Đức Tin cựu ước và tân ước. tt.tt.
Trích "Thánh kinh tân từ điển" I. Howard Marshall, A. R. Millard, J. I. Packer, D. J. Wiseman.
b. lối sử dụng đặc biệt của từ này ( đức tin).
(1) trong các sách tin lành cộng quan, đức tin thường được kết hợp với sự chữa lành, như khi Chúa nói với người đàn bà được chữa lành sau khi chạm đến áo Ngài Hỡi con, hãy vững lòng, đức tin con đã làm cho con được lành. mat thi ơ 9:22.
nhưng các sách này cũng đề cập đến đức tin với 1 nghĩa rộng hơn. Mác 9:23 Kẻ nào tin thì mọi việc đều được cả.
cũng tương tự như vậy đức Chúa Jesus đã nói về có kết quả to lớn lu ca 17:6 Chúa đáp rằng: Nếu các ngươi có đức tin trộng bằng hột cải, các ngươi khiến cây dâu nầy rằng: Hãy nhổ đi mà trồng dưới biển, thì nó sẽ vâng lời.
Rõ ràng Chúa chúng ta yêu cầu chúng ta phải đặt đức tin mình nơi Ngài một cách cá nhân. Tiêu chuẩn đòi hỏi về đức tin đặc trưng của Cơ Đốc Giáo cuối cùng cũng dựa vào yêu cầu của chính Chúa.
(2) Trong sách Giăng , động từ pisteuo có 98 lần, điều lạ lùng là danh từ pistis lại không được sử dụng lần nào. Cách diễn đạt đặc trưng của ông là sử dụng với giới từ eis "tin vào', tin nơi. Điều quan trọng là mối liên kết giữa tín đồ và Đấng Christ. 'tin đến danh ' Đấng Christ. 'Danh là cách tóm gọn toàn bộ tính cách con người. tin đến Danh Đấng Christ có nghĩa là tin vào tất cả những đặc điểm có trong chính mình Ngài.
Nét đặc biệt trong lời dạy của Giăng là những vấn đề liên quan đến cõi đời đời được quyết định ngay trong hiện tại. Đức tin không chỉ ban cho con người một sự bảo đảm về sự sống đời đời ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Nó ban cho họ sự sống đời đời ngay tức thì. Khi tin Chúa , bản chất của chúng ta sẽ được Chúa biến đổi .
(3) Trong sách Công vụ, với câu chuyện xúc tiến truyền giáo mạnh mẽ ta không ngạc nhiên khi cách diễn đạt đặc trưng là cách dùng thì quá khứ bất định để mô tả hành động quyết định tin Chúa. lu ca ghi nhận nhiều trường hợp người ta đã đặt sự trông cậy trong đấng Christ . Những cách diễn đạt khác cũng được tìm thấy, nói đến cả hai trạng thái liên tục diễn tiến và kết quả vững bền của đức tin. nhưng đặc trưng vẫn là hành vi quyết định.
(4) Đối với Phao lô, đức tin là thái độ đặc thù của Cơ Đốc nhân. nó xuất hiện gắn liền với 1 số quan điểm chủ đạo của ông.
rô ma 1:16 Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giu-đa, sau là người Gờ-réc.
điều có ý nghĩa quan trọng đối với Phao lô là Cơ Đốc Giáo không chỉ là 1 hệ thống những lời khuyên tốt. tôn giáo này không những chỉ cho con người biết họ phải làm gì, mà còn ban quyền phép cho họ làm được điều đó. Nhiều lần Phao lô so sánh giữa lời nói và quyền năng , luôn luôn nhằm nhấn mạnh rằng quyền năng của Đức Thánh Linh, của Đức Chúa Trời được thể hiện trong đời sống của Cơ Đốc nhân. Quyền năng này chỉ thuộc về con người khi người đó tin. không có điều gì thay thế cho đức tin.
Văn chương tranh luận của Phao Lô phần nhiều xoay quanh cuộc tranh luận với người thân Do Thái Giáo. những người này nói Cơ Đốc Nhân chỉ làm báp têm thì chưa đủ . Họ còn phải làm phép cắt bì, giữ toàn bộ điều răn của Môi se. Những người này nghĩ vâng giữ luật pháp Môi se là điều kiện để được cứu rỗi. Phao lô không chấp nhận quan điểm này. Ông khẳng định rằng con người không thể làm gì để được sự cứu rỗi. Tất cả đều đã được Đấng Christ thực hiện , và không 1 ai có thể thêm điều gì vào sự hoàn hảo của sự cứu rỗi . Chính vì thế, Phao lô khẳng định rằng loài người được xưng công bình bởi đức tin.
Ông cực lực chống lại mọi quan điểm về tác dụng cứu rỗi bởi việc lành. Ông viết cho người Galati.
Dầu vậy, đã biết rằng người ta được xưng công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu, bèn là cậy đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ, nên chính chúng tôi đã tin Đức Chúa Jêsus Christ, để được xưng công bình bởi đức tin trong Đấng Christ, chớ chẳng bởi các việc luật pháp; vì chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc luật pháp (galati 2:16)
Rõ ràng đối với Phao Lô đức tin có nghĩa là sự từ bỏ tất cả việc nhờ cậy nơi khả năng của con người để giành lấy sự cứu rỗi. Nó là việc tiếp nhận với lòng tin cậy món quà của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ, một sự nương cậy nơi Đấng Christ, chỉ một mình Ngài mà thôi.
1 đặc điểm nổi bật khác trong thần học của Phao lô, là việc vị sứ đồ này dành 1 phần rất lớn để nói về Đức Thánh Linh. Ông nghĩ tất cả tín đồ đều có Đức Thánh Linh ngự trong lòng ( Rô ma 8: 9 ,14) và ông cũng kết nối điều này với đức tin.
Ê phê sô 1:13 Ấy lại cũng trong Ngài mà anh em sau khi đã nghe đạo chân thật, là đạo Tin lành về sự cứu rỗi anh em, ấy là trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa,
Ấn chứng tượng trưng cho dấu ấn quyền sở hữu . Thánh Linh trong kẻ tin là dấu hiệu quyền sở hữu của Đức Chúa Trời. Và dấu hiệu này chỉ được đóng trên những con người tin nhận Ngài. Sứ đồ Phao Lô triển khai tiếp rằng Đức Thánh Linh là sự đảm bảo cho cơ nghiệp thừa kế của chúng ta . Ở đây , Phao lô dùng từ ngữ vào thế kỷ thứ nhất có nghĩa là sự trả góp, tức là khoản tiền vừa là 1 phần trong giá trị đã được thoả thuận vừa là sự cam kết sẽ thanh thoán tiếp phần còn lại. Vì vậy , khi 1 người tin Chúa , người này nhận được Đức Thánh Linh như một phần của sự sống hầu đến và đồng thời như một bảo đảm rằng phần còn lại chắc chắn sẽ đến.
(5) Tác giả Hê bơ rơ nhận thấy rằng đức tin luôn là nét đặc trưng của dân sự Đức Chúa Trời. Trong gian trưng bày chân dung nổi tiếng của mình Hê bơ rơ 11:1-40 , ông lượt qua những tấm gương tốt trong quá khứ để cho thấy rằng những nhân vật này người nào cũng là ví dụ minh hoạ cho chủ đề lớn Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; Hê bơ rơ 11:6 . Ông đặc biệt quan tâm đến sự đối lập giữa đức tin với việc xem thấy. Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy. Hê bơ rơ 11:1 Ông nhấn mạnh rằng những người bề ngoài vốn không có gì có thể nhờ cậy được thì nắm chắc lời hứa của Đức Chúa Trời. nói cách khác, họ bước đi bởi đức tin chứ không phải bởi mắt thấy.
(6) Trong khi Phao lô khẳng định rằng con người được xưng công bình bởi đức tin chứ không bởi việc làm thì Gia Cơ vẫn cho rằng người ta cậy việc làm được xưng công bình, chớ chẳng những là cậy đức tin mà thôi. Gia cơ 2:24. Loại đức tin mà Gia cơ phản đối không phải là đức tin của mỗi cá nhân đặt nơi Cứu Chúa Hằng sống mà Phao lô nói đến.
Đức tin mà Gia Cơ mô tả là
Ngươi tin rằng chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, ngươi tin phải; ma quỉ cũng tin như vậy và run sợ. Gia cơ 2:19
Ý của ông nói đến 1 sự chấp nhận những lẽ thật nào đó bằng lí trí , 1 sự chấp nhận không được hậu thuẫn bởi đời sống tương xứng với những lẽ thật đó. (Gia cơ 2:15 tiếp theo).
Gia cơ không hề phản đối đức tin với ý nghĩa đầy đủ mà ông luôn nghĩ đến mọi trường hợp. Ngay trong phần mở đầu thư ông nói đến 'sự thử thách đức tin' 1 cách tự nhiên. (Gia Cơ 1:3) và khuyên "anh em đã tin đến Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa vinh hiển chúng ta, thì chớ có tây vị người nào." Gia 2:1
Ông phê bình 1 đức tin sai lạc nhưng cho rằng mọi người sẽ nhận ra mình cần phải có 1 đức tin đúng đắn . Hơn nữa khi nói "việc làm", Gia cơ không nói đến vâng theo luật pháp như 1 hệ thống mà nhờ đó con người được sự cứu rỗi. Đối với Gia cơ luật pháp là 'luật pháp tự do' (Gia 2:12). Những việc làm mà ông nói có nghĩa đặc biệt giống như trái của Thánh Linh mà Phao lô nói. Đây là những việc làm ấm áp của tình yêu thương xuất pháp từ 1 thái độ đúng đắn đối với Đức Chúa Trời. Đó là kết quả của đức tin.
Điều mà Gia cơ phản đối là nhận định cho rằng vẫn có đức tin trong khi không có kết quả nào để minh chứng cho điều đó.
Đức Tin rõ ràng là 1 trong những khái niệm quan trọng nhất trong toàn bộ Tân ước . Nơi đâu cũng đòi hỏi phải có đức tin và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đức tin.
Đức Tin có nghĩa là từ bỏ mọi sự trông cậy nơi năng lực của chính mình. Đức tin có nghĩa là đặt mình hoàn toàn vào sự nhơn từ thương xót của Đức Chúa Trời. Đức Tin có nghĩa là dựa nương trên những lời hứa của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ , nương cậy hoàn toàn vào công cuộc cứu chuộc đã hoàn tất của Đấng Christ, và trên quyền năng của Thánh Linh Đức Chúa Trời đang ngự trong lòng để có sức mạnh mỗi ngày. Đức tin ngụ ý nói về sự trông cậy hoàn toàn nơi Đức Chúa Trời và vâng phục Ngài hoàn toàn.
Trích "Thánh kinh tân từ điển"
I. Howard Marshall; A. R. Millard; J. I. Packer; D. J. Wiseman.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
