Sleepora Iceberg Unconscious Mind
Khi chúng ta nói một ai ý thức về một điều gì đó – có nghĩa là một ai có ý thức về một điều gì đó. Cũng đồng nghĩa với hữu thức, vậy hữu thức và đối lập của nó là vô thức là hai trạng thái tâm lý, hay não thức – tạm hiểu như danh từ, và ý thức, có ý thức và không có ý thức, vô ý thức, vô thức có thể dùng như thuật từ chỉ tình trạng có những trạng thái tương ứng đó.
Việc phân chia tâm thần vào thành những gì là hữu thức và những gì là vô thức [Consciousness and Unconsciousness] là tiền đề nền tảng của phân tích tâm lý [Psychoanalysis, hay psychoanalysis]; và nó khá hữu ích cho phân tích tâm lý để hiểu những tiến trình bệnh lý trong đời sống tinh thần, chúng phổ biến & quan trọng. Nói về nó một lần nữa trong một lối khác: phân tích tâm lý không thể đặt định bản thể của tâm thần trong hữu thức, nhưng bị buộc phải xem tính hữu thức như là một phẩm tính của tâm thần, vốn có thể hiện diện cộng thêm với những phẩm tính khác, hoặc có thể vắng mặt. Nếu tôi có thể giả sử rằng mọi người quan tâm đến tâm lý học sẽ đọc những dòng này thì tôi cũng nên sửa soạn để tìm thấy rằng tại thời điểm này, một vài người đọc  đã sớm dừng lại rồi, và tất nhiên là sẽ không đi xa hơn nũa; vì ở đây chúng ta có dẩu hiệu đặc thù đầu tiên của khoa phân tích tâm lý. Đối với hầu hết mọi người, những người đã được giáo dục trong triết học, ý tưởng về bất cứ điều gì thuộc tâm thần mà lại cũng không có ý thức, thì hết sức không thể mường tượng được khiến với họ nó có vẻ phi lý, và có thể phản bác chỉ đơn thuần bằng lôgic. Tôi tin điều này là chỉ vì họ chưa bao giờ nghiên cứu những hiện tượng liên quan đến sự thôi miên và những giấc mơ – hoàn toàn ngoài những biểu hiện bệnh lý – vốn tất yếu đi đến quan điểm này. Tâm lý học về hữu thức của họ không có khả năng giải quyết những vấn đề của những giấc mơ và của thôi miên.
Dreams ? Why ?


Consciousness
“Là có ý thức” (Bewusst sein),  là một thuật ngữ thuần túy mô tả, khi dựa trên nhận thức của một nhân vật nào đó trong một lúc tức thời . Kinh nghiệm tiếp tục cho thấy rằng một yếu tố tâm thần (ví dụ một ý tưởng)  không phải như là một quy luật có ý thức trong một thời gian được kéo dài. Ngược lại,  trạng thái của sự có ý thức lại có tính đặc trưng rất tạm thời; một ý tưởng vốn là ý thức bây giờ thì không còn là như thế một lúc sau đó, mặc dù nó có thể lại trở thành như vậy một lần nữa trong những điều kiện nhất định (có thể dễ dàng tạo ra). Trong khoảng đứt quãng thời gian, ý tưởng đã trở thành - chúng ta không biết là gì. Chúng ta có thể nói rằng nó đã tiềm ẩn, và như thế, chúng ta hàm nghĩa là nó có khả năng trở thành hữu thức(có ý thức) bất cứ lúc nào. Hoặc, nếu chúng ta nói đó đã là vô thức, chúng ta cũng sẽ đưa ra một mô tả chính xác về nó. Ở đây, “vô thức” trùng hợp với “tiềm ẩn và có khả năng trở thành hữu thức”. Những triết gia, không nghi ngờ gì, sẽ phản đối: “Không, thuật ngữ ‘vô thức’ thì không áp dụng được ở đây; miễn là cho đến chừng nào ý tưởng đã trong một trạng thái tiềm ẩn, nó đã không là bất cứ điều gì thuộc về tâm thần hết cả”. Để nói ngược lại với họ ở điểm này sẽ chỉ dẫn đến một cãi vã thuần lời qua tiếng lại, không ích lợi gì hơn. Nhưng chúng ta đã đi đến thuật ngữ, hoặc khái niệm về vô thức dọc theo lối khác, bằng xem xét những kinh nghiệm nhất định, trong đó những động lực tinh thần đóng một vai trò. Chúng ta đã tìm thấy - đó là, chúng ta đã bị buộc phải giả định – rằng có hiện hữu những tiến trình tâm thần rất mạnh mẽ hoặc những ý tưởng (và ở đây là một yếu tố định lượng hoặc kinh tế lần đầu tiên đi vào câu hỏi thảo luận),  chúng có thể sản xuất tất cả những hiệu quả trong đời sống tinh thần mà những ý tưởng thông thường có thể sản xuất (bao gồm cả những hiệu quả mà chúng có thể có khi đến phiên chúng trở thành hữu thức như những ý tưởng), mặc dù chính bản thân chúng không trở thành hữu thức. Là đủ để nói rằng ở điểm này, lý thuyết Phân tích tâm lý bước vào, và xác định rằng lý do tại sao những ý tưởng như vậy không thể trở thành hữu thức? Là vì có một sức mạnh nào đó chống đối chúng, rằng nếu không thế, chúng đã có thể trở thành hữu thức, và rằng sau đó sẽ thành rõ ràng rằng chúng ít khác biệt đến chừng nào với những yếu tố khác vốn được thừa nhận là thuộc tâm thần. Trong kỹ thuật của khoa phân tích tâm lý, một phương tiện đã được tìm thấy, qua đó sức mạnh chống đối có thể được gỡ bỏ đi, và ý tưởng trong vấn đề nghiên cứu thành nên hữu thức, đã khiến lý thuyết này không thể bị bác bỏ được. Trạng thái trong đó những ý tưởng đã hiện hữu trước khi được làm thành có ý thức được chúng ta gọi là sự dồn nén [Repression.], và chúng ta khẳng định rằng sức mạnh vốn thiết lập sự dồn nén và duy trì nó được nhận thức như sự đề kháng lại công tác của phân tích tâm lý. Thế nên, chúng ta thu nhận được khái niệm của chúng ta về vô thức từ lý thuyết của sự dồn nén. Cái bị dồn nén đàn áp là dạng thức ban đầu của vô thức với chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng chúng ta có hai loại vô thức – một loại là tiềm ẩn nhưng có khả năng trở thành có ý thức, và một loại vốn nó bị đàn áp, dồn nén, và trong tự thân nó, không thêm nhiều rắc rối, nó không có khả năng trở thành có ý thức. Mảnh thị kiến này nhìn vào trong những động lực tâm thần không thể không tác động đến thuật ngữ và sự mô tả. Cái tiềm ẩn, vốn là vô thức chỉ trong ý nghĩa mô tả, không phải trong ý nghĩa năng động, chúng ta gọi là tiền-ý-thức; chúng ta hạn chế thuật ngữ vô thức chỉ dùng để chỉ vô thức năng động bị dồn nén; như thế bây giờ chúng ta có ba thuật ngữ, Ý thức (Cs-Consciousness,), Tiền-ý thức (Pcs- Pre Consciousness), và Vô thức (Ucs- Unconsciousness) , có ý nghĩa của chúng thôi không còn thuần túy là mô tả. Pcs. được giả định là rất nhiều gần gũi với Cs. hơn là với Ucs., và vì chúng ta đã gọi Ucs. là thuộc tâm thần, chúng ta sẽ thậm chí còn ít do dự hơn khi gọi Pcs. tiềm ẩn là thuộc tâm thần. Nhưng thay vì điều này, tại sao chúng ta lại không cứ giữ thỏa thuận với những triết gia, một cách nhất quán để phân biệt Pcs. cũng như Ucs. với hữu thức của tâm thần? Những triết gia sau đó sẽ đề nghị rằng Pcs. và Ucs. nên được mô tả như là hai loại, hoặc hai giai đoạn của “psychoid” [Nguyên lí sống], và sự hòa hợp sẽ được thiết lập. Nhưng những khó khăn bất tận trong triển khai sẽ đến theo; và một sự kiện quan trọng, rằng hai loại này của “psychoid” trùng hợp trong hầu hết mọi khía cạnh khác với những gì là được thừa nhận thuộc tâm thần, chúng sẽ bị đẩy vào nền phía sau, vì những lợi ích của một thành kiến có niên đại từ một giai đoạn mà trong đó những psychoids này, hoặc phần quan trọng nhất của chúng, đã vẫn còn chưa biết.

Bây giờ chúng ta có thể thoải mái dùng ba thuật ngữ của chúng ta, Cs., Pcs., và Ucs., miễn là chừng nào chúng ta đừng quên rằng trong ý hướng mô tả có hai loại vô thức, nhưng chỉ có một trong ý hướng năng động. Đối với những mục đích trình bày, sự phân biệt này trong một số trường hợp có thể được bỏ qua, nhưng trong những trường hợp khác, nó là tất nhiên không thể thiếu. Đồng thời, chúng ta đã ít hay nhiều hơn trở thành quen thuộc với sự mơ hồ này của vô thức, và xoay sở được khá tốt với nó. Theo như tôi có thể nhìn thấy, nó là không thể nào tránh được sự nhập nhằng này, sự phân biệt giữa ý thức và vô thức là phương sách cuối cùng một câu hỏi về nhận thức, nó phải được trả lời “có' hoặc 'không”, và hành động của nhận thức tự thân nó không nói gì với chúng ta về lý do tại sao một sự việc là có, hoặc không được nhận thức. Không ai có quyền than phiền vì những hiện tượng của thực tại diễn tả yếu tố động lực một cách hàm hồ, không trắng đen rõ ràng .
Level of consciousness
Psychoid by FractKali
Tuy nhiên, trong tiến trình tiếp tục xa hơn của công việc phân tích tâm lý, ngay cả những phân biệt này đã được chứng tỏ là không thỏa đáng,  cho những mục đích thực tế. Nhưng nó đã dần trở nên rõ ràng trong nhiều cách, hơn là chỉ một . Chúng ta đã hình thành ý tưởng rằng trong mỗi cá nhân có một tổ chức mạch lạc của những tiến trình não thức; và chúng ta gọi đây là Ego [Ego- cái tôi] của người ấy. Đó là với Ego này mà tính có thức được gắn buộc vào; Ego kiểm soát những tiếp cận với tính vận động , với sự phản hồi những kích động vào trong thế giới bên ngoài, nó là cơ quan não thức giám sát tất cả những tiến trình tạo lập riêng của nó, và ban đêm nó đi ngủ, mặc dù ngay cả sau đó nó vẫn hành xử sự kiểm duyệt trên những giấc mơ. Từ Ego này cũng tiến hành sự đàn áp dồn nén nữa, bằng những phương tiện qua đó nó tìm để loại trừ những khuynh hướng nhất định nào đó trong não thức, không chỉ đơn thuần là từ hữu thức, nhưng cũng còn cả từ những hình thức khác thuộc về tính có hiệu quả và tính hoạt động. Trong phân tích tâm lý, những khuynh hướng này vốn đã bị chặn đóng, đứng đối lập với Ego, và phân tích tâm lý thì đối mặt với nhiệm vụ loại bỏ những đề kháng vốn Ego trưng bày chống lại trong liên quan chính nó với cái-bị-đàn áp. Bây giờ, chúng ta tìm thấy trong tiến trình phân tích rằng, khi chúng ta đặt những nhiệm vụ nhất định nào đó trước người bệnh, ông ta vướng vào những khó khăn, những liên kết [Association] của ông bị thất bại khi chúng đáng lẽ nên đi đến gần với cái bị dồn nén. Sau đó chúng ta bảo với ông rằng ông bị một sức đề kháng chi phối, nhưng ông là hoàn toàn không biết gì về sự kiện, và ngay cả khi ông có dự đoán từ những cảm xúc khó chịu, không thoải mái, rằng có một đề kháng hiện làm việc trong ông ta, ông ta không biết nó là gì, hoặc mô tả nó thế nào. Tuy nhiên, vì có thể là không có câu hỏi ngoại trừ rằng sự đề kháng này xuất phát từ Ego của ông ta và thuộc về nó, chúng ta tìm thấy chính chúng ta trong một tình huống không lường trước. Chúng ta đã đi đến một gì đó trong tự thân Ego vốn cũng là vô thức, vốn nó cư xử giống y như cái-bị-đàn áp - nghĩa là, nó sản xuất những hiệu quả mạnh mẽ mà tự nó là không có ý thức, và nó đòi hỏi việc làm đặc biệt trước khi nó có thể được làm thành là có ý thức. Từ điểm nhìn này của thực hành phân tích tâm lý, hậu quả của khám phá này là chúng ta bước lên bờ trong những mờ tối bất tận và những khó khăn bất tận, nếu chúng ta giữ lấy những hình thức quen thuộc trong diễn tả của chúng ta, và cố gắng, lấy thí dụ, để diễn dịch được chứng loạn thần kinh từ một xung đột giữa hữu thức và vô thức . Chúng ta sẽ phải để thay thế cho phản đề này bằng một phản đề khác, lấy từ thị kiến sâu sắc của chúng ta vào trong những điều kiện cấu trúc của não thức – phản đề giữa Ego chặt chẽ và cái bị đàn áp vốn được tách rời từ nó .
 Đối với khái niệm của chúng ta về vô thức thì những kết quả của việc khám  thậm chí lại còn quan trọng hơn. Những  động lực là nguyên nhân khiến  ta thực hiện sự điều chỉnh đầu tiên của chính mình; thị kiến sâu sắc của chúng ta vào trong cấu trúc của não thức dẫn đến điều chỉnh thứ hai. Chúng ta nhìn nhận ra rằng Ucs. không trùng hợp với những gì bị dồn nén, đàn áp; điều vẫn là đúng rằng tất cả những gì bị dồn nén, đàn áp là Ucs., nhưng không phải tất cả những gì là Ucs. là bị đàn áp. (Nhưng có) một phần của Ego nữa, và Trời biết một phần quan trọng đến như thế nào - có thể là Ucs, chắc chắn là Ucs. Và Ucs. này thuộc về Ego không phải là tiềm ẩn như Pcs., vì nếu như nó đã là thế, nó không thể được kích động mà không trở thành Cs., và tiến trình làm cho nó có ý thức sẽ không gặp phải những khó khăn lớn như vậy. Khi chúng ta tìm thấy chính mình do đó phải đối mặt với sự cần thiết của giả định một Ucs. thứ ba, vốn nó không bị đàn áp.
Ego

Chúng ta phải thừa nhận rằng những đặc tính của vô thức bắt đầu mất đi ý nghĩa đối với chúng ta. Nó trở thành một phẩm chất mà có thể có nhiều ý nghĩa, một phẩm chất mà chúng ta không thể như chúng ta hy vọng để làm thế, làm cơ sở cho những kết luận sâu rộng và không thể tránh đươc. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận khi bỏ qua đặc điểm này, vì thuộc tính của tính cách là hữu thức hay không hữu thức đều là phương sách cuối cùng của một ngọn đèn hiệu dẫn đường giữa sự đen tối của tâm lý học chiều sâu.

To be continue ...