Đức Tin có nghĩa là từ bỏ mọi sự trông cậy nơi năng lực của chính mình. Đức tin có nghĩa là đặt mình hoàn toàn vào sự nhơn từ thương xót của Đức Chúa Trời. Đức Tin có nghĩa là dựa nương trên những lời hứa của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ , nương cậy hoàn toàn vào công cuộc cứu chuộc đã hoàn tất của Đấng Christ, và trên quyền năng của Thánh Linh Đức Chúa Trời đang ngự trong lòng để có sức mạnh mỗi ngày. Đức tin ngụ ý nói về sự trông cậy hoàn toàn nơi Đức Chúa Trời và vâng phục Ngài hoàn toàn.
Trong cựu ước, từ ngữ này chỉ được tìm thấy xuất hiện 2 lần trong bản dịch AV (phục truyền luật lệ ký 32:20; Ha ba cúc 2:4), Nhưng bản RSV sử dụng nó đến 18 lần, 12 lần nó được sử dụng chỉ về sự bất trung (vd Lê vi ký 5:15; Phục truyền luật lệ ký 32:51) hoặc hành động ngay thẳng (Quan xét 9:15) , trong khi 6 phân đoạn kia thì nói về sự tin cậy.
Tuy nhiên, chúng ta không nên kết luận từ việc xuất hiện ít ỏi của từ này để cho rằng trong Cựu Ước đức tin không quan trọng. Đức tin luôn được diễn đạt bằng bằng những động từ như "tin", "nhờ cậy" "trông cậy" mà những từ này thì xuất hiện rất nhiều.
Chúng ta có thể bắt đầu với Thi thiên 26:1 Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy đoán xét tôi, vì tôi đã bước đi trong sự thanh liêm, Tôi cũng nhờ cậy Đức Giê-hô-va, không xiêu tó. Thường người ta nói rằng Cựu Ước xem con người được cứu dựa trên nền tảng những việc họ làm, nhưng câu Kinh Thánh này đặt vấn đề trong cách nhìn đúng đắn của nó.
Tác giả Thi thiên này thật đã viện đến sự thanh liêm của mình, nhưng điều này không có nghĩa là ông nhờ cậy vào chính mình hoặc những việc làm của mình. Sự trông cậy của ông đặt trên Đức Chúa Trời. và sự "thanh liêm" của ông là bằng chứng cho sự trông cậy đó.
Cựu Ước là 1 quyển sách dài, và chân lý về sự cứu rỗi được nói bằng nhiều cách khác nhau. Các tác giả không phải lúc nào cũng phân biệt như cách chúng ta mong muốn khi chúng ta có quyển Tân ước trong tay. Nhưng nếu xét kỹ, chúng ta sẽ thấy được rằng trong Cựu Ước cũng như trong Tân ước, rõ ràng là tác giả Thi Thiên đang trông đợi 1 thái độ đúng đắn với Đức Chúa Trời, tức phải có đức tin.
đối chiếu Thiên thi 37:3  Hãy tin cậy Đức Giê-hô-va, và làm điều lành; Khá ở trong xứ, và nuôi mình bằng sự thành tín của Ngài. Cũng hãy khoái lạc nơi Đức Giê-hô-va, Thì Ngài sẽ ban cho ngươi điều lòng mình ao ước. 5 Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, Và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy. Ở đây tác giả Thi thiên không trông đợi điều gì khác ngoài 1 đời sống ngay thẳng. Nhưng cũng chắc chắn là về cơ bản, tác giả dạy phải có 1 thái độ. Ông kêu gọi loài người hãy đặt đức tin nơi Đức Chúa Trời, và đây chỉ là 1 cách khác để bảo họ phải sống bởi đức tin. Đôi khi con người được khích lệ tin cậy nơi Lời Đức Chúa Trời
Thi thiên 119:42  Vậy, tôi sẽ có thể đáp lại cùng kẻ làm sỉ nhục tôi; Vì tôi tin cậy nơi lời Chúa. nhưng thường thì đức tin nơi chính Ngài mới là điều cần phải có. châm ngôn 3: 5 5 Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con;
Phần sau của câu kinh thánh này chỉ trích việc nhờ cậy vào chính sức mình, và tư tưởng này rất thường thấy.
Châm ngôn 28:26 Kẻ nào tin cậy nơi lòng mình là kẻ ngu muội;
Ê xê chi ên 33:12 Hỡi con người, khá nói cùng con cái của dân ngươi rằng: Sự công bình của người công bình sẽ không cứu được nó trong ngày nó phạm tội, và sự dữ của kẻ dữ sẽ không làm cho nó sa ngã nơi ngày nó đã xây bỏ sự dữ ấy, cũng như người công bình sẽ không nhờ sự công bình đã qua rồi mà sống được nơi ngày mình phạm tội. ép ra im bị trừng phạt vì đã nhờ cậy "trong đường lối ngươi, trong muôn vàn người mạnh bạo của ngươi (Ô sê 10:13). Việc tin cậy thần tượng thường bị lên án (E sai 42:17; Ha ba cúc đoạn 2:18) .Giê rê mi cảnh báo chớ nên tin cậy vào loài người, lấy loài xác thịt làm nên cánh tay, mà lòng lìa khỏi Đức Giê hô va (Giê rê mi đoạn 17:5) Danh sách những điều mà con người không nên nhờ cậy còn có thể kể ra nhiều nữa, và ấn tượng hơn khi bên cạnh đó danh sách những phân đoạn kinh thánh khuyên con người tin cậy Đức Chúa Trời còn dài hơn. Rõ ràng con người thời cựu ước nghĩ về Đức Giê Hô Va như 1 đối tượng đáng tin cậy. Họ không đặt lòng tin nơi bất cứ điều gì họ làm, hoặc nơi người khác làm, hoặc những gì các thần đã làm. Sự trông cậy của họ chỉ đặt nơi Đức Giê hô va . Đôi khi điều này được mô tả rất giàu hình ảnh như Ngài là: " hòn đá tôi, đồn luỹ tôi, Đấng giải cứu tôi Đức Chúa Trời là hòn đá tôi, nơi Ngài tôi sẽ nương náu mình: Thi thiên 18:2.
Ta cần đề cập đặc biệt đến Áp ra ham. Toàn bộ đời sống của ông cho chúng ta bằng chứng về 1 tinh thần tin cậy trọn vẹn, và 1 đức tin sâu nhiệm. Về ông , kinh thánh có chép : " Áp-ram tin Đức Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người" Sáng thế ký 15:6.
còn tiếp
Trích "Thánh kinh tân từ điển" I. Howard Marshall, A. R. Millard, J. I. Packer, D. J. Wiseman.