Lần đầu tiên tôi tò mò về đất nước Tây Tạng là khi đọc xong cuốn Huyền Thuật Và Các Đạo Sĩ Tây Tạng của tác giả Alexandra David-Néel (bản do Nguyên Phong dịch). Cuốn sách này kể những câu chuyện huyền bí diễn ra trên mảnh đất Tây Tạng do nhà nữ thám hiểm người Pháp Alexandra David-Néel ghi lại trong những chuyến thám hiểm của bà.
Sau này, tôi mới biết những câu chuyện trong cuốn sách đó nửa thực nửa hư, vì bà tác giả Alexandra cũng là một nhà văn, và ông dịch giả Nguyên Phong là một tay chuyên dịch sách theo kiểu “phóng tác” (gọi nôm na là dịch không trung thành với nguyên tác, vừa dịch vừa thêm thắt ý kiến và những câu chuyên bên ngoài vào nhằm tăng thêm mức độ ly kỳ hoặc thuyết phục người đọc tin vào điều gì đó).
Mấy năm gần đây, khi tìm hiểu về Tây Tạng qua nhiều nguồn thông tin, tôi cảm thấy mảnh đất ấy giảm dần vẻ huyền bí, không còn hấp dẫn đối với tôi nữa.
Trước năm 1959 (* xem chú thích ở cuối bài viết), Tây Tạng theo chế độ thần quyền, theo đó:
- Trên 90% dân số mù chữ.
- Kinh tế của Tây Tạng chủ yếu là nông nghiệp tự cung tự cấp.
- Quý tộc, Lạt Ma, địa chủ và chủ nô, chiếm chưa đến 5% dân số, và họ làm chủ một diện tích đất đai rộng lớn ở Tây Tạng. Trong đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma và những người thân cận quanh ông là nhóm người nắm giữ nhiều tài sản và nô lệ nhất.
- 95% dân số còn lại được chia thành ba giai cấp: nông nô, nông nô đã phá sản, nô lệ.
- Luật pháp của Tây Tạng quy định rõ ràng địa vị pháp lý của mọi người là không bình đẳng. Chủ nô có thể làm mọi thứ với nô lệ của họ, các hình phạt chặ.t tay, chặ.t chân, mó.c mắt nô lệ rất phổ biến.
- Nhiều pháp khí mà các Lạt Ma sử dụng trong các hoạt động tôn giáo được làm từ chất liệu có nguồn gốc từ nô lệ. VD như trống d.a người, kèn làm bằng x.ương ống chân…
Khi người Trung Quốc đến và lật đổ chế độ Lạt Ma, họ áp đặt chế độ chuyên chế thế tục, trái ngược với chế độ chuyên chế thần quyền. Lần đầu tiên, chế độ nô lệ ở Tây Tạng bị xóa bỏ, những người nô lệ được giải phóng và được cấp quyền công dân. Người Trung Quốc mang đến học vấn, thương mại, luật pháp văn minh hơn và y tế. Tây Tạng bị công nghiệp hóa và hiện đại hóa một cách cưỡng bức, và quá trình đô thị hóa đang diễn ra. Nhưng chế độ chuyên chế của TQ không hề nhân từ, họ cai trị Tây Tạng bằng nắm đấm sắt. Người TQ đã thực hiện một số chính sách đồng hóa, phá hủy phần lớn di sản văn hóa và tôn giáo của Tây Tạng.
Trong cuốn Con Đường Mây Trắng của ông Lạt Ma người Đức Anagarika Govinda (bản dịch của Nguyễn Tường Bách) có nói đến sự kiện Trung Cộng kéo quân đến tiếp quản Tây Tạng, cướ.p bóc các tu viện, đậ.p ph.á những bức tượng cổ và những linh vật để tìm vàng (có cả ảnh chụp một pho tượng cổ bị khoét lỗ). Một phiên bản khác của cuốn sách trên là cuốn Đường Mây Qua Xứ Tuyết (bản dịch của Nguyên Phong) thì lại không hề nhắc đến sự kiện đó (có thể là do NXB ở VN kiểm duyệt, hoặc do Nguyên Phong dịch không trung thành với nguyên tác, bản dịch của Nguyên Phong mỏng hơn khá nhiều so với bản của Nguyễn Tường Bách).
Khi được hỏi “Tây Tạng tốt hơn khi nằm dưới sự cai trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma hay nằm dưới sự cai trị của Trung Quốc?” Một người Tây Tạng đã trả lời: “Câu hỏi này giống như bạn muốn bị bại liệt hay bị giang mai? So sánh với tình hình Tây Tạng trước khi Trung Quốc đến đây cai trị, tôi cho rằng sự cai trị của Trung Quốc ít tàn á.c hơn.”
Có thể nói, những giai cấp cao ở Tây Tạng như chủ nô, quý tộc, Lạt Ma và những người Tây Tạng đang sống lưu vong gần như không có thiện cảm với TQ, vì những người này bị chính quyền TQ cướ.p đi phần lớn tài sản, giải phóng hết nô lệ. Những loại tài sản mà TQ không thể mang đi hoặc ít có giá trị như đất đai, gia súc, hạt giống… thì họ chia cho dân nghèo và những người nô lệ vừa được giải phóng (do đó, những người này có thiện cảm với TQ hơn).

Nói thêm về Đức Đạt Lai Lạt Ma

- Đạt Lai Lạt Ma là một chức danh được nhiều người lần lượt nắm giữ qua nhiều thế hệ.
- Đức Đạt Lai Lạt Ma sống như một vị vua trong hệ thống thần quyền (ông có cung điện, kẻ hầu người hạ, người dân phải nộp thuế cho ông…) Điểm khác biệt duy nhất giữa ông và các ông vua phong kiến khác là chế độ của ông không theo quy tắc cha truyền con nối mà dựa trên nghi lễ tôn giáo. Tuy là người giàu nhất và nắm giữ quyền lực cao nhất ở Tây Tạng, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma rất ít quan tâm đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân, khiến Tây Tạng đi sau phần còn lại của thế giới hàng thế kỷ về mặt khoa học - công nghệ.
- Những câu chuyện về sự tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma qua các đời chỉ là “tương truyền” hoặc qua ghi chép của chính quyền Đạt Lai Lạt Ma. Truyền thông quốc tế và giới khoa học không thể kiểm chứng thực hư những câu chuyện trên. Có quan điểm cho rằng những câu chuyện ấy là do chính quyền của Đức Đạt Lai Lạt Ma thêu dệt nên để duy trì sự tôn sùng của dân chúng (đa số là mù chữ, thất học) vào người lãnh đạo cao nhất đất nước.
- Thiết chế Đạt Lai Lạt Ma của phái Gelugpa (có tài liệu viết là Gelukpa - phái Mũ Vàng) được duy trì suốt nhiều thế kỷ ở Tây Tạng. Do đó, phái Gelugpa ngày càng chiếm ưu thế trong cuộc cạnh tranh với những tông phái khác ở Tây Tạng như Nyingma, Kagyu, Sakya, Jonangpa, Bodongpa… Điều này đã gây không ít bất mãn cho các Lạt Ma thuộc những tông phái khác.
Tháng 9 năm 2014, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 tuyên bố ông có thể sẽ không tái sinh đồng thời chấm dứt luôn thiết chế Đạt Lai Lạt Ma để “dân chủ hóa và tránh gây ảnh hưởng xấu”.
Lý giải cho quyết định trên, có người suy đoán rằng ông không muốn chính quyền TQ lợi dụng việc tái sinh của ông để dựng lên một Đức Đạt Lai Lạt Ma bù nhìn trong tương lai. Có người thì cho rằng do ông đang sống lưu vong ở Ấn Độ, nếu ông tái sinh ở Tây Tạng thì các đệ tử của ông khó về Tây Tạng để rước ông đi (do Tây Tạng đã nằm dưới sự kiểm soát của TQ); nếu ông tái sinh ở ngoài Tây Tạng thì lại gặp khó khăn về mặt pháp lý ở đất nước sở tại khi các đệ tử của ông muốn mang đứa trẻ tái sinh ấy đi huấn luyện để trở thành một Đức Đạt Lai Lạt Ma mới.
Một người nô lệ ở Tây Tạng bị ch.ặt chân vì tội bỏ trốn
Một người nô lệ ở Tây Tạng bị ch.ặt chân vì tội bỏ trốn
Một người ở Tây Tạng bị chặ.t tay vì tội ăn cắ.p
Một người ở Tây Tạng bị chặ.t tay vì tội ăn cắ.p
Bữa ăn của những nô lệ ở Tây Tạng
Bữa ăn của những nô lệ ở Tây Tạng
Quý tộc ở Tây Tạng
Quý tộc ở Tây Tạng

Trở lại với câu hỏi ở tiêu đề bài viết: Đức Đạt Lai Lạt Ma có phải là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm?

Theo trang dalailama.com thì Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nhưng theo quan điểm của cá nhân tôi thì "KHÔNG". Tôi xem ông là một hình tượng được người ta xây dựng lên và thần thánh hóa để duy trì lợi ích nhóm và vị thế chính trị của phái Mũ Vàng (Gelugpa) ở Tây Tạng, thậm chí giải thưởng Nobel Hòa Bình từng được trao cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cũng mang nặng màu sắc chính trị (Henry Kissinger - nhà ngoại giao của Mỹ trong thời kỳ Mỹ xâm lược VN - cũng từng nhận giải Nobel Hòa Bình). Đức Đạt Lai Lạt Ma "tái sinh" để trở thành công cụ phục vụ mục đích chính trị của một phe phái. Và khi vị thế chính trị của phe phái ấy mất đi, việc "tái sinh" của ông không cần thiết nữa (tôi dùng chữ "tái sinh" trong ngoặc kép).

Chú thích:

(*) Mốc sự kiện Đức Đạt Lai Lạt Ma tị nạn sang Ấn Độ, sau cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của Trung Cộng ở Tây Tạng thất bại.

Một số nguồn tham khảo:

https://dotchuoinon.com/2012/10/22/tam-quan-trong-cua-giao-duc-phan-2/ https://info-buddhism.com/Human-Rights-in-Tibet-before-1959_Robert_Barnett.html https://thanhnien.vn/huyen-bi-chuyen-hoa-than-tai-sinh-cua-cac-lat-ma-185499831.htm https://vn.dalailama.com https://qr.ae/p2JKjH https://qr.ae/p2Js8j https://qr.ae/p2JMM0