宦海風濤翻逆浪, 人間義氣化妖氛。 誰知一念成興廢, 萬里乾坤盡是塵。
“Hoạn hải phong đào phiên nghịch lãng, Nhân gian nghĩa khí hoá yêu phân. Thùy tri nhất niệm thành hưng phế, Vạn lý càn khôn tận thị trần.”
Tại thư phòng trong Dương Phủ, Dương Huy đóng cửa suốt ba ngày. Bên ngoài, quân canh đổi gác lặng lẽ như không muốn đánh thức ngọn lửa đang cháy âm ỉ bên trong.
Trên bàn, ba phong thư, mỗi cái niêm bằng sáp đỏ, dấu triện in hình long phụng quấn nhau. Lời lẽ viết bằng loại chữ hành thảo xứ Bắc, uốn lượn như nước chảy mây trôi nhưng lẩn khuất một khí quyết liệt như gươm đã rút nửa khỏi vỏ.
Ông dừng tay, nhìn ra sân. Gió chướng Đông Bắc thổi về, mùi sắt gỉ tanh nồng. Ánh mắt ông ánh lên một tia sáng lạnh:
— Kỳ lạ thật! mọi ngày, trong thành đều vang vọng tiếng bước chân dồn dập. Sao đêm nay lại im ắng thế? Là Lã Xử Bình đã chủ quan hay hắn đang làm đại sự gì chăng?
Trầm ngâm một lúc rồi ông tặc lưới:
— Dù hắn có làm gì, thì tên cũng đã lên dây. Không thể lùi nữa. Ta không tin, hào kiệt hợp lực, lại thua con cáo già ấy.
Ông ra lệnh:
— Chuyển mật thư cho Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu, cho Phạm Mạn ở Nam Sách, cho Phong Át tại Đằng Châu.
Trà Hương, một canh giờ sau khi thư đến.
Phạm Mạn cầm thư, tay nắm chặt đến mức dấu sáp đỏ in hằn lên tay áo.
— Cuối cùng, cũng đến lúc.
Ông bước ra thềm, nhìn xuống đoàn thân binh đang chỉnh giáp:
— Lệnh cho tất cả chuẩn bị trong hai ngày. Không nói lý do. Ta sẽ dẫn quân theo đường sông Thiên Đức, hội cùng quân Trần Minh Công tại bến Dục Tú.
Một viên tướng bên cạnh hỏi nhỏ:
— Bẩm Đô Đốc, nếu dân có hỏi thì phải làm sao?
Phạm Mạn ngẩng đầu, ánh mắt như sét bổ vào trời chiều:
— Bảo dân: giữ thóc, cất lúa, cấm ai chạy loạn. Ai loan tin thất thiệt, xử như gian tế. Trà Hương không bỏ đất, không nhường dân. Khi ta trở về, hoặc là khải hoàn, hoặc là nằm dưới đất.

Tại Đằng Châu, đêm gió thổi nghiêng mái lầu.

Phạm Phong Át đọc thư xong, không nói một lời. Ông ngồi im bên án, tay cầm bầu rượu, rót một chén đầy, rồi nghiêng ra đất:
— Kính rượu cho nghĩa huynh Đinh Dự, một người liêm chính mà chết oan. Nay em mượn gươm, thay huynh đòi lại công đạo.
Ông quay lại, nói lớn:
— Gọi toàn bộ tướng soái vào sảnh nghị sự. Đằng Châu từ nay dứt đường phòng thủ, chỉ còn đường tiến đánh.
Tại thành Kỳ Bố, trong đại sảnh phủ Trần Minh Công.
Trần Lãm đứng trước bản đồ, tay chỉ vào các lộ dẫn về Cổ Loa, ánh mắt trầm ngâm. Đinh Bộ Lĩnh bước vào, giáp trụ chỉnh tề, nhưng vẻ mặt lại đầy quyết tâm.
Đinh Bộ Lĩnh quỳ xuống, thưa:
— Nghĩa phụ, lần này xuất binh đánh Cổ Loa, xin cho con đi theo. Lã Xử Bình tàn bạo, con nguyện dùng máu mình rửa sạch oan khuất cho thúc phụ và muôn dân!
Trần Lãm quay lại, ánh mắt vừa nghiêm nghị vừa ẩn chứa sự thương mến. Ông bước đến, đỡ Lĩnh dậy, nói:
— Lĩnh, ta hiểu lòng con. Nhưng lần này, con không thể đi cùng ta. Cổ Loa là hang hùm, Lã Xử Bình là kẻ đa nghi, tàn độc. Cuộc chiến này không chỉ là trận đánh, mà là ván cờ sống chết. Nếu ta thất bại, Bố Hải Khẩu sẽ không còn ai trấn giữ.
Đinh Bộ Lĩnh cau mày, giọng kiên định:
— Nghĩa phụ, con không sợ chết! Nếu cha con cùng ngã xuống, chí lớn của chúng ta sẽ thành tro bụi. Nhưng nếu con ở lại, lòng con không cam! Thiên hạ đang loạn, dân chúng lầm than, con muốn tận mắt nhìn Lã Xử Bình đền tội!
Trần Lãm đặt tay lên vai Lĩnh, ánh mắt sáng rực như ngọn lửa:
— Chí của con không phải chỉ để giết một Lã Xử Bình. Ta thấy trong mắt con ngọn lửa của bậc đế vương. Ta và Phạm Mạn, Phong Át đánh trận này vì trung nghĩa, nhưng con… con phải nhìn xa hơn. Thiên hạ không chỉ cần dẹp loạn, mà cần một người thống nhất giang sơn, chấm dứt thời chia rẽ. Nếu ta ngã xuống, con phải giữ vững Bố Hải Khẩu, chờ thời cơ. Đừng để máu thúc phụ con đổ xuống vô nghĩa.
Nói rồi, ông rút kiếm. Nghía sống lưỡi rồi nói tiếp:
— Lần này đi một là chiến thắng vinh hiển. Hai là xác phơi cỏ nội. Muôn đời mang tiếng gian tặc. Ta không thể mạo hiểm đưa con vào chỗ chết.
Đinh Bộ Lĩnh cúi đầu, hai tay siết chặt, giọng nghẹn ngào:
— Nghĩa phụ… Con hiểu rồi. Con sẽ ở lại, giữ vững đất này. Nhưng xin cha bảo trọng. Nếu cha không trở về, con thề sẽ lấy đầu Lã Xử Bình, thống nhất giang sơn, để muôn dân không còn chịu khổ!
Trần Lãm gật đầu, ánh mắt thoáng một tia tự hào:
— Tốt lắm, Lĩnh. Ta tin con. Hãy nhớ: kẻ làm đại sự không chỉ cần dũng, mà cần trí. Thời của con sẽ đến, nhưng không phải hôm nay.
Nói rồi, Trần Lãm quay lại, vung tay ra lệnh:
— Phát binh! Hội quân tại bến Dục Tú!
***
Dưới cờ hiệu thêu chữ Nghĩa của Trần Lãm, ba vạn quân hội tụ tại bến Dục Tú. Phía sau là cờ Tham Chính Đô Đốc cùng Bạch Hổ Tướng Quân bay phần phật trong gió chiến.
Quân Động Giang do Đỗ Cảnh Thạc dẫn đầu áp sát đồn Tiên Hội từ phía nam. Phong Châu dưới cờ hiệu Kiều Công Hãn, Vũ Ninh do Nguyễn Quốc Khanh, ba đạo Nguyễn Gia: Tiên Du, Phù Liệt, Tam Đái do Nguyễn Thủ Tiệp dẫn binh cùng hai em áp sát Bắc Môn từ cánh bắc. Đường Lâm do Ngô Nhật Khánh dẫn đầu áp sát Tây Môn
Dương Huy thấy các cánh quân đã vây chặt thành, quân triều đình lại không thấy ai ra chống. Trong lòng thoáng chút bất an. Nhưng cũng gạt đi mà lấy lại khí thế. Đứng trước bá quan trung nghĩa. Ông dương kiếm:
— Các vị vốn là trọng thần. Phò tá tiên vương cũng đã lâu. Nay Lã Xử Bình lại thay Dương Tam Kha nhiễu loạn triều cương, chèn ép thiên tử. Các vị, có những người quen việc binh đao. Cũng có những người lại chuyên việc triều chính. Tất thẩy tụ hợp ở đây quả là điều đáng quý. Nay, thời cơ đã điểm. Cơ hội trời cho, hãy cùng ta đi mở cửa thành cho nghĩa quân tràn vào. Lấy đầu phản tặc.
Bá quan đồng thanh hô lớn:
— RỘNG MỞ CỬA THÀNH, LẤY ĐẦU PHẢN TẶC.
Nói rồi, đoàn người kéo nhau tiến ra Bắc Môn. Đám lính gác thấy đoàn đại thần thì tay run bần bật.
Phan Tú rút gươm:
— Mau mở cửa thành. Kẻ nào trái lệnh… chém.
Lính giữ thành nhanh chống làm theo. Cánh cửa kinh thành kêu lên lạch cạch từng tiếng nặng nề.
Dương Huy lập tức ra hiệu lệnh. Ba đạo Tiên Du, Phù Liệt, Tam Đái tiên phong, mở đợt đánh thẳng vào kinh sư.
Cửa thành Cổ Loa vốn kiên cố, nhưng đêm đó, cổng chính lại bật mở. Ba đạo quân tiến vào như nước lũ tràn đê. Trống trận vang trời. Cờ xí rợp đất.
Nguyễn Thủ Tiệp cưỡi voi, dẫn tượng binh đi đầu, bên tả có Nguyễn Khoan, bên hữu là Nguyễn Siêu cưỡi chiến mã tiếp ứng. Cả ba như hổ xuống đồng, vượt qua chín vòng tường cao, đánh thẳng vào trung tâm thành nội. Quân thủ thành tuy chỉ vài ngàn, nhưng chín vòng thành đã tạo ra thế thủ khó vượt. Quân Nguyễn Gia cũng tổn thất không ít.
Trong thành, dân chúng Cổ Loa hoảng loạn chạy trốn, kẻ ôm con, người dìu mẹ, tiếng khóc vang vọng khắp ngõ nhỏ.
Nhưng dù quân triều đình có chống trả quyết liệt đến đâu, sức ép của Nguyễn Gia cũng không thể ngăn chặn. Chẳng mấy chốc, đã áp sát hoàng cung.
Thấy Nguyễn Gia thắng lớn. Quân triều đình cũng chẳng có bao nhiêu. Những tưởng sẽ có huyết chiến, nhưng lại vô cùng thuận. Dương Huy cau mày hỏi các bá quan :
— Kỳ lạ, sao có thể dễ dàng đến thế?
Vừa dứt lời. Cổng thành Nam Môn cũng bật mở, cánh quân Động Giang tràn vào. Cảnh Thạc vừa vào thành đã ra lệnh cho Đỗ Thanh Long:
—  Thanh Long tướng quân, mau đem quân trấn thủ Tây Môn. Kẻ nào dám công hạ, giết không tha.
Y quay sang Trần Hùng, Văn Quý ra lệnh:
— Bạch Hổ tướng quân. Ngươi cũng ở lại, đống cổng, trấn thủ Nam Môn. Huyền Vũ tướng quân đem quân ra trấn giữ Đông Quan, kẻ nào xâm phạm, cứ giết không tha.
Ra lệnh cho hai tướng xong, y lại nói tiếp :
— Chu Tước. Dẫn toàn quân theo ta, tiến về hoàng cung.
Thủ Tiệp cùng hai anh em vừa xông vào hoàng cung, bỗng đâu tiếng hô vang vọng từ phía nam. Quân Đỗ Cảnh Thạc tiến tới với khí thế hừng hực. Không nói không rằng, đánh vào quân của Nguyễn gia.
Binh sĩ Nguyễn gia vừa mới thở được một chút thì bị đánh úp. Toàn quân hoảng loạn, mặc cho quân Động Giang đang sung sức chém giết.
Thủ Tiệp, Nguyễn Khoan, Nguyễn Siêu nhìn ra. Thấy quân mình đang bị tàn sát thì mặt mày biến sắc.
Nguyễn Khoan thấy cờ hiệu Đỗ Cảnh Công thì gầm lên:
— Thằng giặc một tai Cảnh Thạc lật mặt rồi. Thất phu gian trá.
Nguyễn Siêu thấy thế liền ra củng cố trận tuyến nhưng bất thành. Đại thế đã không còn, bèn bất lực quay về nói với Thủ Tiệp:
— Anh hai, chúng khỏe mạnh. Ta mệt mỏi, không thể chống.
Thủ Tiệp đứng xững người từ đầu, tay xiết chặt chuôi kiếm. Giọng vang vọng như sấm :
— Gian tặc một tai, thất phu bội ước. Hắn nhờ ta giúp rồi đâm ta một nhát thật đau…
Dương Huy đứng cùng các đại thần liền lên tiếng:
— Cơ sự thế này, ta cũng không lường trước được. Tướng quân mau rút, bảo toàn tánh mạng. Nếu Cảnh Thạc đánh tới… ta e, ba anh em ngài cũng vong mạng.
Thủ Tiệp nghe vậy lại hỏi :
— Còn ngài và các đại thần thì sao ?
Huy đáp :
— Ngài chớ lo. Thằng giặc ấy có muốn làm vua thì cũng không thể giết đại thần. Ta còn có Quốc Khanh, dẫn quân Vũ Ninh ở ngoài Bắc Môn.
Thủ Tiệp gật đầu rồi dẫn tàn quân chạy ra cửa Bắc.
Thế nhưng, khi vừa ra thành. Ba anh em lại bị quân Phong Châu vây đánh. Tổn thất quá nửa. Nguyễn Khoan cầm binh tinh nhuệ, toan mở đường máu nhưng gặp phải Hoàng Định quá dũng mãnh.
Tình thế vô cùng nguy ngập. Thủ Tiệp lại ngửa mặt lên trời than :
— Trời hại ta rồi. Chẳng nhẽ Nguyễn gia tuyệt đường nơi đây sao?
Nguyễn Siêu lay vai anh mà nói:
— Anh hai chớ buông tay. Em cùng các tướng sẽ mở đường máu giúp anh.
Thủ Tiệp lắc đầu:
— Trời muốn diệt ta rồi, ta thật ngu dốt khi không đề phòng hai tên giặc ấy.
Ba anh em ôm nhau, nước mắt lưng trồng giữa vòng tròn phòng thủ. Bên ngoài là quân Phong Châu đang xiết chặt. Tưởng như tình thế đã định.
Thế nhưng, một đạo tập kích hậu quân Phong Châu. Tiên phong là Nguyễn Quốc Khanh, cờ hiệu Vũ Ninh. Phía sau là Dương Huy, đã kịp đuổi theo vì sợ Thủ Tiệp bị Công Hãn truy sát.
Dương Huy lớn tiếng mắng Kiều Công Hãn:
— Tiểu nhân. Ngươi đối đãi với kẻ tiên phong diệt giặc như vậy sao?
Công Hãn cười lớn :
— Người không vì mình, trời chu đất diệt. Chẳng phải ngài cũng muốn diệt họ Nguyễn sao?
Ba anh em đang bị vây khốn, thấy quân ứng cứu thì vội lên ngựa phản kích. Thế nhưng, khi nghe Công Hãn nói vậy.
Thủ Tiệp lại quắc mắt nhìn Dương Huy:
— Dương đại nhân. Sự tình là thế thật sao ?
Dương Huy nói lớn với Thủ Tiệp:
— Chớ mắc mưu gian tặc. Ta cũng chẳng ngờ Công Hãn lại trở mặt. Ta đến để cứu ngươi.
Nói rồi, Huy phất tay. Quốc Khanh dẫn quân tràn vào mở đường máu. Công Hãn thấy vậy, liền nói với Hoàng Định:
— Cứ giao tranh thế này thì quân ta tổn thất không ít. Mau cho quân tiến vào Bắc Môn.
Quân Phong Châu tạm rút về Gia Lương. Ba anh em Nguyễn Gia được cứu. Thu nhặt lại khá nhiều tan quân.
Sau trận chiến Thủ Tiệp đối diện Dương Huy. Nhẹ giọng hỏi:
— Ngài cũng định giết ta sao?
Dương Huy cười buồn đáp :
— Ta cũng như ngài. Cũng bị chúng lừa, nếu ta muốn giết ngài thì sao phải liều mạng cứu ngài chứ?
Thủ Tiệp hít một hơi sâu, rồi nhả ra từng câu run run :
— Ta cũng vì tin ngài mà tới đây. Nào ngờ bị lũ gian tà đánh úp. Thôi thì từ nay. Nguyễn gia sẽ không can dự vào chuyện các vị nữa.
Tiệp cúi đầu, chắp tay :
— Xin cáo từ.
Dương Huy áy náy:
— Lệnh công chờ đã.
Tiệp dừng lại, Dương Huy nói tiếp:
— Ngài bị đám kia tập kích, cũng chẳng phải là họa hoàn toàn.
Tiệp cười buồn:
— Không phải họa thì là gì? Ta cất công tới đây, tốn biết bao nhiêu tiền của, công sức. Anh em binh sĩ tử trận không ít. Ngài nói không phải họa, vậy là gì?
Huy tiến tới, nhẹ giọng:
— Ta đã đảo một vòng quanh Hoàng cung. Họ Lã đã rời đi. Mang cả ấu chúa, hậu cung. Chẳng biết hắn có mưu đồ gì. Nhưng chắc chắn là gian kế. Nếu ngài ở lại kinh sư, cũng bị lôi vào mưu kế đó.
Thủ Tiệp cau mày:
— Vậy ngài không sợ ư?
Huy cười đáp:
— Ta đã chuẩn bị hai đạo quân, gần như dốc toàn binh đến đây. Ngoài đạo này ra, còn một đạo ở bến Hoàng Giang. Nếu có động cũng dễ dàng ứng biến.
Tiệp gật đầu:
— Đa tạ Dương đại nhân đã chỉ điểm. Ta xin phép cáo lui.
Huy chắp tay đáp lễ. Rồi lặng người nhìn quân Nguyễn Gia cùng ba anh em rời đi.
Cho đến khi đoàn quân ấy khuất dần trong màn đêm. Huy vẫn đứng đó một lúc lâu, rồi Huy phất tay:
— Lệnh cho quân ở bên Hoàng Giang hội quân, vào thành.
***
Phía Dục Tú. Trần Lãm thấy trong thành vang vọng tiếng chém giết. Phạm Phong Át toan dẫn quân đánh vào Đông Quan.
Trần Lãm ngăn lại :
— Cổng thành đã vỡ, quân các trấn đã nhập thành. Quá dễ dàng, e là có gian kế. Chớ manh động.
Vừa dứt lời. Một thám mã về báo :
— Bẩm Minh Công, các trấn đã áp sát hoàng cung. Không tìm thấy Lã Xử Bình. Nhưng họ lại quay ra đánh nhau.
Trần Lãm lắc đầu :
— Cuối cùng lũ hổ giấy này cũng rơi vào rọ. Cái rọ mà Lã Xử Bình đã giăng…
Phạm Mạn khó hiểu :
— Bá phụ nói vậy là sao? Đã khổ cực đem thiên binh vạn mã tới đây. Chẳng lẽ lại không làm gì?
Trần Lãm điềm tĩnh đáp :
— Lã Xử Bình là ai? Hắn là tham mưu, nay đã là thừa tướng đương triều. Hắn là kẻ hiểu thấu nhân tâm. Trước một kinh thành trống hoắc. Các đại tướng mình đầy công trạng, ai mà chẳng nổi dã tâm?
Phạm Phong Át nóng nảy hỏi :
— Không đánh thì ta tới đây làm gì? Bá phụ, con gái ta và ấu chúa đang ở trong thành, chẳng may có mệnh hệ gì thì sao?
Trần Lãm thở dài:
— Không đâu, hắn đã rời thành. Con nghĩ họ Lã vẫn để ấu chúa trong cung sao? Nếu ta lui quân, binh sĩ có thể mệt mỏi. Nhưng nếu ta tiến, sẽ rơi vào hiểm địa. Bị cuốn vào ván cờ mà họ Lã đã sắp đặt
Lãm lặng một lúc, Phong Át vẫn hoài nghi. Phạm Mạn bỗng lên tiếng:
— Đám đại tướng kia xem ra cũng không khác họ Lã, chẳng qua là không có cơ hội. Để ấu chúa trong cung, khác nào dâng mồi chó sói ?
Phong Át dần tỉnh ngộ :
— Hiểu rồi, vậy phải tìm họ Lã, cúu lấy ấu chúa và thái hậu.
Trần Lãm lắc đầu :
— Thiên hạ rộng lớn, Lã Xử Bình lại thâm độc. Biết tìm nơi đâu? Cứ rút quân rồi nghe ngóng. Chờ thơi cơ ra tay thôi.
Nói xong. Ông ra lệnh cho toàn binh dở trại, lui quân.
Phạm Phong Át còn hậm hực nhưng vẫn đành phải dẫn quân lui về.
***
Kiều Công Hãn đem quân tiến vào Bắc Môn, cho Hoàng Định trấn giữ. Rồi y sai Phan Hiếu cho quân chia chiếm lĩnh các cổng Đông, Tây, Nam. Còn y thì tiến thẳng tới Hoàng Cung.
Khi quân Phong Châu tới Tây Môn thì nơi này đã bị quân Động Giang chiếm giữ. Không thể đột phá.
Phan Hiếu nói với thuộc tướng:
— Động Giang đã ra tay trước. Nam Môn chắc đã bị hắn chiếm, mau theo ta chiếm Đông Quan.
Tú dẫn binh tiến về Đông Quan thì chạm mặt quân Động Giang do Văn Quý chỉ huy. Hai bên vừa chạm mặt đã lườm nhau.
Phan Hiếu lên tiếng trước:
— Tướng kia là ai? Định làm gì?
Văn Quý cười nhẹ đáp:
— Bổn tướng Văn Quý, thượng tướng Động Giang, phụng lệnh Đỗ Cảnh Công. Tới đây tiếp quản Đông Quan.
Phan Hiếu chỉa kiếm quát:
— Quân giặc một tai. Định chiếm Cổ Loa làm đất riêng?
Văn Quý nghe vậy liền sôi máu:
— Tiểu tướng. Ăn nói cho cẩn thận. Chủ ngươi, trước thì bất hiếu, nay lại bất trung. Còn dám cao giọng gọi người khác là giặc. Thật nực cười lắm thay.
Dứt lời. Hai bên lao vào đánh nhau. Tiếng giao tranh làm huyên náo cả góc đông kinh thành.
Người chém, kẻ đâm. Thay nhau dành giật lộ Đông Quan. Máu nhuộm cả một mảng, bắn lên tường thành. Lửa khói như đang nuốt chửng cả một vùng.
***
Dương Huy muốn vào thành. Nhưng Bắc Môn đã bị Hoàng Định khóa chặt, không thể đột phá. Một thám mã báo tin :
— Bẩm đại nhân. Lộ Đông Quan đang giao chiến. Cửa thành vẫn mở, chưa ai chiếm được.
Dương Huy sáng mắt. Ra lệnh :
— Hay. Mau cấp tốc báo cho Phan Phụng, đem quân từ bến Hoàng Giang. Cùng ta chiếm Đông Quan.
Hai đạo quân tiến thẳng tới Đông Quan. Lúc này, Phan Hiếu cùng Văn Quý đang giao chiến ác liệt. Bỗng ngoài cổng thành. Một bóng người cưỡi ngựa, dương kiếm. Phía sau là trùng trùng lớp lớp quân binh. Ánh đuốc hắt lên cờ Hiệu Vũ Ninh bay phấp phới. Nguyễn Quốc Khanh hô to :
— Giết hết. Đám phản tặc này, không để kẻ nào sống.
Hàng hàng lớp lớp quân tiến vào cổng thành. Tựa như nước lũ, cuốn phăng đám quân Phong Châu lẫn Động Giang. Kỵ binh Vũ Ninh tiên phong đột kích. Ngựa hí vang trời, hai cánh quân nọ bị cuốn phăng như cỏ rác.
Phan Hiếu, Văn Quý đang tử chiến thì lại bị đánh úp. Chẳng biết phải làm sao. Cứ thế trơ mắt nhìn quân mình bị bẻ nát từng mảng.
Hai tướng bèn không nỡ mà cho quân rút lui.
Xong trận, Dương Huy cầm kiếm. Cưỡi ngựa tiến vào. Bước qua những xác chết, vũng máu đọng đỏ thắm.
Ông trầm giọng:
— Quốc Khanh giữ Đông Quan. Còn lại, theo ta tiến về hoàng cung.
***
Phía Tây Môn. Ngô Nhật Khánh khi thấy cờ Động Giang đã dựng. Biết rằng thành đã bị chiếm. Bèn cho quân tiến tới.
Thấy Đỗ Thanh Long đứng trên cổng thành. Y nói lớn:
— Mở cổng thành, Ngô Lãm Công tới rồi đây.
Thế nhưng, đáp lại hắn là trận mưa tên. Binh lính hàng đầu trúng tên, gục xuống như rạ. Ngô Nhật Khánh cũng bị trúng tên vào vai. Hắn đau đớn chửi ầm lên.
Thanh Long chỉ đáp lại hắn một câu:
— Ngô Lãm Công, chúa ta có lệnh: Kinh thành đã đổi chủ. Kẻ nào xâm phạm, giết không tha. Mời ngài lui quân.
Nhật Khánh chỉ lên mặt thành, mắng :
— Giặc một tai. Chúng bay không bằng thú vật, lật lọng gian trá.
Thấy Trần Hùng lại sai quân dương cung. Hắn liền ra lệnh lui binh.
***
Lã Xử Bình cùng Ngô Xương Xí cưỡi chiến thuyền, nay đã tới Hàm Giang. Cách An Lão Trang không xa nữa.
Nhận được tin Cổ Loa đã bị chiếm. Lã Xử Bình cười lớn:
— Cá đã cắn câu rồi. Xem ra, ta không nhìn nhầm bọn chúng.
Hắn nhìn sang ấu chúa, hạ giọng:
— Bệ hạ, lần này đánh An Lão Trang. Mong người ra mặt. Võ Trung còn trẻ, mong rằng ngài sẽ lập công. Để chứng minh cho thiên hạ thấy, ngài không phải là loại vua ngu si.
Dứt lời, hắn trừng mắt. Ngô Xương Xí cũng giật mình đáp:
— Trẫm… Trẫm sẽ không làm thừa tướng thất vọng.
Họ Lã lại cười lớn:
— Tốt lắm, phải như vậy mới đúng.
Ngọc Dung Thái Hậu thấy con run sợ liền tiến lại, nắm lấy tay con an ủi. Nàng chỉ dám tỏ ra vỗ về, chẳng dám nói một lời.
Bình thấy vậy lại lạnh giọng:
— Thái hậu bảo bọc như thế, chẳng trách bệ hạ lại yếu nhược. Nhìn Võ Trung đi. Nó chỉ mới mười lăm tuổi mà đã dám tập hợp binh mã, cát cứ tại thực ấp. Còn bệ hạ đã mười bảy tuổi mà vẫn bám váy đàn bà. Thật nực cười quá thể.
Hai mẹ con nhìn hắn. Ánh mắt đầy căm hận mà không thể phản kháng. Ngô Xương Xí nắm chặt tay, gân xanh nổi lên như muốn bật máu. Ngọc Dung thấy vậy thì nhìn con, lắc đầu. Ý ra hiệu "Đừng mạnh động". Xương Xí cũng khẽ gật đầu.
Bình vẫn đứng nhìn ra cửa thuyền. Tay vuốt râu, tay cầm chén trà. Hắn lại nói:
— Khi thuyền cập bến. Ta sẽ cho quân dựng trại, cũng cho quân dò đường. Bệ hạ chỉ cần dẫn quân tới.
Hắn quay lại nhìn thẳng vào Xương Xí:
— Cái trang nhỏ ấy, không có thành quách vững vàng. Cũng chẳng có công sự kiên cố. Muốn hạ, chẳng phải quá dễ dàng sao?
Xương Xí gật đầu:
— Trẫm hiểu rồi. Mọi chuyện, tùy ý khanh sắp xếp.
***
Ngay sau khi tập kích quân Nguyễn Gia, Đỗ Cảnh Thạc đã chiếm hoàng cung.
Đinh Liễn liền ra tiếp đón, miệng cười, chắp tay cung kính:
— Cuối cùng Đỗ Cảnh Công cũng công thành, danh toại. Hậu bối chờ ngài đến mòn con mắt.
Cảnh Thạc nheo mày:
— Kinh thành biến loạn. Sao không về với cha ngươi? Ở đây làm gì?
Liễn lại cúi đầu, lễ phép:
— Liễn tuy còn nhỏ nhưng không phải phường mù điếc. Thiên hạ này, ai sánh bằng Cảnh Công? Dù có thể quay về bên thân phụ. Nhưng phò tá minh chủ là lẽ thường. Ai cũng phải làm vậy.
Cảnh Thạc sáng mắt, vội đặt tay lên vai Liễn. Mặt mày hớn hở:
— Cháu nói minh chủ, là chỉ ta sao?
Liễn nắm lấy tay Cảnh Thạc, thâm tình nói:
— Nếu không chê, cho Liễn đây gọi một tiếng bá phụ. Thực sự, chỉ có ngài mới khiến cháu đây ngưỡng mộ.
Thạc cười lớn, xoa đầu Liễn:
— Cháu ngoan, bá phụ sẽ không bạc đãi cháu đâu.
Liễn cúi đầu:
— Phụng sự anh hùng như bá phụ. Ấy là phúc phần của cháu. Cha sao sánh bằng ngài? Thiết nghĩ, không sớm thì muộn. Ông ấy cũng sẽ quy phục bá phụ. Sao bá phụ không nhân lúc này mà xưng vương?
Thạc lại cười lớn rồi trầm ngâm:
— Ta e là, lòng dân không phục.
Liễn lại nói:
— Dân không phục là chưa thấy cái đức của bá phụ. Mấy nay, kinh thành sơ xác vì họ Lã. Hắn hà khắc, bất lương. Khiến dân chúng đói khổ.
Liễn dừng một nhịp, đưa mắt nhìn Thạc. Thấy Thạc đang lắng nghe mình. Cậu nói tiếp:
— Bá phụ, sao không lập tức mở quân lương mang theo. Phân phát cho dân? Khi ấy, ngài lên ngôi. Chẳng khác nào thiên mệnh vậy.
Thạc tuy mở cờ trong bụng nhưng vẫn cau mày:
— Để ta xem kho lương trước đã.
Liễn cản lại:
— Bá phụ không cần phải cất công tới kho đâu. Cháu đã chuẩn bị hết rồi.
Cậu nhìn sang Hộ Bộ Thị Lang, Lý Tư rồi khẽ gật đầu. Lý Tư tay cầm hai quyển sổ dâng lên:
— Bẩm Đỗ Cảnh Công, đây là sổ sách lương thảo, ngân khố. Mời ngài xem qua.
Sổ sách còn mới tinh, phảng phất mùi mực. Trên đó niêm dấu đỏ chót. Thạc nhận lấy, lật dở từng trang. Càng xem, mắt Thạc càng sáng.
Đinh Liễn cất lời :
— Bá phụ xem. Sổ sách chỉ mới niêm tháng trước, chữ còn tươi nét.
Thạc vừa đọc vừa gật đầu:
— Quả thật, vàng bạc, lúa thóc dồi dào quá.
Liễn đáp:
— Lã Xử Bình nghe uy danh bá phụ, đã trốn chạy. Khi ấy kinh thành còn đủ đầy, chưa bị giặc quấy. Nay bá phụ là chủ kinh sư. Kho này, là của bá phụ.
Thạc cười khà, gấp sổ lại, vỗ đùi:
— Đủ nuôi quân, nuôi dân! Trời đã giao cơ nghiệp cho ta. Hà cớ gì không ứng thiên mệnh?
Thạc dương mắt nhìn Đinh Liễn một hồi lâu, rồi hắn nắm lấy hai vai cậu:
— Cháu đúng là tài giỏi. Sao ta không nghĩ tới chứ? Chiếm được hoàng cung rồi thì ngân khố, kho lương là của ta. Quân lương ta mang theo cũng sắp mốc meo cả, vậy thì đem cho dân.
Nói đoạn, hắn vỗ vào vai Liễn rồi tấm tắc:
— Đúng là thiếu niên xuất anh hùng. Đa tạ cháu đã cho ta kế này.
Nói rồi. Cảnh Thạc ra lệnh cho ba quân:
— Tập hơn dân chúng, dùng quân lương. Phân phát cho dân.
Liễn nghe vậy, nhìn đi nơi khác. Miệng nở một nụ cười khó hiểu.
Trời vừa sáng. Dân đã tụ tập đông kính Ngọ Môn. Cảnh Thạc đứng giữa hai hàng lương thảo.
Y tháo mũ giáp, cất lời vang vọng:
— Bá tánh đã chịu khổ dưới tay họ Lã. Ta ứng thiên mệnh, hôm nay xin mang chút lương thảo mang từ Động Giang. Xin bà con nhận lấy tấm lòng này.
Dân chúng liền đồng thanh:
— Cảnh Công rộng lượng. Đa tạ Cảnh Công.
Thạc nghe vậy mừng lắm. Y biết dân đã dần ngả về mình. Mặt mày tươi tắn hẳn.
Xong việc. Y triệu gọi thuộc tướng, quan lại đến điện Triều Minh.
Y đứng trước long ỉ, dỗng dạc lên tiếng:
— Họ Lã đã chạy, ấu chúa cũng bỏ kinh sư. Nay ta xưng vương, các vị thấy hợp chăng?
Các quan xôn xao, vài người mặt tối sầm lại. Đại thần Thị Lang Bộ Lễ Lý Văn Tự toan đứng ra. Đinh Liễn vội níu vạt áo kéo lại. Cậu lắc đầu ra hiệu.
Văn Quý lên tiếng:
— Bẩm chúa công. Nay ngài là chủ hoàng cung. Không phải vua thì là gì? Kẻ nào không thuận, mạt tướng sẽ một kiếm, chém chết kẻ đó.
Bá quan nghe vậy, mặt mày biến sắc. Không ai dám lên tiếng phản đối.
Cảnh Thạc cười lớn:
— Tốt, vậy thì ta không thể chối từ được nữa rồi.
Đinh Liễn bước ra khỏi hàng, lên tiếng:
— Bệ hạ sáng suốt. Hậu bối xin chúc mừng bệ hạ. Xin bệ hạ hãy chọn vương vị.
Cảnh Thạc lại cười:
— Cháu ta. Chớ khách sáo.
Nói rồi y nghiêm mặt:
— Thiên hạ gọi ta là độc nhĩ tướng quân. Ý châm chọc, cho ta là kẻ cụt tai. Thế nhưng, ta lại thích cái tên này. Một tai cũng đủ nghe thấu thiên hạ. Vậy, ta sẽ lấy vương hiệu là Độc Nhĩ Đại Vương.
Các tướng cùng Đinh Liễn quỳ xuống đồng thanh:
— Độc Nhĩ Đại Vương vạn tuế !
Các quan đang bối rối thi binh sĩ hai bên trừng mắt. Khiến họ vô cùng khiếp sợ, bèn quỳ xuống đồng thanh theo.
Hôm sau, trước Ngọ Môn hoàng cung. Dân chúng đã đứng chật kính trước cổng. Văn Quý, tay cầm chiếu chỉ. Đọc lớn:
— Bố cáo thiên hạ. Trẫm, họ Đỗ. Húy Cảnh Thạc. Nay phụng thiên ý, lên ngôi đại vương. Từ nay, nước Nam đổi chủ. Hiệu Độc Nhĩ Đại Vương. Chiếu này ban xuống, thiên hạ nghe mà kính. Bá tánh thấy mà trung. Khâm Thử !
Dân chúng bối rối nhìn nhau. Tuy họ được Cảnh Thạc cứu đói, nhưng xưng vương là nghịch vua, tội chết cả họ… Hắn có khác gì họ Lã đâu. Tiếng xì xào, tiếng bỉ bôi vang lên. Khiến Văn Quý phải mang quân bỏ vào trong cung.
***
Cảnh Thạc vừa xưng vương thì đắc chí lắm. Y còn cho người giăng cờ hiệu Độc Nhĩ Đại Vương khắp các cửa vào hoàng cung. Ban tước phi cho các vợ, ban tước hoàng tử cho Đỗ Mẫn, Đỗ Thanh. Ban tước công chúa cho các con gái. Nhìn không khác một triều đình.
Thế nhưng trưa hôm ấy. Đến giờ dùng bữa mà chờ mãi không thấy ngự thiện phòng mang cơm. Y nổi giận:
— Đã quá giờ trưa, sao giờ này không thấy Ngự Thiện Phòng báo?
Nói rồi, y đích thân đến ngự thiện phòng.
Bước vào bếp. Y nổi giận đùng đùng:
— Các ngươi không nấu nướng được, vậy đem chặt hết tay đi.
Quan ngự trù quỷ xuống bẩm:
— Bệ hạ, xin tha tội. Quân lương đã ban cho dân hết, lấy gì để chúng thần nấu?
Thạc nhướn mày:
— Sao không lấy lương từ quốc khố?
Ngự trù lên tiếng:
— Bẩm bệ hạ, Hộ Bộ Thị Lang không thấy đâu, phủ nội vụ cũng không có ai, làm sao hạ thần dám…
Thạc hỏi các quan:
— Hộ Bộ đi đâu?
Ai nấy cũng lắc đầu tỏ ý không rõ. Thạc hừ lạnh một tiếng rồi ra lệnh:
— Người đâu? Bắt tên thị lang ấy, chém đầu thị chúng. Ngự trù dẫn quân binh, đến kho lương. Kẻ nào cản, giết không tha.
Nhưng Hộ Bộ Thị Lang cùng các quan đã trốn từ tối qua. Phủ nội vụ không còn bóng người, lật tung cả hoàng cung lên cũng không thấy.
Cảnh Thạc giận tím tái mặt mày. Đang đi tới đi lui thì Văn Quý vào báo:
— Bẩm đại vương. Kho lương, ngân khố không có lấy một hạt gạo, cắc bạc nào.
Thạc trợn tròn mắt:
— Sao lại có chuyện đó?
Nói rồi, y dẫn người đích thân vội vã tới kho.
Đứng trước cửa kho, không có lính canh nào. Cửa mở toang, bên trong mạng nhện giăng đầy. Bước vào, một lớp bụi thốc lên, khiến y họ sặc sụa. Y tiến tới hàng chum gạo, dở ra thì thấy toàn cát. Y bốc lên một nắm, từ từ bóp mạnh. Cát luồn theo kẽ tay chảy thành dòng.
Tay y run rẩy, sắc mặt bàng hoàng. Y nhắm mắt, rồi bất chợt đạp mạnh vào chum trước mặt, chum ngã xuống, rơi vỡ tan. Trong đó không có hạt gạo nào, chỉ toàn cát là cát văng tung tóe. Y thuận tay, vác ghế đập vào hàng chum trước mặt. Làm toàn bộ vỡ nát. Cát đổ xuống như lòng y đang tan vỡ.
Y lại quay sang kho bạc. Trong các thùng chứa, toàn đá sỏi. Y lục lọi vài thùng, cũng chẳng thấy cắc bạc, lượng vàng nào.
Thạc quát lớn:
— Mau dẫn Đinh Liễn tới đây.
Binh lính chưa đi, Liễn đã bước vào. Cậu nhanh nhảu hỏi:
— Bệ hạ, có chuyện gì thế?
Thạc trừng mắt đỏ au, mắng:
— Ngân khố mà ngươi nói dồi dào đây sao? Người đâu, lôi nó ra chém đầu cho ta.
Liễn vội vàng biện minh :
— Bệ hạ chớ nóng nảy làm ảnh hưởng tới long thể. Hạ thần thực ra không biết gì. Cũng là bị Bộ Hộ lừa như đại vương. Xin đại vương minh xét.
Cảnh Thạc mặt đang tím tái, nghe vậy cũng thấy đúng. Y hít một hơi sâu, kìm giận. Nhẹ giọng:
— Ngươi nói cũng đúng. Thiếu chút nữa ta đã giết nhầm.
Rồi Thạc lại giận gầm lên:
— Lũ Bộ Hộ chó má, dám lừa bổn vương.
Liễn tiến lại gần, chắp tay cung kính:
— Xin bệ hạ bớt giận. Ta nên nghỉ cách, nếu không triều đình nguy mất.
Vừa dứt lời, tiếng xì xào ngoài hoàng cung vọng vào. Cảnh Thạc hỏi:
— Có chuyện gì ngoài đó thế?
Một tên lính báo:
— Bẩm bệ hạ, dân chúng lại kéo tới để xin lương.
Thạc nghe vậy thì trầm ngâm một lúc lâu. Rồi y ghé sát tai Văn Quý nói nhỏ gì đó.
Xong rồi quay ra lẩm bẩm : "Chỉ còn cách đó thôi… Chỉ còn cách đó thôi."
***
黑白同塵心未定, 榮枯如夢事常新。 長空一鏡無塵垢, 照見人間萬面人。
“Hắc bạch đồng trần tâm vị định, Vinh khô như mộng sự thường tân. Trường không nhất kính vô trần cấu, Chiếu kiến nhân gian vạn diện nhân.”
Sử quán bình:
Bấy giờ Cổ Loa rỗng thành, mà lòng người thì không rỗng. Chư trấn kéo binh, xưng là phạt gian thần, nhưng vừa vào cửa đã lộ dã tâm, kiếm chưa nhuộm máu Lã Xử Bình, đã vội chém lẫn nhau.
Đỗ Cảnh Thạc chiếm cung điện, thấy kho lương chất đầy cát, ngân khố toàn sỏi, bấy giờ mới biết danh lớn mà cơ nghiệp hư. Một đêm làm vương, mà sớm đã mất nước. Ấy là bởi chỉ thấy ngai vàng, chưa thấy lòng dân.
Đinh Liễn tuổi nhỏ, lời mềm như gấm, nhưng mưu sâu như vực. Chỉ một sổ sách giả, khiến Cảnh Thạc tự khoét chân mình, không cần đao kiếm.
Sử rằng: “Kinh thành đổi chủ chẳng phải do binh mạnh, mà bởi lòng người đổi trắng thay đen. Kẻ thắng không phải người cầm gươm, mà là kẻ hiểu tận nhân tâm.”