Simone  de Beauvoir
Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (09/01/1908 - 14/04/1986) là một nhà văn, nhà triết học và là một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Bà viết các tiểu thuyết, chuyên đề về triết học, chính trị và các vấn đề xã hội, các bài luận, tiểu sự, tự truyện. Mặc dù trong suốt cuộc đời bà, bà không được coi như là một triết gia, thế nhưng những tác phẩm của bà đã đóng góp vào phong trào đấu tranh cho nữ quyền trên toàn thế giới. Bà được coi là người tiên phong cho phong trào Nữ quyền hiện sinh. Bà được trao Giải Jerusalem năm 1975. Năm 1978, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu.
Niềm tin vô thần
Beauvoir lớn lên trong một gia đình Công giáo. Khi còn trẻ, bà được gửi đến các trường tu viện và bà rất sùng đạo, thậm chí đã có lúc bà có ý định trở thành một nữ tu. Ở tuổi 14, Beauvoir đặt câu hỏi về đức tin của mình khi bà nhìn thấy nhiều thay đổi trên thế giới sau khi chứng kiến ​​những bi kịch trong suốt cuộc đời mình. Do đó, bà đã từ bỏ đức tin của mình khi còn ở tuổi thiếu niên và trở thành một người vô thần cho đến hết đời. Để giải thích niềm tin vô thần của mình, Beauvoir tuyên bố: "Đức tin cho phép trốn tránh những khó khăn mà người vô thần phải đối mặt một cách trung thực. Và để vượt qua tất cả, người tin tưởng có được cảm giác vượt trội hơn chính từ chính sự hèn nhát này."
Cuộc gặp gỡ với triết học hiện sinh
(đoạn này được tham khảo từ bài viết "Simone De Beauvoir – Nữ quyền không chỉ là phong trào mà là một khoa học" - tác giả Lê Thị Quý)
Đầu thế kỷ XX, cuộc cách mạng công nghiệp và sau đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm thay đổi tận gốc nền sản xuất của xã hội. Tiến bộ này được các nhà tư­ tư­ởng phu­ơng Tây miêu tả như­ là thành quả của phong trào Khai sáng. Đến những năm 50-60 xu h­ướng duy lý được đẩy cao bởi chủ nghĩa Kỹ trị. Tuy nhiên, ngay trong thời kỳ hoàng kim của nó, nhiều nhà triết học phi duy lý như­ Spengler, Nietzsche đã nói tới sự suy tàn của chủ nghĩa duy lý kỹ thuật và coi việc đề cao kỹ thuật là nguyên nhân của bất hạnh, của những thảm hoạ đối với con người và sự phá vỡ các mối quan hệ xã hội. Sự phi lý của chiến tranh đã gây ra những hoang mang cho con ngư­ời làm ng­ười ta cảm nhận sự phi lý của cuộc sống. “Tự do, bình đẳng, bác ái” - tôn chỉ của phong trào Khai sáng - dường như chỉ còn là khẩu hiệu.
Năm 1814, chiến tranh thế giới lần thứ nhất diễn ra. Và chỉ trong ít lâu sau, năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 - cuộc chiến lớn nhất và tàn khốc nhất lịch sử nhân loại đã bùng nổ. Sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít tàn độc đã đẩy sự hoài nghi với bản tính con người lên đỉnh điểm. Điều này đã thôi thúc con người phải tìm câu trả lời cho câu hỏi "Con người sinh ra có ý nghĩa gì?".
Ngay trong thời điểm mà con người đang khủng hoảng với chính mình, thì Sartre - một nhà triết học Pháp - đã đưa ra một lý thuyết cấp thiết - đó là chủ nghĩa Hiện sinh. Đây cũng là một thành tố trong các cuộc “ nổi loạn” của  sinh viên Pháp vào tháng 5, tháng 6/1968 và trong phong trào “Phản kháng đối với các giá trị văn hoá” của thanh niên Mỹ
Là bạn và người tình trọn đời của Jean Paul Sartre,  Simone De Beauvoir vừa chịu ảnh hưởng quan điểm hiện sinh của ông vừa sáng tạo những tư duy mới. Chính bà đã góp phần đẩy chủ nghĩa hiện sinh sang hướng tích cực hơn. Thay vì mệt mỏi, chán chường vì “sự vô nghĩa” của cuộc sống, hoặc ví von cuộc sống con người chỉ hiện hữu như “con gián, con rệp” như nhiều nhà hiện sinh lúc đó, Simone De Beauvoir đề cao một sự hiện hữu tích cực. Bà vừa chống lại sự hiện diện của chủ nghĩa cường quyền và bạo lực, chống lại việc đề cao sự thống trị của kỹ thuật trong chủ nghĩa Duy lý vừa đấu tranh cho những sự bình quyền, đặc biệt là bình quyền nam nữ, hướng tới một sự  sống tốt đẹp cho con người.
Đọc về bài viết của tác giả Lê Thị Quý tại đây
Nhà nữ quyền của phong trào hiện sinh
Là một người ủng hộ nhiệt thành chủ nghĩa hiện sinh, bà đặt ra những câu hỏi nhằm tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống trong sự phi lý của một thế giới mà chúng ta đã không tự lựa chọn được sinh ra ở trong. Cùng với các tác phẩm của Sartre, tác phẩm của bà đề cập đến đặc tính cụ thể của các vấn đề này, ưu tiên một sự phản ánh trực tiếp và không gián đoạn về kinh nghiệm sống
Trong Sức mạnh của tuổi tác (La Force de l'âge) bà kể lại cách thức mà chiến tranh đã tước bỏ "chủ quyền ảo ảnh (l'illusoire souveraineté) của tuổi hai mươi" của mình. Tháng 9/1939, bà viết trong nhật kí: "Với tôi, hạnh phúc trên hết là một cách thức đặc quyền (une manière privilégiée) để nắm bắt (saisir) về thế giới; khi thế giới thay đổi đến mức không thể nắm bắt được theo cách này nữa, hạnh phúc lúc đó chẳng còn giá trị gì". Triết lý của bà tiến triển và bà không còn quan niệm về cuộc đời mình như một cá nhân tự chủ và khép kín: "Giờ đây, tôi biết rằng, từ tận xương tủy, tôi đã được liên kết với những người cùng thời với tôi (mes contemporains); tôi đã khám phá ra mặt trái của sự phụ thuộc này: trách nhiệm của tôi [...]; tùy thuộc vào việc một xã hội hướng tới sự tự do hay tự chấp nhận một sự nô lệ trơ ra (un inerte esclavage), cá nhân tự nhận thức mình như một con người ở giữa mọi người, hay như một con kiến trong một tổ kiến: nhưng tất cả chúng ta đều có quyền đặt dấu hỏi về lựa chọn tập thể, để từ chối nó hay để phê chuẩn nó".
Trong "Giới tính thứ hai", bà khẳng định: "Chúng ta không sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ": Đây là một kiến tạo xã hội (social construction), thứ áp đặt những vai trò khác nhau, mang tính giới cho người của cả hai giới. Câu trích dẫn này thường được coi là tiền đề cho các nghiên cứu về giới tính trong khoa học xã hội. Trong tác phẩm này, bà phân tích vị trí của phụ nữ trong xã hội, lưu ý rằng họ thường được xem là, được định nghĩa là "Kẻ Khác" (Others) từ góc nhìn của nam giới trong xã hội gia trưởng. Sylvie Chaperon, một chuyên gia về nữ quyền, cho biết ngoài cụm từ mang tính biểu tượng này, Simone de Beauvoir xem xét nhiều lĩnh vực trong đó hình thành sự khác biệt xã hội giữa nam giới và nữ giới, từ đó đưa ra các hướng nghiên cứu cho những thập kỷ tiếp theo, mà một số, theo bà, vẫn còn chưa được đào sâu.
Vào những năm 1970, Beauvoir bắt đầu hoạt động tích cực trong phong trào giải phóng phụ nữ ở Pháp. Bà đã viết và ký Tuyên ngôn 343 vào năm 1971, một tuyên ngôn bao gồm danh sách những phụ nữ nổi tiếng tuyên bố đã phá thai, khi đó là bất hợp pháp ở Pháp. Những người ký tên rất đa dạng như Catherine Deneuve, Delphine Seyrig, và chị gái của Beauvoir là Hélène. Năm 1974, việc phá thai được hợp pháp hóa ở Pháp. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1975 với Betty Friedan, Beauvoir tuyên bố: "Không một người phụ nữ nào được phép ở nhà và nuôi con. Xã hội phải khác đi. Phụ nữ không nên có sự lựa chọn đó, chính xác là bởi vì nếu có sự lựa chọn như vậy thì có quá nhiều phụ nữ sẽ làm được điều đó". Năm 1977, Beauvoir ký một thỏa thuận kiến nghị tìm cách loại bỏ hoàn toàn độ tuổi đồng ý ở Pháp, một động thái cuối cùng dẫn đến việc mất giấy phép giảng dạy của bà. Năm 1980, Beauvoir, 72 tuổi, nhận Sylvie làm con nuôi hợp pháp, ở độ tuổi cuối 30, vào thời điểm đó họ đã có mối quan hệ thân mật trong nhiều thập kỷ. Mặc dù Beauvoir từ chối thể chế hôn nhân suốt đời, nhưng việc nhận con nuôi này đối với cô giống như một cuộc hôn nhân. Một số học giả cho rằng việc nhận con nuôi này không phải để đảm bảo một người thừa kế văn học cho Beauvoir, mà là một hình thức phản kháng lại đơn vị gia đình dị tính sinh học.
Trong khi quan điểm cơ bản của thuyết Hiện sinh là tôn vinh giá trị cá nhân và cuộc sống hiện tại của con ngư­ời trong xã hội, trong khi đề cao cái tôi, những người sáng lập ra thuyết này đã dường như quên hẳn vấn đề phụ nữ. Simone De Beauvoir trong khi tham gia trong nhóm Hiện sinh của Jean Paul Sartre, có điều kiện tiếp cận sâu với tư­ tư­ởng của Sartre và với trái tim nhân hậu đầy nữ tính, cộng với tư cách một nhà triết học, một nhà văn đã dễ dàng nhận ra những thiếu hụt của thuyết này. Bà trở thành một trong những người sáng lập ra thuyết Nữ quyền hiện sinh.
De Beauvoir sử dụng tri thức uyên bác của mình về triết học để thể hiện tình cảm của mình về giới phụ nữ và ra tuyên ngôn của riêng mình về chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa hiện sinh.  Với những nhận định rút ra từ sự hỗn loạn và điên rồ của cuộc thế chiến thứ hai, những sự sai lệch về giá trị và đạo đức của nhân loại gắn liền với chủ nghĩa cá nhân cực đoan, De Beauvoir đã đ­ưa ra một hệ thống những khái niệm quan trọng nhằm phát triển một học thuyết về nữ quyền. Bà cho rằng thái độ đối với tự do là giá trị cao nhất của con người, là thước đo về đạo đức và phi đạo đức của họ về chính con ng­ươì. Những hành vi tốt làm tăng sự tự do của con ng­ười còn những hành vi xấu hạn chế sự tự do đó. Năm 1945 bà cùng với Jean Paul Sartre lập ra tạp chí Les Temps Modernes chuyên nghiên cứu văn hoá và những vấn đề của đời sống hiện đại.
De Beauvoir đã viết nhiều tác phẩm văn học và triết học nổi tiếng, đư­ợc nhận nhiều giải thưởng lớn, nhưng với tác phẩm “ Giới tính thứ hai “ (The Second Sex), bà đã trở thành một nhà nữ quyền kinh điển, một phụ nữ tiên phong trong phong trào phụ nữ quốc tế.
Triết học về Giới và chủ nghĩa Nữ quyền mới mà De Beauvoir khởi x­ướng đã hoà nhập vào những mặt tiến bộ của phong trào Hiện sinh đồng thời góp phần chống chủ nghĩa Duy lý. Cùng với các nhà Hiện sinh khác chống lại xã hội kỹ trị, chỉ biết đế kỹ thuật mà coi nhẹ con người, De Beauvoir đã đi sâu nghiên cứu một thiết chế xã hội cụ thể là gia đình và thân phận người phụ nữ. Bà cho rằng, trên thực tế, sự thay đổi các hình thức hôn nhân và gia đình, vai trò và vị thế của ngu­ời phụ nữ trong gia đình đã dựa trên sự thay đổi của các điều kiện kinh tế – xã hội và phản ánh sự thay đổi đó. Tuy nhiên, thân phận của ng­ười phụ nữ thường lại đư­ợc thay đổi rất chậm chạp. Ng­ười ta thường vẫn đặt vấn đề về nâng cao vai trò của ngư­ời phụ nữ, nhưng thực chất lại muốn níu kéo họ trở lại với các chức năng truyền thống, với công việc bếp núc, sinh đẻ, coi phụ nữ như­ một “máy đẻ” thụ động, cấm họ ngừa thai và nạo thai…Những quan điểm này đã làm tổn thư­ơng đến phụ nữ và vị thế của họ với tư­ cách là một thành viên của xã hội và gia đình.
Sự bùng nổ về các hình thức hôn nhân mới là những yếu tố tác động trực tiếp tới cách giải quyết vấn đề giới, vấn đề gia đình của các nhà Nữ quyền hiện đại trong đó có De Beauvoir. Thực tế của xã hội hiện đại cho thấy, phụ nữ vẫn còn bị phân biệt đối xử trong gia đình cũng như ngoài xã hội, thu nhập thấp, công việc nặng nhọc, không đ­ược hư­ởng sự bình đẳng trong giáo dục, chịu nhiều áp lực từ việc sinh đẻ… Bởi vậy, De Beauvoir và các nhà Nữ quyền Pháp đã tích cực đấu tranh chống lại những định kiến, sự bất công vô lý và đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, làm thế nào để phụ nữ thoát ra khỏi sự cạnh tranh và bạo lực, sự chi phối của đồng tiền và quyền lực, thoát khỏi sự đe doạ bởi các thứ công nghệ không thể kiểm soát đ­ược … De Beauvoir cho rằng, những điều này xuất phát từ một xã hội duy lý cao độ, phá hoại tự do, tạo ra bất bình đẳng, một xã hội luôn làm con ng­ười bị tha hoá.
Trên lập tr­ường hiện sinh, De Beauvoir đã tìm ra một con đư­ờng giải phóng phụ nữ độc đáo, bà đ­ược coi là một trong những ng­ười khởi xư­ớng Làn sóng Nữ quyền thứ hai. Trong tác phẩm “ Giới tính thứ hai “ bà đã quyết tâm đư­a thân phận ngư­ời phụ nữ ra ánh sáng, chỉ ra cội nguồn của sự bất bình đẳng giới về mặt khoa học và mặt thực tiễn, phân tích tính khác biệt của phụ nữ, điều đã khiến cho trong xã hội họ chỉ đ­ược nhận “phẩm chất thứ hai” không cơ bản, một thứ công dân loại hai so với đàn ông.
De Beauvoir cũng đư­ợc coi là ngu­ời “ báo tr­ước chủ nghĩa Nữ quyền hậu hiện đại”, một xu hư­ớng đấu tranh mơi, một kiểu gia đình mới, gia đình hậu hiện đại, gia đình chống sự duy lý hoá. Bản thân De Beauvoir đã quyết từ bỏ thân phận phụ nữ của mình, thậm chí từ chối có con để dành nhiều thời gian quan tâm đến những phụ nữ khác và chính điều này khiến bà trở thành một nhà tư­ t­ưởng lớn. De Beauvoir luôn vư­ơn tới tự do, khẳng định một chân lý là : làm phụ nữ không phải là một chứng tật. Bà nói : "tôi không chịu khuất phục ai cả, tôi luôn là ngư­ời chủ của bản thân tôi". Trong cuộc sống chung với Sartre bà luôn tìm kiếm cho mình một lãnh thổ độc lập vừa đủ cho tình yêu và một cuộc sống chung của cả hai. Bà là người đầu tiên đư­a ra kết luận : "Phụ nữ không phải chỉ đ­ược sinh ra mà họ cần phải đ­ược tôn trọng".
Simone de Beauvoir không chỉ tham gia phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đấu tranh đòi bình đẳng giới, mà bà còn cùng với Jean Paul Sartre tham gia Tòa án quốc tế xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam do Bertrand Russell sáng lập
Cuộc tình "đặc biệt" với Jean Paul Sartre
Beauvoir và Jean-Paul Sartre gặp nhau trong những năm tháng đại học. Bị thu hút bởi quyết tâm của bà với tư cách là một nhà giáo dục, Sartre có ý định làm cho mối quan hệ của họ trở nên lãng mạn. Tuy nhiên, bà không có hứng thú làm việc đó. Sự phản kháng của bà đối với Sartre thất bại, và vào tháng 10 năm 1929, Jean-Paul Sartre và Beauvoir trở thành một cặp trong 51 năm tiếp theo, cho đến khi ông qua đời vào năm 1980. Sau khi họ đối mặt với cha của Beauvoir, Sartre đã yêu cầu cô kết hôn tạm thời với ông. Một ngày nọ, khi họ đang ngồi trên chiếc ghế dài bên ngoài bảo tàng Louvre, Sartre đã nói: "Chúng ta hãy ký hợp đồng thuê hai năm". Mặc dù Beauvoir viết: "Hôn nhân là không thể. Tôi không có của hồi môn", các học giả chỉ ra rằng mối quan hệ lý tưởng của bà đã được mô tả trong "Giới tính thứ hai" và những tác phẩm khác có rất ít điểm tương đồng với các tiêu chuẩn hôn nhân thời đó.
Beauvoir và Sartre bước vào một "mối quan hệ hợp tác tâm hồn" lâu dài, mang tính tình dục nhưng không độc quyền, cũng không liên quan đến việc sống chung. Cuộc tranh luận vẫn tiếp tục về mức độ mà họ ảnh hưởng lẫn nhau trong các tác phẩm theo chủ nghĩa hiện sinh của họ, chẳng hạn như "Tồn tại và hư vô" của Sartre và "She Came to Stay" của Beauvoir.
De Beauvoir viết rằng “Tôi đã linh cảm thấy anh ấy sẽ không bao giờ ra khỏi cuộc đời tôi... Đây là một tình yêu tất yếu giữa hai chúng tôi”. Họ sống với nhau như vợ chồng suốt cuộc đời, nhưng không bao giờ lấy nhau, tôn trọng lẫn nhau, kể cả việc chấp nhận người kia có quan hệ tình cảm với một kẻ thứ ba.... Sartre nói với Beauvoir: “Anh yêu em, nhưng anh không phải là kẻ tôn thờ chế độ một vợ một chồng”. Còn De Beauvoir khẳng đinh bà không thể để cuộc sống hôn nhân làm hạn chế sự tự do của mình, nhất là làm cái nửa bất bình đẳng, cho dù là nửa của một vĩ nhân như Sartre. Bà nói vui với bạn bè : “tại sao tôi lại cứ phải để cái anh chàng Sartre bé con nó ngọ ngậy trong bụng mình thì mới được coi là phụ nữ nhỉ”.
Khi Sartre được Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển trao giải Nobel và ông đã thẳng thừng từ chối nhận vì không muốn biến mình thành nô lệ của bất cứ một thiết chế xã hội nào, thì De Beauvoir cũng nói: “Tại sao người ta chỉ biết bảo rằng De Beauvoir là bạn đời của Sartre mà chẳng ai biết rằng chính Sartre là bạn đời của De Beauvoir nhỉ ?” . Và thật rõ ràng rằng trong cuộc đời mình, De Beauvoir cũng đã là một cây tùng cây bách mà chẳng bao giờ chịu núp dưới bóng của Sartre. De Beauvoir muốn thực hiện cuộc đấu tranh vì bình đẳng giới bằng chính cuộc đời mình.
Những tranh cãi xung quanh xu hướng tính dục
Beauvoir là người lưỡng tính và mối quan hệ của bà với phụ nữ trẻ gây tranh cãi. Tác giả người Pháp Bianca Lamblin (tên gốc là Bianca Bienenfeld) đã viết trong cuốn sách "Mémoires d'une jeune fille dérangée" (Hồi ức của một cô gái loạn trí, xuất bản bằng tiếng Anh với tựa đề "Một cuộc tình ô nhục") rằng, khi còn là sinh viên tại Lycée Molière, cô đã bị bóc lột tình dục bởi giáo viên Beauvoir của cô, người ở độ tuổi 30. Sartre và Beauvoir đều chuẩn bị chu đáo và lạm dụng tình dục Lamblin. Năm 1943, Beauvoir lại bị đình chỉ giảng dạy khi bị buộc tội dụ dỗ cô học sinh trung học 17 tuổi Natalie Sorokine vào năm 1939. Cha mẹ của Sorokine đã đưa ra cáo buộc chính thức chống lại Beauvoir vì tội đồi trụy với trẻ vị thành niên (độ tuổi đồng ý ở Pháp vào thời điểm đó là 13 cho đến năm 1945, khi đó nó trở thành 15) và giấy phép giảng dạy của Beauvoir ở Pháp đã bị thu hồi.
Năm 1977, Beauvoir ký một bản kiến ​​nghị tìm cách loại bỏ hoàn toàn độ tuổi đồng ý ở Pháp, một động thái cuối cùng dẫn đến việc bà bị mất giấy phép giảng dạy. Bà cùng với các trí thức Pháp khác ủng hộ việc trả tự do cho ba kẻ ấu dâm bị bắt. Bản kiến ​​nghị đề cập rõ ràng đến 'Affaire de Versailles', nơi ba người đàn ông trưởng thành, Dejager (45 tuổi), Gallien (43 tuổi) và Burckhardt (39 tuổi) có quan hệ tình dục với trẻ vị thành niên thuộc cả hai giới tính ở độ tuổi 12–13.
Ảnh hướng của Beauvoir tới phong trào nữ quyền
"Giới tính thứ hai" của Simone de Beauvoir được coi là tác phẩm nền tảng trong lịch sử nữ quyền. Tác phẩm đã có ảnh hưởng sâu sắc, mở đường cho làn sóng nữ quyền thứ hai ở Hoa Kỳ, Canada, Úc và trên toàn thế giới. Mặc dù Beauvoir đã được trích dẫn rằng "Có một yêu cầu vô lý nhất định mà tôi thấy hơi ngu ngốc vì nó sẽ nhốt tôi, khiến tôi hoàn toàn bất động trong một loại khối bê tông nữ quyền", các tác phẩm của bà về nữ quyền đã mở đường cho tất cả các nhà nữ quyền trong tương lai. Những người sáng lập làn sóng thứ hai đã đọc "Giới tính thứ hai" qua bản dịch, bao gồm Kate Millett, Shulamith Firestone, Juliet Mitchell, Ann Oakley và Germaine Greer. Tất cả đều thừa nhận món nợ sâu sắc của họ đối với Beauvoir, bao gồm việc đến thăm bà ở Pháp, hỏi ý kiến ​​bà vào những thời điểm quan trọng và cống hiến các tác phẩm cho bà. Betty Friedan, người có cuốn sách Bí ẩn phụ nữ xuất bản năm 1963 thường được coi là loạt đạn mở đầu cho làn sóng nữ quyền thứ hai ở Hoa Kỳ, sau này nói rằng việc đọc "Giới tính thứ hai" vào đầu những năm 1950 "đã đưa tôi đến bất kỳ phân tích ban đầu nào về sự tồn tại của phụ nữ." Tôi đã có thể đóng góp cho phong trào Phụ nữ và nền chính trị độc đáo của phong trào này. Tôi tìm đến Simone de Beauvoir để tìm một người có thẩm quyền về triết học và trí tuệ." Vào một thời điểm vào đầu những năm 1970, Beauvoir cũng liên kết với Liên đoàn vì Phụ nữ Pháp Quyền như một phương tiện để vận động và đấu tranh chống phân biệt giới tính trong xã hội Pháp. Ảnh hưởng của Beauvoir không chỉ dừng lại ở tác động của bà đối với những người sáng lập làn sóng thứ hai mà còn mở rộng sang nhiều khía cạnh của nữ quyền, bao gồm phê bình văn học, lịch sử, triết học, thần học, phê bình diễn ngôn khoa học và tâm lý trị liệu. Khi Beauvoir lần đầu tiên tham gia vào phong trào nữ quyền, một trong những mục tiêu của bà là hợp pháp hóa việc phá thai. Donna Haraway đã viết rằng, "bất chấp những khác biệt quan trọng, tất cả ý nghĩa của nữ quyền hiện đại về giới tính đều bắt nguồn từ tuyên bố của Simone de Beauvoir rằng 'người ta sinh ra không phải là phụ nữ [người ta trở thành một người phụ nữ].'" Đây là "câu nói về nữ quyền nổi tiếng nhất từ ​​trước đến nay" được lặp lại trong tiêu đề bài tiểu luận năm 1981 của Monique Wittig. Ở Paris, Place Jean-Paul-Sartre-et-Simone-de-Beauvoir là một quảng trường nơi di sản của Beauvoir tồn tại. Đây là một trong số ít quảng trường ở Paris được đặt tên chính thức theo tên một cặp đôi.