thế cho thần thánh và ma thuật. Nhưng tiếp nhận khoa học cũng đồng nghĩa với việc từ bỏ vị trí cao quý của con người trong vũ trụ, một quá trình đã bắt đầu từ lúc lý thuyết của Copernicus đẩy thế giới của chúng ta khỏi trung tâm của sự sáng tạo. Những sự xáo trộn ấy tiếp tục và bùng nổ trong thế kỷ 19: các nhà địa chất tuyên bố rằng thế giới này có hàng triệu năm tuổi, và Darwin thì cho rằng con người và động vật có mối liên kết chặt chẽ. Và khi thế kỷ 20 đến, Einstein phá vỡ những học thuyết về vũ trụ của Newton bằng cách chứng minh rằng không gian có thể bị bẻ cong, thời gian có thể thay đổi, vật chất và năng lượng có thể hoán đổi vị trí cho nhau. Freud và Jung thì đi sâu vào tiềm thức con người và nói về những điều bất ngờ và đáng sợ không kém.
Lovecraft đã sử dụng tưởng tượng, phán đoán của mình về những sự sống ngoài vũ trụ để viết ra những câu chuyện có liên kết rời rạc với nhau, cuối cùng tạo nên thứ mà giờ được gọi là “Thần thoại Cthulhu”. Vào năm 1927, ông viết rằng: “Tất cả những câu chuyện của tôi đều dựa trên tiền đề cơ bản rằng những cảm xúc hay quy luật thông thường của con người thảy đều bé nhỏ và vô nghĩa trước sự vĩ đại của vũ trụ”. Vũ trụ dưới con mắt của khoa học hiện đại không còn chỗ cho các loại ác quỷ hay ma cà rồng, những thứ thuộc về truyền thuyết hay các yếu tố siêu nhiên truyền thống. Nhưng Lovecraft lại nhìn ra những yếu tố kinh dị mới lạ thuộc về không - thời gian.
“The Call of Cthulhu” và những câu chuyện tương tự khác của Lovecraft nhắc đến những chủng tộc sinh vật từ vũ trụ và các chiều không gian khác; những kẻ từng thống trị Trái Đất, giữa chúng từng xảy ra chiến tranh, và kết quả là những sinh vật ấy đã tạm ẩn mình, chờ một ngày kia trỗi dậy đòi lại quyền thống trị tuyệt đối. Lovecraft đã tạo nên hẳn một vùng New England hư cấu cho những câu chuyện của ông. Đó là một vùng đất có những địa danh nổi tiếng như thị trấn rùng rợn ven biển Kingsport; ngôi làng bị nguyền rủa tên Dunwich; và Arkham - cái nơi “đổ nát, đầy những tiếng thì thầm ghê rợn", là nơi cư ngụ của những học giả kỳ quái của Đại học Miskatonic. Trong các câu chuyện của ông, những nhân vật khi truy tìm những mẩu tích truyện cổ xưa thường hay tham khảo những ghi chép từ cuốn sách có tên Necronomicon của một học giả điên loạn tên Arab Abdul Alhazred - hiện đang được cất giấu kỹ càng tại Đại học Miskatonic và Thư viện Widener ở Harvard.
img_2
Thần thoại Cthulhu đã giúp Lovecraft trở nên nổi tiếng, nhưng tiếc rằng lúc sinh thời nó không giúp ông kiếm được nhiều tiền. Ông sinh ngày 20 tháng 8 năm 1890 trong một gia đình giàu có ở Providence thuộc đảo Rhode. Nhưng khi Lovecraft bước vào thuở niên thiếu cũng là lúc gia sản của dòng họ ông dần mai một. Bởi thế, Lovecraft lớn lên và trở thành một người bị bó buộc đủ bề bởi các vấn đề tài chính - điều mà cho tới lúc chết ông vẫn không thích nghi và vượt qua nổi.
Cả cha và mẹ ông về cuối đời đều gặp vấn đề về thần kinh dẫn đến điên loạn. Mẹ ông từng mô tả cậu bé Howard rằng cậu có một bề ngoài “gớm ghiếc” và cố không để người ngoài thấy ông. Từ lúc chỉ mới là một cậu bé 6,7 tuổi ở Providence; Lovecraft đã thường xuyên bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng về một sinh vật “đen thui, gầy gộc, có sừng, đuôi có gai, cánh như cánh dơi và không hề có mặt”. Lovecraft gọi sinh vật ấy là những Night-Gaunts; và trong những cơn ác mộng, chúng sẽ tóm lấy ông bằng bụng rồi “cắp tôi bay qua vô số dặm đường đầy khói đen kịt bốc lên từ những ngọn tháp của các thành phố chết chóc, đáng sợ. Chúng đem tôi đến một khoảng không xám xịt, nơi tôi có thể nhìn thấy vô số đỉnh núi nhọn hoắt phía bên dưới. Và cuối cùng chúng sẽ thả tôi rơi tự do xuống…”
Lovecraft sống ba năm đầu đời tại ngoại ô thành phố Boston. Nhưng khi cha ông - một doanh nhân hay phải đi xa - nhập viện tâm thần vào năm 1893 thì ông cùng mẹ chuyển tới sống trong căn biệt thự của ông ngoại tại Providence. Căn biệt thự ấy có một thư viện chứa đến hai nghìn cuốn sách. Lovecraft biết đọc từ lúc lên 3 và ông sớm trở nên yêu thích những truyện cổ Grimm và tiểu thuyết của Jules Verne.
Mặc dù yêu thích những thứ kỳ ảo, nhưng Lovecraft lại là một người theo chủ nghĩa hoài nghi bẩm sinh. Khi 5 tuổi, ông nghỉ học sau một cuộc tranh cãi với giáo viên và các bạn cùng lớp về sự tồn tại của Chúa. Bỏ qua những nghi ngờ về triết học, thì dường như với Lovecraft, đạo Tin Lành có phần cứng nhắc, ảm đạm hoàn toàn lu mờ trước “sự huyền bí lộng lẫy của Hồi giáo phương Đông” - những điều mà ông nhận thấy sau khi đọc Nghìn lẻ một đêm. Ông trang trí phòng mình bằng những bức tranh treo tường phương Đông và các bình hương. Tuy vậy, sự đam mê với văn hóa Hồi giáo của ông dần biến mất sau khi Lovecraft tiếp xúc với thơ ca Hy Lạp và Latin. Sau đó, có một dạo ông lập hẳn đền thờ cho thần Pan và hay mò vào rừng để tìm kiếm các thần rừng, nhưng niềm đam mê này cũng nhanh chóng biến mất khi ông bắt gặp các tác phẩm của Edgar Allen Poe.
"The Shadow Over Innsmouth"
"The Shadow Over Innsmouth"
Việc giáo dục của Lovecraft tại các trường công lập bị ngắt quãng rất nhiều. Mẹ của Lovecraft thường xuyên cho ông nghỉ học với lý do ông bị bệnh, mặc dù có vẻ phần lớn các chứng bệnh thời thơ ấu của ông liên quan nhiều đến tâm lý: ông thường xuyên bị nhức đầu, đau dạ dày, bàng quang không tốt và cơ mặt có vấn đề. Trong những khoảng thời gian không đến trường, ông được giáo dục tại gia bởi người thân và một số gia sư. Cậu bé Howard thường có xu hướng bắt chước văn phong của Dryden hay Poe, và từng dịch tác phẩm Metamorphoses của Ovid. Lovecraft cũng dần trở nên đam mê với các ngành khoa học; ông từng làm hẳn một phòng thí nghiệm dưới hầm và thường xuyên ngắm nhìn bầu trời đêm bằng một chiếc kính viễn vọng rẻ tiền.
Cũng trong khoảng thời gian này, việc kinh doanh và làm ăn của ông ngoại Lovecraft gặp nhiều khó khăn; dẫn đến việc vào năm 1904 khi ông ngoại ông qua đời, gia đình Lovecraft đã phải bán căn biệt thự. Lovecraft và mẹ chuyển đến sống ở một căn hộ thuê cách đó không xa. Ban đầu, ông dự định sẽ theo học ngành thiên văn học ở Brown, nhưng tình hình tài chính của gia đình và những vấn đề về thần kinh của Lovecraft khiến dự định này bị hủy bỏ. Lovecraft bỏ học cấp ba, và dần sống khép kín, gần như ẩn dật. Ông ngủ vào ban ngày, còn ban đêm dành thời gian để đọc và sáng tác. Mẹ ông không ngăn cản cách sống này, và sự phó mặc ấy đã khiến Lovecraft ngày càng trở nên xa cách với xã hội hơn. Chính bản thân bà cũng dần hành xử kỳ quặc. Mẹ của Lovecraft thường trốn trong các bụi cây và kể với hàng xóm về những sinh vật kỳ dị bay lượn quanh nhà mình.
Mù có trạng thái tinh thần không ổn định, nhưng Lovecraft vẫn viết được nhiều bài báo về thiên văn học, được đăng trên các tờ báo địa phương. Vào năm 1913, Lovecraft viết một bức thư dài với giọng văn cực kỳ gay gắt, được đăng trên báo The Argosy - một tạp chí chuyên về truyện ngắn hướng đến các độc giả nam giới. Trong thư, ông phàn nàn về tiêu chuẩn của các câu chuyện trên tạp chí; dẫn đến nhiều cuộc tranh luận với các tác giả và độc giả suốt một năm trời. Tuy vậy, những cuộc tranh luận liên hồi cũng có mặt tốt, khi nó thu hút sự chú ý của Edward F.Daas, một thành hiên của Hiệp hội Báo chí Nghiệp dư. Thể theo gợi ý của Daas, Lovecraft tham gia Hiệp hội và bắt đầu viết những bài phê bình báo chí và thu hút được nhiều độc giả yêu mến. Ông dần trở nên nổi bật trong Hiệp hội và cuối cùng trở thành chủ tịch vào cuối năm 1914.
img_3
Bên cạnh việc viết bài cho các tạp chí, Lovecraft còn trao đổi thư từ với rất nhiều phóng viên. Suốt cuộc đời, Lovecraft viết đến một trăm nghìn bức thư với tổng số khoảng mười triệu từ. Vào năm 1915, ông tự xuất bản một tạp chí của riêng mình, lấy tên là The Conservative. Tạp chí này xuất bản được 13 số trong vòng 8 năm sau đó, chủ yếu gồm những bài thơ và tiểu luận của ông và một số thành viên của Hiệp hội. Ngay ở số đầu tiên, tạp chí đã có một bài xã luận gây tranh cãi lớn mang tên “Tội ác Thế kỷ”; trong đó Lovecraft ca ngợi sự ưu việt của chủng tộc Aryan với phần còn lại của nhân loại. Đến những năm 1920, sự căm ghét của ông với người Do Thái, ngoại lai và người da đen gần như trở thành một nỗi ám ảnh điên cuồng; và phải mãi đến tầm tuổi 40 Lovecraft dường như mới dịu đi, dù vẫn tỏ ra khá gay gắt.
Những đồng nghiệp của Lovecraft cũng khuyến khích ông quay lại thử sức sáng tác truyện viễn tưởng siêu nhiên, sau khi ông từ bỏ đam mê này lúc niên thiếu. Vào mùa hè năm 1917, Lovecraft viết hai truyện ngắn là “The Tomb” và “Dagon”. Cũng trong năm 1917, Lovecraft nộp đơn xin nhập ngũ sau khi Mỹ tham chiến trong Thế chiến thứ Nhất; nhưng đơn của ông bị từ chối do “không đủ điều kiện phục vụ”. Sau đó, Lovecraft bắt đầu sự nghiệp viết thuê. Phần lớn thu nhập suốt trong sự nghiệp của Lovecraft đến từ việc viết thuê và biên tập, còn chính những sáng tác của ông thì không thực sự đem lại nhiều nhuận bút. Những năm sau đó là khoảng thời gian việc sáng tác của ông thăng hoa nhất. Những nguồn cảm hứng bắt đầu đến với ông vào năm 1919, sau khi Lovecraft đọc “Time and the Gods”, một tuyển tập truyện kỳ ảo của tác giả người Ireland tên Edward Plunkett.
Trong vài năm sau đó, Lovecraft viết nhiều truyện ngắn kỳ ảo với phong cách học hỏi theo Edward Plunkett; nhưng đen tối và u ám hơn hẳn. Những sáng tác của Lovecraft trong giai đoạn này như “The Doom That Came to Sarnath”, “The White Ship” hay “The Other Gods” cho thấy ảnh hưởng rõ ràng của Plunkett. Bên cạnh đó, Lovecraft cũng dần sáng tạo ra những thế giới viễn tưởng của riêng mình, ví dụ như các đồng bằng của Leng hay vùng hoang mạc Unknown Kadath.
Quãng thời gian thăng hoa trong sáng tác của Lovecraft đáng buồn là lại trùng với giai đoạn mà cuộc sống cá nhân của ông gặp nhiều bất hạnh. Vào năm 1919, mẹ ông phải nhập viện vì những vấn đề về thần kinh; bà mất 2 năm sau đó ở tuổi 63. Lovecraft giờ sống cùng hai người dì - những người cũng có tính cách giống mẹ ông. Họ không hay có khách khứa, và thường xuyên phản đối việc ông ra ngoài một mình. Cái chết của mẹ khiến Lovecraft thêm bất ổn về tinh thần, thậm chí từng có ý nghĩ muốn tự tử; nhưng ông cố gắng chống chọi bằng cách làm việc liên tục và thường xuyên đến Boston gặp mặt các nhà báo nghiệp dư. Nhờ những chuyến đi này mà một lần ông có cơ hội quen được một phụ nữ Do Thái gốc Ukraine đến từ New York tên là Sonia Haft Greene. Hai người làm quen rồi dần dần nảy sinh tình cảm - điều mà thoạt nhìn ít ai có thể tin được. Greene là một phụ nữ đã ly hôn, có một con gái riêng đã lớn, và hơn Lovecraft 7 tuổi. Bấy giờ bà là quản lý của một cửa hàng quần áo ở Manhattan, và có một nguồn thu nhập tương đối ổn định hàng năm. Bà cũng là một người say mê văn học, và có lẽ đấy là lý do khiến hai người nảy sinh tình cảm với nhau. Hai người thường xuyên trao đổi thư từ với nhau và ngày càng thân thiết.
img_4
Thời gian này việc sáng tác của Lovecraft cũng có bước ngoặt đáng kể, khi truyện của ông bắt đầu được đăng trên các tạp chí định kỳ. Vào cuối năm 1923, truyện ngắn “Dagon” của ông được đăng trên tờ Weird Tales - một tạp chí giá rẻ chuyên đăng những truyện kỳ dị và siêu nhiên. Lovecraft dần trở thành một tác giả quen thuộc của Weird Tales, và tiếp tục cho ra mắt những truyện được đánh giá cao như “The Rats in the Walls” và “The Outsider”.
Vào tháng 3 năm 1924, Lovecraft và Greene kết hôn, rồi sau đó ông chuyển vào sống ở căn hộ của vợ ở Brooklyn. Lovecraft cũng bắt đầu tìm một công việc ổn định, nhưng vì đã 33 tuổi và không có kinh nghiệm gì nên những nỗ lực của ông đều thất bại. Do đó, vợ của ông trở thành người trang trải chính cho cuộc sống của gia đình. Cuộc sống của Lovecraft ở New York thoạt đầu có vẻ rất tuyệt vời, khi ông tỏ ra rất thích thú với thành phố này, nhất là việc ở đây có rất nhiều bảo tàng và di tích lịch sử. Tuy vậy, quãng thời gian tươi đẹp này không kéo dài lâu. Việc kinh doanh của vợ ông thất bại, và họ phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Bà quyết định nhận việc ở một cửa hàng bách hóa ở Cincinnati, còn Lovecraft quyết định ở lại New York. Ông chuyển đến một căn hộ nhỏ hơn và tiếp tục chủ yếu kiếm sống nhờ việc viết thuê. Bà Sonia cũng thường xuyên gửi tiền để chu cấp cho chồng, bù vào những khoản thù lao ít ỏi của Lovecraft.
Những xáo trộn xảy đến liên tiếp trong cuộc sống khiến tinh thần của Lovecraft ngày càng bất ổn. Ông trở nên căm ghét người ngoại quốc còn nhiều hơn khi trước. Trong những bức thư gửi cho các dì của mình, Lovecraft viết đầy những lời lẽ thù địch với người da đen, Do Thái và người châu Á. Ông bắt đầu tránh mặt bạn bè với lý do họ khiến ông bị xao lãng; việc này quyết liệt đến mức Lovecraft dọa sẽ tự tử, và ông thường xuyên đem một lọ thuốc độc bên người. Ông cũng trở nên ghét bỏ New York, chủ yếu là vì khu mà ông sinh sống. Lovecraft bày tỏ điều này thông qua những truyện ngắn như “The Horror at Red Hook” và “He” - đều có bối cảnh New York.
Vào đầu năm 1926, các dì của Lovecraft mời ông về thăm Providence, và ông đã lấy đây làm cớ để quay về sống ở quê hương. Bà Sonia vợ ông cũng đi theo, và lên kế hoạch kinh doanh ở Providence. Bà cũng ngỏ lời đề nghị trợ cấp không chỉ cho ông mà cho cả các dì của Lovecraft, nhưng bị từ chối gay gắt. Trong việc này, Lovecraft nghe theo các dì, dẫn đến mâu thuẫn giữa ông với vợ. Cuối cùng, cả hai ly hôn vào năm 1929. Lovecraft nói rằng nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề tài chính; nhưng thực chất với một người có bản tính cô độc và xa cách, thì ông không hợp với cuộc sống hôn nhân. Sau này ông cũng đã thừa nhận rằng “tôi không hợp với lối sống ở gần con người, mà hợp với những khung cảnh hơn. Đam mê của tôi cũng vậy - nó nằm ở các loại địa hình và kiến trúc, không phải với tình cảm cá nhân”.
"At the Mountains of Madness"
"At the Mountains of Madness"
Khoảng mười năm cuối đời có lẽ là quãng thời gian khó khăn nhất trong cuộc sống cá nhân của Lovecraft. Một trong những mong muốn của Lovecraft là mua lại được căn biệt thự của ông ngoại, nhưng tài chính quá eo hẹp khiến điều này không thể trở thành hiện thực. Ông cũng muốn một lần được đi du lịch châu Âu, nhưng điều này cũng ngoài tầm với do tình hình tài chính cá nhân. Không còn tiền chu cấp từ vợ, nên thu nhập chủ yếu của Lovecraft giờ phải dựa vào việc viết thuê; nhưng khoản này vốn đã không nhiều, nay còn ít dần đi do các khách hàng thân thiết của ông đều lần lượt qua đời. Tài chính ngày càng eo hẹp, nên từng có một thời gian ông thậm chí còn phải làm những công việc ban đêm - ví dụ như bán vé ở rạp chiếu phim.
Cuộc sống khó khăn dẫn đến việc sáng tác cũng bị ảnh hưởng ít nhiều, khi Lovecraft dần mất đi tự tin trong việc viết. Trong vài năm sau khi quay về sống ở Providence, ông viết được hai tiểu thuyết ngắn là “The Dream-Quest of Unknown Kadath” và “The Case of Charles Dexter Ward”. Tuy vậy, Lovecraft không hài lòng chút nào với cả hai tác phẩm, đến mức ông còn không định đem chúng đi xuất bản. Dù thế, “The Case of Charles Dexter Ward” sau này lại được đón nhận rất tốt, thậm chí một số nhà phê bình còn cho rằng đây là một trong những tác phẩm hay nhất của Lovecraft.
Sau khi hoàn thành hai tiểu thuyết ngắn, Lovecraft tiếp tục viết thêm nhiều truyện ngắn khác - thảy đều là những tác phẩm xuất sắc và nổi tiếng bậc nhất của ông: “The Dunwich Horror”, “The Whisperer in Darkness” và “The Shadow Over Innsmouth”. Ngoài ra, thời gian này Lovecraft cũng thăm thú các nơi khá nhiều, khác hẳn với bản thân hồi trẻ. Ông đến thăm Florida, Quebec, đồng thời đi thám hiểm nhiều ở New England. Dĩ nhiên Lovecraft đều cố gắng hết mức để tiết kiệm chi phí cho các chuyến đi ấy. Ông cũng quen biết và thư từ qua lại với một số nhà văn như: Robert Ervin Howard - người đã sáng tạo ra nhân vật và thế giới nổi tiếng mang tên Conan the Barbarian; và Robert Bloch - tác giả tiểu thuyết kinh dị nổi tiếng Psycho sau này.
img_5
Vào năm 1931, Lovecraft hoàn thành tiểu thuyết ngắn “At the Mountains of Madness”, được nhiều người đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Lovecraft thích tác phẩm này đến mức quyết định đánh máy nó để đem đi xuất bản, dù ông trước đây rất ghét máy chữ. Tuy nhiên, biên tập viên của Weird Tales từ chối “At the Mountains of Madness”, với lý do là tạp chí không có chính sách in tiểu thuyết dài kỳ. Điều này khiến Lovecraft cực kỳ suy sụp. Ông bán bản thảo cho một tạp chí truyện khoa học viễn tưởng khác là Astounding Stories; nhưng việc tác phẩm tâm đắc bị từ chối khiến Lovecraft gần như mất hết cảm hứng sáng tác. Từ đó đến cuối đời, ông chỉ viết thêm một vài truyện ngắn.
Trong vài năm cuối đời, Lovecraft dần thay đổi tính tình. Ông từ bỏ hết những suy nghĩ và ám ảnh về sự phân biệt chủng tộc, và dự định thực hiện một cuốn tiểu thuyết lớn với chủ đề là một gia tộc nhiều thế hệ ở New England có khả năng hóa thành người sói. Một nhà xuất bản là William Morrow and Company bày tỏ hứng thú với dự án này, nhưng lúc ấy sức khỏe Lovecraft đã quá suy nhược, không thể sáng tác thêm gì. Từ năm 1935 bệnh ung thư đại tràng của ông bắt đầu trở nặng. Nhưng mãi đến tận tháng 2 năm 1937 ông mới chịu đi khám, sau khi ốm liệt giường trong nhiều tháng. Lúc bấy giờ bệnh đã di căn, vô phương cứu chữa, và ông qua đời ngày 15 tháng 3 năm 1937. Và mặc dù không còn sáng tác nhiều trong những năm cuối đời, nhưng Lovecraft vẫn chăm chỉ thư từ qua lại với một số nhà văn - trong số ấy nhiều người ông chưa từng gặp mặt bao giờ.
Stephen King từng viết rằng những “tầm nhìn về một tương lai khiếp hãi không tưởng” của Lovecraft rồi sẽ thành hiện thực trong những năm sau cái chết của ông. Trên thực tế, những điều kinh hoàng nhất xảy ra trong thế kỷ 20 lại không phải những hiểm họa đến từ vũ trụ, mà thảy đều là tác phẩm do bàn tay con người tạo ra. Nhưng dù có như vậy, có lẽ Lovecraft nếu còn sống mà chứng kiến thì cũng không lấy làm ngạc nhiên. Với một con người thuộc về quá khứ và những miền nông thôn như Lovecraft, có lẽ những thứ kinh hoàng nhất chính là một thế giới hiện đại với một “nền văn hóa máy móc độc hại”, như ông từng phàn nàn. Đó là một thế giới nơi tiếng tích tắc của những chiếc đồng hồ bằng gỗ chạy dây cót bị lấn át bởi những tiếng kêu lẻng xẻng từ những cỗ máy khổng lồ; những tiếng rít của động cơ hơi nước bị nhấn chìm bởi tiếng kêu lách tách của dòng điện. Đó mới là thế giới đáng sợ trong tưởng tượng của Lovecraft.
Dường như với Lovecraft, một con người cảm thấy không thể thích nghi được với xã hội loài người, cái ý niệm rằng “những cảm xúc hay quy luật thông thường của con người thảy đều bé nhỏ và vô nghĩa trước sự vĩ đại của vũ trụ” có lẽ là một sự an ủi. Trong những câu chuyện của ông, các thế lực siêu nhiên dường như đều đem đến một sự giải phóng, dù có vẻ như sự “giải phóng” ấy vượt ngoài quy luật thông thường. Nhân vật chính trong “The Shadow Over Innsmouth” biến thành một dạng sống nửa người nửa cá, và anh ta lặn xuống biển sâu để “được đắm mình trong những kỳ quan rực rỡ mãi mãi”. Trong “The Whisperer in Darkness”, não của một nhân vật bị người ngoài hành tinh tách khỏi cơ thể và đặt trong một ống kim loại, và nhờ đó anh ta có thể du hành xuyên qua không gian mà không bị vướng bận bởi thân xác phàm tục. Còn nhân vật chính của “The Shadow Out of Time” thì bị một thực thể hùng mạnh cổ xưa chiếm đóng thân xác, nhưng nhờ vậy anh ta có thể được chiêm ngưỡng vô số kỳ quan thuở xa xưa. Với Lovecraft, thảy những điều ấy là những mộng tưởng đẹp đẽ của ông, chứ chẳng phải những nỗi khiếp hãi kinh hoàng, phải thế chăng?
img_6