Hôm 29 tháng 11 năm 2023, báo chí Mỹ đồng loạt đưa tin ông Henry Kissinger đã trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 100, để lại một sự nghiệp đầy màu sắc và tranh cãi. Cái chết của Kissinger gây chú ý không khác gì việc một nhân vật tầm cỡ đương nhiệm qua đời, vì những di sản của chính trị gia này vẫn hiện hữu và thậm chí có thể định hình tương lai.
Được xem là vị ngoại trưởng Mỹ quyền lực nhất từ sau Thế chiến II, Kissinger là sự pha trộn giữa cảm hứng, mưu mẹo, quyền lực, yêu và ghét. Ông là người thứ 56 giữ chức Ngoại trưởng Hoa Kỳ, một học giả đáng kính của Mỹ và là người đoạt giải Nobel Hòa bình, người đã giúp tạo ra trật tự thế giới sau Thế chiến II và lãnh đạo Hoa Kỳ vượt qua một số thách thức chính sách đối ngoại phức tạp nhất.
Với giọng Đức đặc trưng, ​​sự hóm hỉnh sắc sảo, lượng bài viết phong phú và niềm tin vào sức mạnh kiến ​​tạo hòa bình của chính sách thực dụng, Tiến sĩ Kissinger là một trong những nhà thực hành chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia có ảnh hưởng nhất thời kỳ hậu Thế chiến thứ hai và vẫn hoạt động tích cực trong lĩnh vực an ninh quốc gia trong hơn 70 năm qua. Từ năm 20 tuổi, khi gia nhập Quân đội Hoa Kỳ, cho đến lúc cận kề cái chết, Tiến sĩ Kissinger vẫn tiếp tục tới Washington để đưa ra những lời cố vấn về chiến lược an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Kết quả sau cùng của những cuộc chiến tranh mà Mỹ có sự tham dự trên khắp thế giới kể từ năm 1945 như chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Campuchia, chiến tranh Bangladesh… hay thậm chí là cả cuộc chiến tranh Nga - Ukraine mới đây đều có sự tác động sâu sắc của người đàn ông vĩ đại này.
Thật không đơn giản để viết về Kissinger, kể cả việc nên đề cập nhân vật này dưới tư cách gì. Ông nổi tiếng với vai trò ngoại trưởng Mỹ, nhưng cũng là một học giả với những cuốn sách nằm lòng cho giới quan hệ quốc tế. Tên tuổi và sức ảnh hưởng của ông đã vượt xa một nhà ngoại giao chuẩn mực thông thường. Vậy nên, hãy cùng Spiderum chúng mình khám phá một vài nét tiêu biểu nhất về cuộc đời con người đầy thú vị này ngay thôi nào.

1, Sinh ra là người Đức

Henry Kissinger tên thật là Heinz Alfred Kissinger. Ông chào đời vào ngày 27 tháng 5 năm 1923, tại thị trấn Fürth, bang Bavaria, nước Đức. Cha ông, Louis Kissinger là một giáo viên tại trường nữ sinh và mẹ ông, bà Paula (nhũ danh Stern), tiểu thư của một gia đình giàu có đến từ Leutershausen. Ông có một người em trai, Walter (1924–2021), người sau này cũng là một doanh nhân có tiếng. Gia đình Kissinger là người Đức gốc Do Thái. Ông cố của ông là Meyer Löb đã lấy "Kissinger" làm họ của mình vào năm 1817, dựa trên tên của thị trấn nghỉ dưỡng nổi tiếng Bad Kissingen ở Bavaria.
Thời thơ ấu, Kissinger sống một cuộc sống tương đối khá giả. Dù chủ nghĩa bài Do Thái đang lên cao tại châu Âu, đặc biệt là Đức, thì cha ông vẫn có một sự nghiệp được ông mô tả là “ngoạn mục” khi được giữ chức giáo viên ở một trường công lập và có “một danh hiệu”. Điều này là rất hiếm khi chẳng có mấy người Do Thái được làm viên chức tại Đức trong những năm 1920. Điều kiện gia đình giúp Kissinger có cơ hội tham gia những hoạt động của giới trung lưu như tham gia các hoạt động thể thao và tiếp cận với nhiều nguồn tri thức. Ông từng chia sẻ rằng khi còn bé, mình rất thích chơi bóng đá dù không quá giỏi. Nhờ những nỗ lực mà ông được chơi cho đội trẻ của SpVgg Fürth, một trong những câu lạc bộ tốt nhất Đức vào thời điểm đó. Ngoài ra, ông cũng rất sáng dạ. Khi còn nhỏ, ông đã gây ấn tượng với mọi người bằng cách đọc rất nhiều cuốn sách, mỗi ngày luôn dành ra hai giờ để nghiên cứu Kinh Thánh và Kinh Talmud. Ông cũng được cho là có năng khiếu diễn thuyết thiên bẩm, thường xuyên luyện tập bằng cách tổ chức tranh luận với mọi người.
Cuộc sống của Kissinger diễn ra tốt đẹp cho đến khi Adolf Hitler được bầu làm Thủ tướng Đức vào năm 1933. Cần phải nói, vào những năm 1930, Nuremberg là thành phố diễn ra các cuộc biểu tình lớn hàng năm của Đức Quốc xã, nơi luật bài Do Thái để đảm bảo sự thuần khiết chủng tộc được thông qua đầu tiên. Fürth, với tư cách một thị trấn trực thuộc Nuremberg, dĩ nhiên là một trong những nơi chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của những thay đổi này.
Trong một cuộc phỏng vấn với BBC năm 2022, Kissinger hồi tưởng về việc cha mẹ ông đã linh cảm được đây sẽ là bước ngoặt sâu sắc không chỉ đối với với gia đình Kissinger mà là cả toàn bộ cộng đồng người Do Thái tại Đức nói chung. Quả nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau đó, bố ông bị buộc thôi việc dù là một giáo viên có uy tín tại trường. Đồng thời, gia đình ông cũng như nhiều gia đình Do Thái khác đã bị áp dụng nhiều điều luật hạn chế các hoạt động xã hội, tước đoạt đi đáng kể sự tự do. Bản thân Kissinger mất đi cơ hội học trung học tại hệ thống gymnasium (hệ thống học tập top 1 của Đức thời bấy giờ) và bị buộc phải tới một trường học biệt lập dành riêng cho người Do Thái. Theo Kissinger chia sẻ, trong thời kỳ Đức Quốc xã cai trị, ông và những người bạn của mình thường xuyên bị các băng nhóm Thanh niên Hitler công khai kì thị trên đường phố và thi thoảng còn bị tấn công dã man. Đôi khi, ông bất chấp sự phân biệt do luật phân biệt chủng tộc của Đức Quốc xã áp đặt bằng cách lẻn vào các sân vận động bóng đá để xem các trận đấu, thường dẫn đến việc bị nhân viên bảo vệ bắt được và đánh đập một cách không thương tiếc.
Trước những điều luật bài xích người Do Thái hà khắc của Đức Quốc xã, mẹ của ông, bà Paula, đã gây áp lực với cha ông rằng rời Đức là hy vọng tốt nhất cho tương lai của gia đình. Cuộc sống gia đình càng ngày càng căng thẳng, theo như Kissinger mô tả, thì là “ngày càng trở nên khó chịu nhưng ít ra là chưa có bạo lực”. Cuối cùng, cha ông cũng đồng ý với mẹ ông, buông bỏ tất cả mọi thứ tại Đức để rời đi. Bà Paula sau đó đã nộp đơn xin thị thực xuất cảnh để cả gia đình có thể rời đi trước khi quá muộn.
Vào ngày 20 tháng 8 năm 1938, khi Kissinger 15 tuổi, ông và gia đình trốn khỏi Đức để tránh sự đàn áp tiếp theo của Đức Quốc xã. Có thể nói đó là một sự may mắn kịp thời, vì cuộc chạy trốn này diễn ra chỉ vài tháng trước sự kiện Đêm thủy tinh vỡ Kristallnacht vào tháng 11 năm đó, một sự kiện thảm sát người Do Thái dã man được tiến hành bởi người dân Đức, báo hiệu một tương lai tăm tối cho những người Do Thái ở lại nơi này. Tuy gia đình ông đã được an toàn, nhưng nhiều người trong dòng họ ông đã không thể trốn thoát và ít nhất 13 người trong số họ đã thiệt mạng trong Holocaust. Trong một cuộc phỏng vấn sau này, Kissinger nhận xét rằng mọi người đã cố gắng sống sót sau thảm họa Holocaust nhờ “một mục đích duy nhất”, một đặc điểm đã định hình ông trong suốt sự nghiệp của mình.

2, Đến Hoa Kỳ và trở thành người Mỹ

Rời Đức, gia đình Kissinger dừng lại một thời gian ngắn ở London trước khi đến Thành phố New York vào ngày 5 tháng 9 năm 1938. Trải nghiệm khi chạy trốn khỏi một đất nước nơi ông từng phải lén lút băng qua đường để tránh bị đánh đập bởi những nhóm côn đồ thiếu niên thù ghét Do Thái tới một đất nước mà sự đàn áp như vậy không tồn tại, là một trải nghiệm mang tính thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức của chàng trai Kissinger năm ấy. Việc đầu tiên mà ông muốn làm, đó là chứng minh và được mọi người công nhận như một người Mỹ. Trong bài phát biểu chia tay với tư cách là Ngoại trưởng của mình, Kissinger có nói:
“Khi tôi đến đây vào năm 1938, tôi được yêu cầu viết một bài luận tại trường trung học George Washington về ý nghĩa của việc trở thành một người Mỹ. Tôi đã viết rằng…đây là một đất nước mà người ta có thể đi bộ qua đường với cái đầu ngẩng cao.”
Tại New York, Kissinger trải qua những năm trung học của mình trong cộng đồng người Đức gốc Do Thái ở khu Washington Heights của Manhattan. Mặc dù chính Kissinger thừa nhận rằng mình đã nhanh chóng hòa nhập với văn hóa Mỹ, nhưng thực tế ông không bao giờ đánh mất giọng Đức đặc trưng của mình. Những trải nghiệm đau thương thời thời thơ ấu khiến ông trở nên trầm tính và ít giao tiếp trong suốt những năm tháng về sau. Sau năm đầu tiên tại trường trung học George Washington, ông bắt đầu đi học vào ban đêm trong khi ban ngày làm việc trong một nhà máy sản xuất bàn chải cạo râu.
Điểm số xuất sắc cùng với hạnh kiểm tốt đã giúp Kissinger dễ dàng được nhận vào Đại học Thành phố New York sau khi tốt nghiệp trung học, nơi ông được hưởng nền giáo dục miễn phí. Ông tiếp tục đạt thành tích học tập đáng ấn tượng khi vẫn duy trì làm việc bán thời gian của mình. Thời điểm này, ước mơ của ông là trở thành một kế toán. Tuy nhiên, cả việc học lẫn ước mơ nhất thời của ông đã bị gián đoạn vào đầu năm 1943, khi ông được đưa vào Quân đội Hoa Kỳ.

3, Như một người lính Mỹ

Gia nhập quân đội, Kissinger đã trải qua khóa huấn luyện cơ bản tại Trại Croft ở Spartanburg, Nam Carolina. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1943, ở tuổi 20, khi đang đóng quân ở Nam Carolina, ông chính thức trở thành công dân Hoa Kỳ theo diện nhập tịch. Quân đội cử ông đi học ngành kỹ thuật tại trường Cao đẳng Lafayette ở Pennsylvania theo Chương trình Huấn luyện Chuyên biệt của Quân đội, nhưng chương trình này sau đó bị hủy bỏ giữa chừng và Kissinger lại được điều động về Sư đoàn Bộ binh 84. Tại đây, ông làm quen với Fritz Kraemer, một người nhập cư từ Đức, người đã ghi nhận sự thông thạo tiếng Đức và trí tuệ của Kissinger và sắp xếp để anh được bổ nhiệm vào lực lượng tình báo quân sự của sư đoàn.
Cùng với nhiều sư đoàn khác, Sư đoàn Bộ binh 84 sau đó đã được cử sang châu Âu tác chiến. Kissinger đã tham chiến cùng sư đoàn và tình nguyện thực hiện các nhiệm vụ tình báo nguy hiểm trong Trận Bulge (một chiến dịch nguy hiểm diễn ra ở vùng Ardennes nằm giữa 3 quốc gia Bỉ, Luxembourg và Đức). Vào ngày 10 tháng 4 năm 1945, ông tham gia giải phóng trại tập trung Hannover-Ahlem, một phân trại của trại tập trung Neuengamme khét tiếng. Vào thời điểm đó, Kissinger đã viết trong nhật ký của mình: "Tôi chưa bao giờ thấy người ta xuống cấp đến mức như người ở Ahlem. Họ hầu như không trông giống con người. Họ chỉ là những bộ xương." Tuy nhiên, sau cú sốc ban đầu, Kissinger tương đối kiệm lời về việc phục vụ trong thời chiến của mình.
Trong thời gian Mỹ tiến vào Đức, Kissinger, dù chỉ là binh nhì, tức cấp quân sự thấp nhất, vẫn được giao phụ trách quản lý thành phố Krefeld vì nhân viên tình báo của sư đoàn thiếu người nói tiếng Đức. Trong vòng tám ngày, ông đã thành lập một chính quyền dân sự. Kissinger sau đó được bổ nhiệm lại vào Quân đoàn tình báo phản công (CIC), nơi ông trở thành Đặc vụ CIC với cấp bậc trung sĩ nhập ngũ. Ông được giao phụ trách một đội ở Hanover được giao nhiệm vụ truy tìm các sĩ quan Gestapo và những thành phần phá hoại khác. Kissinger sau đó đã lập một danh sách đầy đủ tất cả các nhân viên Gestapo được biết đến ở vùng Bergstraße. Đến cuối tháng 7, có tổng cộng 12 tên phá hoại đã bị bắt. Đây là một thành tích rất tốt với một trung sĩ, nhờ đó ông đã được trao tặng huân chương Ngôi sao Đồng.
Vào tháng 6 năm 1945, Kissinger được bổ nhiệm làm chỉ huy đội tàu điện ngầm Bensheim CIC, quận Bergstraße của Hesse, chịu trách nhiệm phi chính phủ hóa quận. Mặc dù có quyền tuyệt đối và quyền bắt giữ, Kissinger vẫn cẩn thận để tránh những hành vi ngược đãi người dân địa phương. Theo mệnh lệnh của ông, việc giải phóng khu vực được diễn ra rất suôn sẻ.
Năm 1946, một năm sau khi chiến tranh kết thúc, Kissinger được bổ nhiệm giảng dạy cho Trường Tình báo Chỉ huy Châu Âu tại Trại King, ngoại ô thị trấn Oberursel, nước Đức. Sau này, với tư cách là một nhân viên dân sự sau khi tách khỏi quân đội, ông vẫn tiếp tục phục vụ trong vai trò này một thời gian. Kissinger kể lại rằng trải nghiệm trong quân đội "khiến tôi cảm thấy mình như một người Mỹ".

4, Con đường học thuật

Năm 1947, Kissinger trở về Hoa Kỳ và nhập học tại Harvard, nơi ông sống ở Adams House và học dưới sự hướng dẫn của William Yandell Elliott. Năm 1950, ông lấy bằng Cử nhân Nghệ thuật hạng ưu, Phi Beta Kappa về khoa học chính trị. Luận án đại học cao cấp của ông, có tựa đề “Ý nghĩa của lịch sử: Những suy ngẫm về Spengler, Toynbee và Kant”. Đây là một luận án dài hơn 400 trang, một con số vô cùng ấn tượng. Nhiều người cho rằng đây là nguồn gốc của giới hạn độ dài 35.000 từ với các luận án hiện tại dù điều này được chính em trai ông, Walter Kissinger lên tiếng phủ nhận khi kể về anh mình. Sau đó, ông lấy bằng Thạc sĩ Nghệ thuật vào năm 1951. Năm 1952, ông trở thành cố vấn cho giám đốc Ban Chiến lược Tâm lý, và thành lập tạp chí Confluence. Cũng vào thời điểm đó, ông tìm cách để ứng tuyển làm điệp viên cho FBI nhưng không thành công. Tới năm 1954, ông tiếp tục lấy  thêm bằng Tiến sĩ Triết học.
Luận án tiến sĩ của Kissinger có tựa đề “Hòa bình, tính hợp pháp và trạng thái cân bằng” (Nghiên cứu về khả năng lãnh đạo của Castlereagh và Metternich). Stephen Graubard, bạn của Kissinger, khẳng định rằng Kissinger nỗ lực theo đuổi những chủ đề như vậy chủ yếu để tìm hiểu về trò chơi quyền lực giữa các quốc gia châu Âu thế kỷ XIX. Trong luận án tiến sĩ của mình, Kissinger lần đầu tiên đưa ra khái niệm "legitimacy” (tức “tính hợp pháp"), mà ông định nghĩa như sau: "Tính hợp pháp được sử dụng ở đây không nên bị nhầm lẫn với công lý. Nó không có nghĩa gì hơn một thỏa thuận quốc tế về bản chất của những thỏa thuận khả thi cũng như về các mục tiêu và phương pháp được phép của chính sách đối ngoại". Tức là, một trật tự quốc tế được tất cả các cường quốc chấp nhận sẽ được tính là "hợp pháp" trong khi một trật tự quốc tế không được một hoặc nhiều cường quốc chấp nhận là "cách mạng" và do đó nguy hiểm. Ví dụ, vào 
, các nhà lãnh đạo Anh, Pháp, Áo, Phổ và Nga đã đồng ý hợp tác trong hệ thống Hòa hợp quyền lực Châu Âu để giữ gìn hòa bình sau khi Áo, Phổ và Nga tham gia một loạt ba cuộc phân chia Ba Lan. Theo quan điểm của Kissinger, hệ thống quốc tế này là "hợp pháp" vì nó được các nhà lãnh đạo của cả năm cường quốc châu Âu chấp nhận. Đáng chú ý, cách tiếp cận ngoại giao Primat der Außenpolitik (tức Tính ưu việt của chính sách đối ngoại) của Kissinger đã cho rằng miễn là những người ra quyết định ở các nước lớn sẵn sàng chấp nhận trật tự quốc tế thì đó là điều "chính đáng" (trước các quyết định như vậy, những phản ứng của dư luận và yếu tố đạo đức bị coi là không đáng lưu tâm). Luận án này đã giúp ông giành được Giải thưởng Thượng nghị sĩ Charles Sumner, một giải thưởng danh giá được trao cho luận án xuất sắc nhất "về cách tiếp cận pháp lý, chính trị, lịch sử, kinh tế, xã hội hoặc sắc tộc, xử lý bất kỳ phương tiện hoặc biện pháp nào có xu hướng ngăn chặn chiến tranh và thiết lập hòa bình thế giới" của một sinh viên thuộc Khoa Chính phủ của Harvard. Về sau, luận án này được chuyển thành sách, xuất bản năm 1957 với tiêu đề “Một thế giới được khôi phục: Metternich, Castlereagh và các vấn đề hòa bình 1812–1822”.
Sau khi kết thúc quá trình học tập, Kissinger vẫn ở Harvard với tư cách là thành viên ban giảng dạy của Bộ Chính phủ, nơi ông giữ chức vụ giám đốc Hội thảo Quốc tế Harvard từ năm 1951 đến năm 1971. Năm 1955, ông là cố vấn cho Ban Điều phối Hoạt động của Hội đồng An ninh Quốc gia. Trong năm 1955 và 1956, ông còn là giám đốc nghiên cứu về vũ khí hạt nhân và chính sách đối ngoại tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại. Ông xuất bản cuốn sách Vũ khí hạt nhân và Chính sách đối ngoại vào năm sau. Cuốn sách chỉ trích học thuyết hạt nhân trả đũa quy mô lớn của Chính quyền Eisenhower, đã gây ra nhiều tranh cãi vào thời điểm đó khi đề xuất sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật một cách thường xuyên để giành chiến thắng trong các cuộc chiến. Cùng năm đó, ông xuất bản cuốn A World Restored (tạm dịch: Một thế giới đã phục hồi), một nghiên cứu về chính trị cân bằng quyền lực ở châu Âu thời hậu Napoléon.
Từ năm 1956 đến năm 1958, Kissinger làm việc cho Quỹ Anh em nhà Rockefeller với tư cách là giám đốc Dự án Nghiên cứu Đặc biệt. Ông giữ chức vụ giám đốc Chương trình Nghiên cứu Quốc phòng Harvard từ năm 1958 đến năm 1971. Năm 1958, ông cũng đồng sáng lập Trung tâm Quan hệ Quốc tế với Robert R. Bowie, nơi ông giữ chức vụ phó giám đốc. Ngoài giới học thuật, ông còn làm cố vấn cho một số cơ quan chính phủ và các tổ chức tư vấn, bao gồm Văn phòng Nghiên cứu Hoạt động, Cơ quan Giải trừ Vũ khí và Kiểm soát Vũ khí, Bộ Ngoại giao và Tập đoàn think tank phi lợi nhuận RAND.

5, Đường tới Nhà Trắng

Mong muốn có ảnh hưởng lớn hơn đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Kissinger trở thành cố vấn chính sách đối ngoại cho các chiến dịch tranh cử tổng thống của Nelson Rockefeller, một thành viên của nhà Rockefeller. Suốt từ năm 1960 đến 1968, ông tập trung ủng hộ các hoạt động chính trị của Rockefeller, nhưng có vẻ không mấy thành công khi Rockefeller đã liên tiếp thất bại trong cả ba kỳ tranh cử 1960, 1964 và 1968.
Bước ngoặt xảy ra vào trước kì tranh cử tổng thống 1968 không lâu. Một thời điểm nào đó năm 1967, Kissinger gặp Richard Nixon, một ứng viên tổng thống khác của Đảng Công hòa lần đầu tại một bữa tiệc do Clare Boothe Luce tổ chức. Kissinger kể rằng khi ấy ông thấy Nixon "chu đáo" hơn những gì mình mong đợi. Trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng hòa năm 1968, Kissinger một lần nữa giữ chức cố vấn chính sách đối ngoại cho Rockefeller và vào tháng 7 năm 1968 đã gọi Nixon là "kẻ nguy hiểm nhất trong số những người tranh cử tổng thống".
Ban đầu khó chịu khi Nixon giành được đề cử của Đảng Cộng hòa, nhưng Kissinger, đang tràn đầy tham vọng hướng về Nhà Trắng, đã nhanh chóng thay đổi quan điểm về Nixon. Ông liên hệ với một phụ tá chiến dịch tranh cử của Nixon là Richard Allen, nói rằng mình sẵn sàng làm bất cứ điều gì để giúp Nixon giành chiến thắng. Sau khi Nixon chính thức trở thành tổng thống vào tháng 1 năm 1969, Kissinger được bổ nhiệm làm Cố vấn An ninh Quốc gia. Theo người viết tiểu sử chính thức của ông, Niall Ferguson, vào thời điểm này Kissinger được đánh giá là "một trong những nhà lý thuyết quan trọng nhất về chính sách đối ngoại từng được Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sản sinh ra".

6, Người định hình trật tự thế giới hiện đại

Kissinger tuyên thệ nhậm chức Ngoại trưởng Hoa Kỳ vào ngày 22 tháng 9 năm 1973. Cũng từ đây, quá trình tác động tới định hướng ngoại giao của ông bắt đầu, một quá trình tác động lâu dài và sâu sắc tới nền chính trị Hoa Kỳ và thế giới nói chung, có thể được xem như là “định hình lại trật tự của thế giới hiện đại”.
Là người đề xướng chính sách “Realpolitik” (tức “chính trị thực dụng”), Kissinger đóng vai trò chủ đạo trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ năm 1969 đến năm 1977. Trong thời kỳ đó, ông đã triển khai và mở rộng quy mô của chính sách détente (tức chính sách “hòa hoãn, giảm căng thẳng” mà cụ thể ở đây là trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ với những quốc gia khác thông qua tiến trình ngoại giao). Chính sách này đã dẫn đến sự giảm bớt đáng kể căng thẳng Mỹ-Liên Xô và đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc đàm phán năm 1971 với Thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai. Cuộc đàm phán kết thúc với việc nối lại tình hữu nghị giữa Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đồng thời hình thành một liên kết chiến lược Trung-Mỹ chống Liên Xô mới. Ông cùng được trao giải Nobel Hòa bình năm 1973 với Lê Đức Thọ vì đã giúp thiết lập lệnh ngừng bắn và rút quân khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, lệnh ngừng bắn không được duy trì lâu. Lê Đức Thọ từ chối nhận giải và Kissinger tỏ ra vô cùng băn khoăn về điều đó -ông đã quyên góp số tiền thưởng của mình cho tổ chức từ thiện, không tham dự lễ trao giải và sau đó đề nghị trả lại huy chương giải thưởng của mình. Với tư cách là Cố vấn An ninh Quốc gia năm 1974, Kissinger đã chỉ đạo Bản ghi nhớ Nghiên cứu An ninh Quốc gia 200 gây nhiều tranh cãi.

6.1, Kiến tạo hòa bình với khối Cộng sản

Trong vai trò Cố vấn An ninh Quốc gia dưới thời tổng tống Hoa Kỳ Nixon, Kissinger tiên phong trong việc áp dụng triệt để chính sách détente với Liên Xô nhằm giảm nhẹ căng thẳng giữa hai siêu cường hạt nhân. Là một phần của chiến lược này, ông đã đàm phán giới hạn vũ khí chiến lược (đỉnh cao là Hiệp ước hạn chế vũ khí tiến công chiến lược SALT I) và Hiệp ước tên lửa chống đạn đạo với Leonid Brezhnev, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô đương thời. Các cuộc đàm phán về giải trừ hạt nhân chiến lược bắt đầu dưới thời chính quyền Johnson nhưng đã bị hoãn lại để phản đối cuộc xâm lược của Hiệp ước Warsaw vào Tiệp Khắc tháng 8 năm 1968.
Ban đầu, Kissinger không mấy quan tâm đến Trung Quốc khi ông bắt đầu công việc với tư cách Cố vấn An ninh Quốc gia vào năm 1969, và động lực đằng sau việc thắt chặt quan hệ với Trung Quốc lại chính là Nixon. Vào tháng 4 năm 1970, cả Nixon và Kissinger đều hứa với Tưởng Kinh Quốc, con trai của Tướng quân Tưởng Giới Thạch, rằng họ sẽ không bao giờ từ bỏ Đài Loan hay thực hiện bất kỳ thỏa hiệp nào với Mao Trạch Đông, mặc dù Nixon đã nói một cách mơ hồ về mong muốn cải thiện quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Kissinger đã thực hiện hai chuyến đi tới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào tháng 7 và tháng 10 năm 1971. Chuyến đầu tiên được thực hiện bí mật để trao đổi với Thủ tướng Chu Ân Lai, lúc đó đang phụ trách chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Trong chuyến thăm Bắc Kinh, vấn đề chính là về Đài Loan, vì  Chu Ân Lai yêu cầu Hoa Kỳ công nhận Đài Loan là một phần hợp pháp của Trung Quốc, rút ​​lực lượng Hoa Kỳ ra khỏi Đài Loan và chấm dứt hỗ trợ quân sự cho chế độ Quốc Dân Đảng. Kissinger nhượng bộ bằng cách hứa sẽ rút lực lượng Hoa Kỳ ra khỏi Đài Loan, nói rằng 2/3 lực lượng sẽ rút khi chiến tranh Việt Nam kết thúc và phần còn lại sẽ rút khi quan hệ Trung-Mỹ được cải thiện hơn nữa. Cuộc đàm phán không công khai này được xem là một hành động “đi đêm” giữa Mỹ và Trung Quốc bởi cả hai khối tư bản lẫn cộng sản, đồng thời góp phần làm rạn nứt thêm mối quan hệ vốn đã không tốt đẹp giữa hai cường quốc hành đầu phe cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc.
Vào tháng 10 năm 1971, khi Kissinger đang thực hiện chuyến đi thứ hai tới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, vấn đề về việc chính phủ Trung Quốc xứng đáng có đại diện tại Liên Hợp Quốc lại được đưa ra một lần nữa. Trước đó, vì lo ngại bị coi là bỏ rơi đồng minh, Hoa Kỳ đã cố gắng thúc đẩy một thỏa hiệp theo đó cả Trung Quốc và Đài Loan đều sẽ là thành viên Liên hợp quốc, mặc dù Kissinger gọi đó là "một hành động phòng vệ về cơ bản là thất bại". Trong khi đại sứ Mỹ tại Liên hợp quốc là George HW Bush đang vận động hành lang cho công thức "hai Trung Quốc", Kissinger đã loại bỏ những đề cập có lợi đến Đài Loan khỏi bài phát biểu mà Ngoại trưởng lúc đó là William P. Rogers đang chuẩn bị, vì ông cho rằng Đài Loan sớm muộn cũng sẽ bị loại khỏi Liên hợp quốc. Điều này đã khiến Kissinger bị chỉ trích dữ dội trong nội bộ Lầu Năm Góc.
Trong chuyến thăm Bắc Kinh lần thứ hai này, Kissinger nói với  Chu Ân Lai rằng theo một cuộc thăm dò dư luận, 62% người Mỹ muốn Đài Loan tiếp tục là thành viên Liên hợp quốc và yêu cầu ông xem xét thỏa hiệp "hai Trung Quốc" để tránh xúc phạm dư luận Mỹ. Chu Ân Lai đáp lại bằng tuyên bố của mình rằng Cộng hòa Nhân dân là chính phủ hợp pháp của toàn bộ Trung Quốc, và không thể có sự thỏa hiệp nào với vấn đề Đài Loan. Kissinger nói rằng Hoa Kỳ không thể cắt đứt hoàn toàn quan hệ với Tưởng, người từng là đồng minh trong Thế chiến II. Kissinger nói với Nixon rằng Bush "quá mềm yếu và không đủ tinh tế" để đại diện cho Hoa Kỳ một cách đúng đắn tại Liên Hợp Quốc và không tỏ ra tức giận khi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc không bỏ phiếu trục xuất Đài Loan và trao ghế của Trung Quốc trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Các chuyến đi của Kissinger đã mở đường cho hội nghị thượng đỉnh mang tính đột phá năm 1972 giữa Nixon, Chu Ân Lai và Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông, cũng như việc chính thức hóa quan hệ giữa hai nước, chấm dứt 23 năm cô lập ngoại giao và thù địch lẫn nhau. Kết quả là sự hình thành một liên minh chiến lược ngầm chống Liên Xô giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Trong khi chính sách ngoại giao của Kissinger dẫn đến trao đổi kinh tế và văn hóa giữa hai bên và thành lập Văn phòng Liên lạc tại thủ đô Trung Quốc và Hoa Kỳ, với những tác động nghiêm trọng đối với các vấn đề ở khu vực Đông Dương, việc bình thường hóa hoàn toàn quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ không xảy ra cho đến năm 1979, bởi vụ bê bối Watergate làm lu mờ những năm cuối của nhiệm kỳ tổng thống Nixon và vì Hoa Kỳ vẫn tiếp tục công nhận Đài Loan, trái với ý muốn của chính Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Vào tháng 9 năm 1989, John Fialka của Tạp chí Phố Wall tiết lộ rằng Kissinger muốn có lợi ích kinh tế trực tiếp trong quan hệ Mỹ-Trung vào tháng 3 năm 1989 với việc thành lập China Ventures, Inc., một đối tác hạn chế của Delwar, mà ông là chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc điều hành. Khoản đầu tư 75 triệu đô la Mỹ vào một liên doanh với phương tiện thương mại chính của chính phủ Cộng sản lúc bấy giờ, Tập đoàn ủy thác và đầu tư quốc tế Trung Quốc (CITIC), Thành viên hội đồng quản trị là khách hàng lớn của Kissinger Associates. Kissinger bị chỉ trích vì không tiết lộ vai trò của mình trong liên doanh khi được Peter Jennings của ABC kêu gọi bình luận vào buổi sáng sau ngày 4 tháng 6 năm 1989, cuộc đàn áp Thiên An Môn. Kissinger ủng hộ việc đàn áp biểu tình tại quảng trường của Đặng Tiểu Bình và ông phản đối các biện pháp trừng phạt kinh tế sau đó.

6.2, Chiến tranh Việt Nam

Sự ảnh hưởng của Kissinger đến các chiến dịch của Mỹ ở Đông Dương bắt đầu trước khi được bổ nhiệm làm Cố vấn An ninh Quốc gia cho Nixon. Khi còn ở Harvard, ông đã làm việc như một nhà tư vấn về chính sách đối ngoại cho cả Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao. Kissinger nói rằng: "Tháng 8 năm 1965... Henry Cabot Lodge, Jr., một người bạn cũ làm Đại sứ tại Sài Gòn, đã đề nghị tôi đến thăm Việt Nam với tư cách là cố vấn của ông. Tôi đã đến Việt Nam lần đầu tiên trong hai tuần vào tháng 10 và tháng 11 năm 1965, một lần nữa trong khoảng mười ngày vào tháng 7 năm 1966 và lần thứ ba trong vài ngày vào tháng 10 năm 1966... Lodge đã cho tôi một bàn tay tự do để xem xét bất kỳ chủ đề nào tôi chọn. Ông trở nên tin tưởng về sự vô nghĩa của những chiến thắng quân sự ở Việt Nam,... trừ khi họ mang đến một thực tế chính trị có thể sống sót sau cuộc rút quân cuối cùng của chúng tôi". Trong một sáng kiến hòa bình năm 1967, ông sẽ làm trung gian hòa giải giữa Washington và Hà Nội.
Nixon đã được bầu vào năm 1968 với lời hứa sẽ đạt được "hòa bình trong danh dự" và chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Tại chức, và được Kissinger hỗ trợ, Nixon đã thực hiện chính sách Việt Nam hóa nhằm rút dần quân đội Hoa Kỳ đồng thời mở rộng vai trò chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng hòa để có thể bảo vệ chính phủ độc lập chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Kissinger đóng một vai trò quan trọng trong việc ném bom Campuchia nhằm tiêu diệt các đơn vị QĐNDVN và Quân Giải phóng đang tiến hành các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam từ bên trong biên giới của Campuchia qua đường mòn Hồ Chí Minh.
Khi nhậm chức vào năm 1969, Kissinger ủng hộ chiến lược đàm phán hòa bình, theo đó Hoa Kỳ và Bắc Việt sẽ ký hiệp định đình chiến và đồng ý rút quân khỏi miền Nam trong khi chính phủ VNCH và Việt Nam Dân Chủ Công Hòa đồng ý hợp nhất thành một chính phủ liên minh. Kissinger nghi ngờ về lý thuyết "hợp nhất" của Nixon, tin rằng điều này sẽ mang lại cho Liên Xô lợi thế trước Hoa Kỳ và không giống như Nixon, ông ít quan tâm hơn đến số phận sau cùng của VNCH. Mặc dù Kissinger không coi Nam Việt Nam là quan trọng theo đúng nghĩa của nó, nhưng ông tin rằng cần phải hỗ trợ Nam Việt Nam để duy trì Hoa Kỳ là một cường quốc toàn cầu, tin rằng không một đồng minh nào của Mỹ sẽ tin tưởng Hoa Kỳ nếu Nam Việt Nam đã bị bỏ rơi quá nhanh.
Các cuộc đàm phán hòa bình ở Paris đã trở nên bế tắc vào cuối năm 1969 do sự cản trở của phái đoàn VNCH. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu không muốn Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, và vì thất vọng với ông ta, Kissinger quyết định bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình bí mật với Lê Đức Thọ tại Paris song song với các cuộc đàm phán chính thức mà VNCH đã không hề biết đến. Vào tháng 6 năm 1971, Kissinger ủng hộ nỗ lực của Nixon trong việc cấm Hồ sơ Lầu Năm Góc nói rằng "việc tiết lộ bí mật nhà nước" cho giới truyền thông khiến cho hoạt động ngoại giao trở nên bất khả thi.
Ngày 1 tháng 8 năm 1972, Kissinger gặp lại Lê Đức Thọ ở Paris, và lần đầu tiên ông có vẻ sẵn sàng thỏa hiệp, nói rằng các điều khoản chính trị và quân sự của một hiệp định đình chiến có thể được xử lý riêng biệt và ám chỉ rằng chính phủ của ông không còn sẵn sàng tiến hành lật đổ Thiệu như với Ngô Đình Diệm nữa. Tối ngày 8 tháng 10 năm 1972, tại cuộc gặp bí mật giữa Kissinger và Lê Đức Thọ ở Paris đã diễn ra bước đột phá mang tính quyết định trong cuộc đàm phán. Lê Đức Thọ bắt đầu với "một đề xuất rất thực tế và rất đơn giản" về một lệnh ngừng bắn trong đó người Mỹ sẽ rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Việt Nam để đổi lấy việc thả tất cả tù binh ở miền Bắc Việt Nam. Kissinger chấp nhận lời đề nghị của Lê Đức Thọ như một thỏa thuận tốt nhất có thể, nói rằng "công thức rút lui chung" phải bị loại bỏ vì nó "không thể đạt được trong mười năm chiến tranh... Chúng ta không thể biến nó thành điều kiện cho một giải pháp cuối cùng. Chúng tôi đã vượt qua ngưỡng đó từ lâu". Vào mùa thu năm 1972, cả Kissinger và Nixon đều thất vọng với việc Nguyễn Văn Thiệu từ chối chấp nhận bất kỳ loại thỏa thuận hòa bình nào kêu gọi lực lượng Mỹ rút quân. Ngày 21 tháng 10 Kissinger và đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker đến Sài Gòn để cho Nguyễn Văn Thiệu xem hiệp định hòa bình. Tuy nhiên, Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục từ chối ký hiệp định hòa bình và yêu cầu những sửa đổi rất khó chấp nhận mà chính Kissinger đã báo cáo lại với Nixon rằng điều đó là "thật điên rồ".
Mặc dù ban đầu Nixon ủng hộ Kissinger chống lại Nguyễn Văn Thiệu, nhưng HR Haldeman và John Ehrlichman đã thúc giục ông xem xét lại, cho rằng sự phản đối của tổng thống VNCH là có cơ sở. Sau đó, Nixon muốn có 69 sửa đổi trong dự thảo hiệp định hòa bình được đưa vào hiệp ước cuối cùng và ra lệnh cho Kissinger quay lại Paris để buộc Lê Đức Thọ chấp nhận. Kissinger coi 69 điều sửa đổi của Nixon là cực kì phi lý và ông biết Lê Đức Thọ sẽ không bao giờ chấp nhận chúng. Đúng như dự đoán của ông, Lê Đức Thọ sau đó tuyên bố từ chối xem xét bất kỳ điều nào trong số 69 điều sửa đổi lập tức trở về Hà Nội vào ngày 13 tháng 12 năm 1972. Kissinger lúc này đã trở nên giận dữ sau khi phái đoàn bước ra khỏi cuộc đàm phán ở Paris và nói với Nixon: "Họ chỉ là một lũ khốn nạn. Tawdry, lũ khốn nạn bẩn tưởi".
Vào ngày 8 tháng 1 năm 1973, sau trận Điện Biên Phủ trên không chấn động, Kissinger và Lê Đức Thọ gặp lại nhau ở Paris và ngay ngày hôm sau đã đạt được một thỏa thuận về những điểm chính trong dự thảo hiệp định hòa bình. Về cơ bản, chúng giống với thỏa thuận mà Nixon đã từ chối vào tháng 10, chỉ với một số ít những nhượng bộ mang tính hình thức đối với người Mỹ. Dĩ nhiên, Nguyễn Văn Thiệu một lần nữa từ chối hiệp định hòa bình. Và chỉ sau khi nhận được tối hậu thư từ Nixon mới có thể khiến tổng thống VNCH phải miễn cưỡng chấp nhận. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Kissinger và Lê Đức Thọ ký hiệp định hòa bình kêu gọi rút toàn bộ lực lượng Mỹ khỏi Việt Nam trước tháng 3 để đổi lấy việc Bắc Việt trả tự do cho tất cả tù binh Mỹ. Cùng với Lê Đức Thọ, Kissinger được trao giải Nobel Hòa bình ngày 10 tháng 12 năm 1973 vì công việc đàm phán các lệnh ngừng bắn trong Hiệp định Hòa bình Paris về “Chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam” đã ký vào tháng 1 trước đó. Theo Irwin Abrams năm 2001, giải thưởng Nobel Hòa Bình lần này là trường hợp gây tranh cãi nhất từ trước cho đến nay, và có lẽ là cả về sau. Lần đầu tiên trong lịch sử Giải thưởng Hòa bình, có hai thành viên rời khỏi Ủy ban Nobel để phản đối. Phía Lê Đức Thọ từ chối giải thưởng và nói với Kissinger rằng hòa bình chưa được lập lại ở Việt Nam nên ông từ chối nhận nó. Kissinger thì viết cho Ủy ban Nobel rằng ông đã nhận giải "với sự khiêm tốn" và "tặng toàn bộ số tiền thu được cho con cái của các quân nhân Mỹ thiệt mạng hoặc mất tích khi chiến đấu ở Đông Dương".
Vào mùa hè năm 1974, một năm sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, đại sứ quán Hoa Kỳ tại đây báo cáo rằng tinh thần của QLVNCH đã xuống mức thấp đến mức nguy hiểm và không rõ VNCH sẽ tồn tại được bao lâu nữa. Vào tháng 8 năm 1974, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua dự luật giới hạn viện trợ của Mỹ cho VNCH ở mức 700 triệu USD hàng năm. Đến tháng 11 năm 1974, Kissinger vận động Leonid Brezhnev chấm dứt viện trợ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc Việt Nam. Cùng tháng đó, ông cũng vận động Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai chấm dứt viện trợ quân sự của Trung Quốc cho miền Bắc Việt Nam. Cả hai động thái này đều thu được sự thành công nhất định khi viện trợ cho miền Bắc Việt Nam sau đó đã giảm đáng kể, nhưng không thể đảo ngược được kết quả tất yếu sớm muộn sẽ xảy ra.
Vào ngày 15 tháng 4 năm 1975, Kissinger điều trần trước Ủy ban Ngân sách Thượng viện, kêu gọi Quốc hội tăng ngân sách viện trợ quân sự cho VNCH thêm 700 triệu USD để cứu QLVNCH khi QĐNDVN đang nhanh chóng tiến vào Sài Gòn, nhưng đã bị từ chối. Kissinger vẫn khẳng định vào thời điểm đó và cho đến khi ông qua đời, rằng giá như Quốc hội chấp thuận yêu cầu của ông cấp thêm 700 triệu USD nữa thì VNCH mới có thể kháng cự được. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn chính thức thất thủ. Sau đó, Kissinger đã đề xuất trả lại giải thưởng Nobel đã nhận.

6.3, Chiến tranh Campuchia

Song song với chiến tranh Việt Nam, Kissinger cũng có sự can thiệp đáng kể đến một cuộc nội chiến khác ở khu vực Đông Dương là chiến tranh Campuchia. Cần phải nói, trong thời gian chiến tranh Việt Nam diễn ra, cuộc chiến giữa hai phe Cộng hòa Campuchia và Khmer Đỏ cũng diễn ra ác liệt tại Campuchia. Do Khmer Đỏ thuộc phe cộng sản, nên nước Mỹ đã hỗ trợ cho chính quyền Cộng hòa Campuchia, đứng đầu là tổng thống Lon Nol trong cuộc chiến lần này.
Đầu năm 1969, Kissinger phản đối kế hoạch Chiến dịch Menu (tức chiến dịch ném bom Campuchia), vì sợ rằng Nixon hành động hấp tấp và không có kế hoạch nào cho sự sụp đổ ngoại giao sẽ diễn ra sau đó. Nhưng vào ngày 16 tháng 3 năm 1969, Nixon tuyên bố vụ ném bom sẽ bắt đầu vào ngày hôm sau. Khi thấy tổng thống đã tuyên bố chắc chắn, ông lại tỏ ra ủng hộ quyết định này hơn. Sau đó, Kissinger đóng vai trò quan trọng trong việc ném bom Campuchia nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công vào VNCH từ Campuchia, cũng như chiến dịch Campuchia năm 1970 và vụ ném bom diện rộng sau đó vào các mục tiêu của Khmer Đỏ ở Campuchia. Các tài liệu được phát hiện từ kho lưu trữ của Liên Xô sau năm 1991 cho thấy việc quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến vào Campuchia năm 1970 được đưa ra theo yêu cầu rõ ràng của Khmer Đỏ và được đàm phán bởi người chỉ huy thứ nhì lúc đó của Pol Pot, Nuon Chea.
Việc ném bom Campuchia của Mỹ đã khiến khoảng 40.000 đến 150,000 người tử vong từ năm 1969 đến năm 1973, trong đó có ít nhất 5.000 dân thường. Nhà viết tiểu sử Pol Pot David P. Chandler lập luận rằng vụ đánh bom "có tác dụng mà người Mỹ muốn có, nó đã phá vỡ sự bao vây của Cộng sản đối với Phnom Penh". Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu Ben Kiernan và Taylor Owen lại cho rằng "những quả bom đã đẩy người Campuchia bình thường vào vòng tay của Khmer Đỏ, một nhóm ban đầu dường như có triển vọng mỏng manh về thành công cách mạng". Bản thân Kissinger bảo vệ những người khác về vấn đề ước tính thương vong: "... vì tôi không có khả năng ước tính chính xác cho riêng mình, tôi đã tham khảo Nhà sử học OSD, người đã cho tôi ước tính 50.000 dựa trên trọng tải bom được thả trong khoảng thời gian bốn năm rưỡi".
Chiến dịch ném bom góp phần vào sự hỗn loạn của cuộc nội chiến giữa hai phe Cộng hòa Campuchia và Khmer Đỏ, đồng thời cũng cho thấy lực lượng của tổng thống Lon Nol không thể tận dụng được sự hỗ trợ của nước ngoài để chống lại kẻ thù. Theo thời gian, chế độ của Lon Nol trở nên hoàn toàn phụ thuộc vào số lượng lớn viện trợ của Mỹ mà cuối cùng không được hỗ trợ bởi quyết tâm chính trị và quân sự cần thiết để giúp đỡ một cách hiệu quả nền cộng hòa đang bị bao vây. Thái độ của chính quyền Nixon có thể được tóm tắt bằng lời khuyên của Kissinger gửi cho chính quyền Cộng hòa Campuchia: "Đừng nghĩ đến chiến thắng; hãy giữ cho nó tồn tại". Cuộc nổi dậy cuối cùng của Khmer Đỏ để lật đổ nền cộng hòa vào đầu tháng 4 năm 1975 một lần nữa cho cả thế giới thấy được sự thất bại của Kissinger nói riêng và Hoa Kỳ nói chung.
Vào tháng 11 năm 1975, bảy tháng sau khi Khmer Đỏ lên nắm quyền, Kissinger nói với Ngoại trưởng Thái Lan: “Ông nên nói với người dân Campuchia rằng chúng tôi sẽ làm bạn với họ. Họ là những tên côn đồ giết người nhưng chúng tôi sẽ không để điều đó cản đường chúng tôi.". Trong một cuộc phỏng vấn năm 1998, Kissinger nói: "Một số nước, đặc biệt là người Trung Quốc ủng hộ Pol Pot như một đối trọng với những người Việt Nam và ít nhất chúng tôi đã dung thứ cho điều đó". Kissinger cho biết ông không tán thành điều này do nạn diệt chủng và nói rằng ông "sẽ không xử lý Pol Pot vì bất kỳ mục đích nào." Ông nói thêm: "Người Thái và người Trung Quốc không muốn một Đông Dương do người Việt Nam thống trị. Chúng tôi cũng không muốn người Việt Nam thống trị. Tôi không tin chúng tôi đã làm được gì cho Pol Pot. Nhưng tôi nghi ngờ chúng tôi đã nhắm mắt làm ngơ khi một số người những người khác đã làm điều gì đó cho Pol Pot”.

6.4, Chiến tranh Bangladesh

Theo Kissinger, chính phủ Hoa Kỳ đã ủng hộ Pakistan trong chiến tranh giải phóng Bangladesh năm 1971. Kissinger muốn ngăn chặn sự ảnh hưởng của Liên Xô với Tiểu lục địa Ấn Độ do kết quả của hiệp ước hữu nghị vừa được Ấn Độ và Liên Xô ký kết, và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (đồng minh của Pakistan và là kẻ thù của cả Ấn Độ và Liên Xô) trở thành một liên minh ngầm với Hoa Kỳ.
Kissinger đã chế nhạo những người "đổ máu" vì "người Bengal đang hấp hối" và phớt lờ bức điện tín đầu tiên từ tổng lãnh sự Hoa Kỳ ở Đông Pakistan Archer K. Blood và 20 nhân viên của mình, thông báo rằng các đồng minh của họ ở Tây Pakistan đang thực hiện "một cuộc diệt chủng có chọn lọc". Trong bức điện tín thứ hai, từ diệt chủng một lần nữa được sử dụng để mô tả các sự kiện, và hơn nữa với sự giúp đỡ liên tục cho Tây Pakistan. Như một phản ứng trực tiếp với sự bất đồng chống lại chính sách của Hoa Kỳ, Kissinger và Nixon đã chấm dứt nhiệm kỳ của Archer Blood với tư cách là tổng lãnh sự Hoa Kỳ ở Đông Pakistan và đưa ông vào làm việc tại Văn phòng Nhân sự của Bộ Ngoại giao.
Henry Kissinger cũng bị sa thải vì những bình luận riêng tư mà ông đã gửi cho Nixon trong chiến tranh Pakistan, trong đó ông mô tả Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi là một "đồ chó đẻ" và "mụ phù thủy". Ông cũng nói "Người Ấn Độ là những kẻ khốn", ngay trước chiến tranh. Kể từ đó, Kissinger đã bày tỏ sự hối hận về các bình luận của mình.

6.5, Chính sách quan hệ tại Mỹ Latin

Tháng 8 năm 1974, Hoa Kỳ tiếp tục công nhận và duy trì mối quan hệ với các chính phủ không cánh tả, dân chủ và độc tài. Liên minh vì sự tiến bộ của John F. Kennedy đã kết thúc vào năm 1973. Năm 1974, các cuộc đàm phán về một khu định cư mới cho Kênh đào Panama đã bắt đầu, và cuối cùng họ đã dẫn đến Hiệp ước Torrijos-Carter và bàn giao Kênh đào cho người Panama kiểm soát. Kissinger ban đầu ủng hộ việc bình thường hóa quan hệ Hoa Kỳ-Cuba, bị phá vỡ từ năm 1961 (tất cả các hoạt động thương mại Cuba của Hoa Kỳ đã kết thúc vào tháng 2 năm 1962). Tuy nhiên, ông nhanh chóng thay đổi ý định và tuân theo chính sách của Kennedy. Sau khi có sự tham gia của Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba trong các cuộc đấu tranh giành độc lập ở hai quốc gia châu Phi là Angola và Mozambique, Kissinger nói rằng trừ khi Cuba rút lại lực lượng còn không thì mối quan hệ sẽ không được bình thường hóa. Tất nhiên, Cuba đã từ chối.
Vào tháng 2 năm 1976, Kissinger đã cân nhắc tiến hành các cuộc không kích vào các cảng và các căn cứ quân sự ở Cuba, cũng như triển khai các tiểu đoàn thủy quân lục chiến tại căn cứ của Hải quân Hoa Kỳ tại Vịnh Guantánamo, để trả thù cho quyết định của lãnh tụ Cuba Fidel Castro vào cuối năm 1975 quốc gia mới độc lập chống lại các cuộc tấn công từ Nam Phi và phần tử cánh hữu. Trong lời khai trước Ủy ban Quan hệ Quốc tế của Hạ viện, Kissinger đã từ chối cho biết Hoa Kỳ có thể trả đũa bằng cách nào, khi nào hoặc ở đâu đối với các cuộc tấn công quân sự của Cuba trong tương lai ở Châu Phi hoặc nơi khác. Ông nói:
“Đơn giản là chúng tôi không thể ở vị trí có thể cho người Cuba biết nơi nào là an toàn để họ đi đến… Nhưng chúng tôi không thể cứ thế làm ngơ cho họ trở thành lực lượng thiết lập trật tự ở Châu Phi.”

6.6, Chính sách tại châu Phi

Vào tháng 9 năm 1976, Kissinger tích cực tham gia vào các cuộc đàm phán liên quan đến Chiến tranh Bush của Tổng thống Rhodesia. Kissinger cùng với Thủ tướng John Vorster của Nam Phi, đã gây áp lực với Thủ tướng Rhodesia Ian Smith để thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang chế độ người da đen ở Rhodesia. Với việc FRELIMO kiểm soát Mozambique và thậm chí Nam Phi rút lại sự hỗ trợ, việc cô lập Rhodesia đã gần hoàn tất. Theo cuốn tự truyện của Smith, Kissinger nói với Smith về sự ngưỡng mộ Kissinger đối với ông, nhưng Smith nói rằng ông nghĩ Kissinger đang yêu cầu ông ký vào "giấy chứng tử" của Rhodesia. Kissinger, mang sức nặng của Hoa Kỳ, và gây bất ngờ cho các bên liên quan khác để gây áp lực lên Rhodesia, đẩy nhanh sự chấm dứt của chế độ thiểu số.

6.7, Quan điểm về xung đột Ukraine - Nga

Sau khi rời khỏi nội các Lầu Năm Góc vào năm 1977, Kissinger vẫn là nhân vật nổi bật trong giới chính sách đối ngoại trong nhiều thập kỷ. Ngay cả khi đã ở tuổi cuối thập niên 90, ông vẫn tiếp tục công khai cân nhắc về các sự kiện toàn cầu, tư vấn cho các khách hàng doanh nghiệp và tư vấn riêng cho các tổng thống Mỹ. Tiêu biểu nhất cho sức ảnh hưởng này chính là những tác động của ông tới cuộc xung đột Ukraine - Nga mới bắt đầu trong thập kỷ vừa qua (và hiện tại vẫn còn đang diễn ra).
Vào ngày 5 tháng 3 năm 2014, đúng 11 ngày trước cuộc trưng cầu dân ý ở Crimea về việc liệu Cộng hòa tự trị Crimea nên chính thức tái gia nhập Ukraine hay gia nhập nước láng giềng Nga, báo The Washington Post đã đăng một bài báo của Kissinger. Trong đó, ông cố gắng cân bằng mong muốn của người Ukraine, Nga và phương Tây về một nhà nước chức năng. Ông đã đưa ra bốn điểm chính:
+ Ukraine nên có quyền tự do lựa chọn các hiệp hội kinh tế và chính trị của mình, kể cả với châu Âu;
+ Ukraine không nên gia nhập NATO;
+ Ukraine nên được tự do thành lập bất kỳ chính phủ nào tương thích với ý chí của người dân. Các nhà lãnh đạo khôn ngoan của Ukraine sau đó sẽ chọn một chính sách hòa giải giữa các vùng khác nhau của đất nước họ. Ông đã tưởng tượng một vị thế quốc tế của Ukraine giống như của Phần Lan.
+ Ukraine nên duy trì chủ quyền đối với Crimea.
Ngoài ra, Kissinger cũng viết: "Phía tây nói tiếng Ukraine; phía đông chủ yếu nói tiếng Nga. Bất kỳ nỗ lực nào của một phe của Ukraine nhằm thống trị phe kia - như mô hình đã xảy ra - cuối cùng sẽ dẫn đến nội chiến hoặc tan rã."

7, Qua đời

Ngày 29 tháng 11 năm 2023, Kissinger qua đời tại nhà riêng ở Kent, Connecticut vào  ở tuổi 100. Ông để lại vợ, bà Nancy Maginnes Kissinger, hai người con, David và Elizabeth, cùng năm người cháu. Kissinger Associates, công ty tư vấn của ông, đã công bố sự ra đi này. Thông cáo của Kissinger Associates cho biết: "Ông sẽ được an táng tại một buổi lễ riêng dành cho gia đình. Sau đó, sẽ có một buổi lễ tưởng niệm ở Thành phố New York".

7.1, Phản ứng của quốc tế

Kissinger được nhiều người ở Trung Quốc ngưỡng mộ và được Đảng Cộng sản Trung Quốc ca ngợi. Các nhân vật chính phủ trên các phương tiện truyền thông nhà nước đều đăng tải các bài viết thương tiếc cái chết của ông. Mạng xã hội Trung Quốc bày tỏ sự đau buồn lan rộng sau khi tin tức về cái chết của ông được công bố và các hashtag thần tượng Kissinger đã trở thành xu hướng được tìm kiếm nhiều nhất ở Trung Quốc. China News Service tuyên bố trong cáo phó của mình rằng "Ngày hôm nay, một người bạn cũ của nhân dân Trung Quốc, người có tầm nhìn nhạy bén và hiểu biết sâu sắc về các vấn đề thế giới, đã hoàn thành cuộc đời huyền thoại của mình". Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc, đài truyền hình nhà nước, gọi Kissinger là "nhà ngoại giao huyền thoại" và "hóa thạch sống" đã chứng kiến ​​sự phát triển của quan hệ Trung-Mỹ. Không lâu trước khi qua đời, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tuyên bố: “Nhân dân Trung Quốc không bao giờ quên những người bạn cũ, và quan hệ Trung-Mỹ sẽ luôn gắn liền với cái tên Henry Kissinger”.
Cựu thủ tướng Anh thương tiếc Kissinger. Tony Blair, cựu lãnh đạo Đảng Lao động và thủ tướng Vương quốc Anh, đưa ra tuyên bố: "Không có ai giống như Henry Kissinger... Ngay từ lần đầu tiên tôi gặp ông ấy với tư cách là một Đảng Lao động mới lãnh đạo phe đối lập vào năm 1994, đấu tranh để hình thành quan điểm về chính sách đối ngoại, cho đến lần cuối cùng khi tôi đến thăm ông ở New York và sau đó, ông phát biểu tại cuộc họp mặt thường niên của viện tôi, tôi đã rất kính phục ông... Nếu có thể ngoại giao, ở cấp độ cao nhất, trở thành một loại hình nghệ thuật, Henry là một nghệ sĩ." David Cameron tuyên bố "Ông ấy là một chính khách vĩ đại và một nhà ngoại giao được kính trọng sâu sắc, người sẽ được thế giới vô cùng nhớ đến... Ngay cả ở tuổi 100, trí tuệ và sự chu đáo của ông vẫn tỏa sáng". Boris Johnson nói: "Thế giới bây giờ cần ông ấy. Nếu từng có một tác giả của hòa bình và người yêu hòa hợp thì người đó chính là Henry Kissinger".
Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Charles Michel gọi Kissinger là "nhà chiến lược chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhất" và "một con người tốt bụng và một bộ óc thông minh, trong hơn 100 năm, đã định hình số phận của một số sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ." Tổng thống Nga Vladimir Putin đã tuyên bố trong một bức điện gửi bà Nancy, vợ của Kissinger rằng ông là một "chính khách khôn ngoan và có tầm nhìn xa". Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu nói rằng ông "có vinh dự được gặp Tiến sĩ Kissinger nhiều lần, gần đây nhất là cách đây hai tháng ở New York. Mỗi cuộc gặp với ông không chỉ là một bài học về ngoại giao mà còn là một lớp học bậc thầy về nghệ thuật quản lý chính khách. Sự hiểu biết của ông về sự phức tạp của quan hệ quốc tế và những hiểu biết sâu sắc độc đáo của ông về những thách thức mà thế giới của chúng ta đang phải đối mặt là vô song." Thủ tướng Đức Olaf Scholz tuyên bố: "Thế giới đã mất đi một nhà ngoại giao vĩ đại".
Đại sứ Chile tại Hoa Kỳ, Juan Gabriel Valdés, đưa ra một tuyên bố nói rằng ông sở hữu "sự thông minh" nhưng cũng có "sự tồi tệ sâu sắc về mặt đạo đức". Tuyên bố này được đăng lại bởi Tổng thống Gabriel Boric. Ngoại trưởng Bangladesh AK Abdul Momen nói rằng Kissinger đã làm "những điều vô nhân đạo", nói thêm rằng "lẽ ra ông ấy phải xin lỗi người dân Bangladesh vì những gì ông ấy đã làm".

7.2, Phản ứng của giới chính trị Mỹ

Thông báo về cái chết của Kissinger đã chứng kiến việc ​​cái tên của ông trở thành tâm điểm của hàng loạt luồng ý kiến trái chiều giữa ca ngợi và chỉ trích trên mạng xã hội Mỹ.
Joe Biden ca ngợi "trí tuệ mãnh liệt" của Kissinger đồng thời lưu ý rằng họ thường "bất đồng quan điểm". Cựu tổng thống George W. Bush tuyên bố: "Mỹ đã mất đi một trong những tiếng nói đặc biệt và đáng tin cậy nhất về các vấn đề đối ngoại với sự ra đi của Henry Kissinger. Tôi từ lâu đã ngưỡng mộ người đàn ông chạy trốn khỏi Đức Quốc xã khi còn là một cậu bé xuất thân từ một người Do Thái." gia đình, sau đó chiến đấu với họ trong Quân đội Hoa Kỳ". Cindy McCain, vợ góa của John McCain, viết: "Henry Kissinger luôn hiện diện trong cuộc đời người chồng quá cố của tôi. Trong khi John còn là tù nhân chiến tranh, và những năm sau đó, với tư cách là thượng nghị sĩ và chính khách. Gia đình McCain sẽ nhớ sự hóm hỉnh của ông.", quyến rũ và thông minh khủng khiếp".
Nhiều phản ứng tiêu cực về cái chết của Kissinger cho rằng các quyết định của ông trong chính phủ đã vi phạm các giá trị của Mỹ. Các thành viên Hạ viện Jim McGovern, Gerry Connolly, và Greg Casar đã đưa ra những phản ứng chỉ trích về cái chết của ông, trong đó Connolly tuyên bố rằng "sự thờ ơ với nỗi đau khổ của con người sẽ mãi mãi làm hoen ố tên tuổi và hình thành di sản của ông". Trang nhất của HuffPost gọi anh ta là "Kẻ đồ tể ở Beltway", trong khi một bài báo khác của HuffPost mô tả anh ta là "Tội phạm chiến tranh khét tiếng nhất nước Mỹ". Teen Vogue chế nhạo Kissinger với dòng chữ: "Tội phạm chiến tranh chịu trách nhiệm về hàng triệu người chết ở tuổi 100",  một tuyên bố tương tự như tuyên bố của Nick Turse của The Intercept. Một bài xã luận trên CNN của Peter Bergen có tựa đề "Christopher Hitchens đã đúng về Henry Kissinger" đã tuyên bố rằng đối với Kissinger "mục đích hầu như luôn biện minh cho phương tiện," tham khảo cuốn sách năm 2001 của Hitchens Vụ xét xử Henry Kissinger. Tạp chí xã hội chủ nghĩa Jacobin đã phát hành một tuyển tập dài bằng sách có tựa đề The Good Die Young. Lời giới thiệu của sử gia Greg Grandin lưu ý "Tất cả chúng ta hiện đang sống trong không gian Kissingerian." 
Kissinger đã được nhà bình luận bảo thủ David Harsanyi lên tiếng bảo vệ trong một bài đăng trên tờ New York Post, nơi ông tuyên bố rằng "cánh tả nhảy múa một cách kinh tởm trên mộ Kissinger vì họ ghét nước Mỹ". Tờ New York Sun cũng bảo vệ Kissinger, mô tả ông là "một trong những nhân vật đáng chú ý nhất trong lịch sử nước Mỹ".

KẾT

Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết HENRY KISSINGER - MỘT NHÀ NGOẠI GIAO ĐỊNH HÌNH TRẬT TỰ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI . Nếu bạn có thắc mắc hay cảm nghĩ nào muốn chia sẻ, thì đừng ngại ngần để lại bên dưới phần cmt nhé. Còn giờ, xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết tiếp theo.