Với nhiều người, Hà Nội của họ đã dừng lại kể từ khi lịch sử ngắt nhịp vào thời điểm chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ. Còn với tôi, đó mới là điểm bắt đầu.
Nói đúng ra thì, khi tôi — một đứa trẻ thời Z — chui ra khỏi bụng mẹ và bắt đầu nhìn ngắm thế giới, Hà Nội đã đầy rẫy quán xá, bụi bặm còi xe và nhà cao tầng. Và chỉ độ chục năm sau đó, khi tôi còn lơ ngơ trước bao biến đổi của tuổi dậy thì, thành phố đã có thêm dăm ba cây cầu vượt mới, dày lên những hàng xe cộ và nhan nhản Starbucks. Cùng với đó là những vỉa hè trống toác cây xanh và những tiệm cắt tóc ven đường mất bóng, cũng giống như những âm thanh “vang bóng một thời”: chới với, rồi chìm nghỉm.
Tôi đã lớn lên ngay giữa một mớ hỗn độn âm thanh của cả một vùng đô thị rục rịch chuyển mình như thế. Đi kèm với những ô vuông cửa sổ ngày một chi chít trên từng khối chung cư chữ nhật là khoảng xanh ngày càng bị bóp kín. Trên phố, tiếng rú còi loạn xạ và tiếng xì xèo đinh tai của khoan cắt bê tông khiến ai đó chẳng còn nhận ra khi một con chim hót. Và hình như để thay thế tiếng rao đêm, người ta bật nhạc xập xình và to hết cỡ, chen chúc trong một không gian đặc khít âm thanh — và cũng làm nhạt đi bao nhiêu chất thơ của đô thành.
Những thanh âm đó đã trở nên hiển nhiên. Như bao đứa trẻ khác, tôi chấp nhận chúng như một phần hơi thở. Cũng giống như cách tôi chấp nhận bụi và khói khi đi đường, thậm chí, còn biến chúng trở thành một ý tưởng lãng mạn (mà thật ra là lãng xẹt). Nhưng dần dần, càng đắm chìm vào sự tấn công ào ạt của các kích thích giác quan, tôi càng nhận ra sự mất kết nối của mình với con người và thế giới xung quanh. Tôi sống trong một hệ sinh thái hỗn tạp và đa dạng, nhưng đồng thời, là một môi trường bão hòa mọi loại âm thanh. Những âm thanh này không khiến cho tôi cảm nhận cuộc sống đô thị sâu sắc hơn; chúng mài mòn đi thính giác và đẽo gọt sự hào hứng của tôi với thế giới này.
Vậy nên gần đây tôi thích trốn. Tôi thích tìm những ngõ ngách xa khỏi mặt phố, những quán cà phê nơi người ta không nốc bia và cười ha hả mà đàn ca trong vắt. Khi tôi ghé Cầm vào ngày cuối hoạt động (lần đầu và cũng là lần duy nhất), tôi đã ngồi không cả tám tiếng đồng hồ chỉ để ngơ ngẩn theo tiếng quạt trần sột soạt, tiếng guitar róc rách, tiếng hát, tiếng dế, tiếng mưa. Mà cũng là lần đầu tiên sau bao nhiêu lâu, tôi có thể nghe được nhiều âm thanh trong lành và rõ rệt đến thế.
Ở Cầm.
Tôi hoàn toàn không chắc đây có phải là những gì người ta đã mơ về ở Hà Nội cũ khi một cơ số “Hà Nội mới” đang phủ nấm không-thời gian không nữa. Có thể tôi cũng sẽ chẳng bao giờ biết được. Điều duy nhất mà tôi quan tâm hiện giờ, ấy là một thành phố bền vững cần có những khoảng không. Để ít nhất, người ta còn nghe thấy tiếng chim rả rích vào buổi sáng, tiếng ve vào buổi trưa, và tiếng rao “xôi lạc, bánh khúc” nhịp nhàng khi màn đêm kéo xuống.