Dân tộc Phù Lá có khoảng 9.000 người, còn có những tên gọi khác như: Lao Va Xơ, Bồ Khô Pạ, Xá Phó, Cần Thìn. Các nhóm địa phương có Phù Lá Lão, Phù Lá Đen, Phù Lá Hán, Bồ Khô Pạ. Ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến.
Il y a environ 9000 peuples Phu La, ils ont d'autres noms comme: Lao Va Xo, Bo Kho Pa, Xa Pho, Can Thin. Les groupes locaux sont Phu La Lao, Phu La Noir, Phu La Han, Bo Kho Pa. Sa langue comprend dans le groupe de la langue Tibet-Myanmar  
Nhóm Phù Lá Lão và Bồ Khô Pạ là dân cư có mặt sớm nhất ở Tây Bắc Việt Nam, còn các nhóm khác đến muộn hơn, cách nay khoảng 300 năm. Nhóm Phù Lá Hán cho tới những năm 40 của thế kỷ XX, vẫn còn đến tiếp. Họ sống tập trung ở các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu. Tùy từng nơi mà người Phù Lá ở nhà sàn hay nhà trệt.
Le groupe Phu La vieux et Bo Kho Pa existe le plus tôt dans les régions Nord-Ouest du Vietnam, et les autres y sont arrivés plus tard, depuis 300 ans. Le groupe Phu La Han est arrivé vers les années 40 du 20e siècle. Ils concentrent dans les régions Ha Giang, Lao Cai, Yen Bai, Lai Chau. Ça dépend des lieux, Les Phu La vivent dans les maisons sur pilotis ou sur la terre. 
Nguồn sống chính của người Phù Lá là làm nương rẫy và làm ruộng bậc thang. Họ có nghề đan rất khéo, với nhiều hoa văn, màu sắc, như các đồ dùng đựng quần áo, thức ăn... Người Phù Lá thường dùng nỏ và tên tẩm thuốc độc để săn bắn và có nghề trồng bông dệt vải.
La source de vie principale des Phu La est les champs et les rizières en terrasse. Il a un artisanat très agréable avec plusieurs motifs, couleurs comme des armoires ou des buffets… Les Phu La utilisent souvent l’arbalète avec les traits imprégnés le poison pour chasser et ils ont la culture des cotons. 
Armoire: tủ quần áo
Buffet: tủ thức ăn
Le trait: mũi tên
Imprégner: tẩm
Coton: bông
Em gái người Phù Lá
Em gái người Phù Lá
Người Phù Lá ăn cơm tẻ, ăn ngày nào giã gạo ngày ấy. Cơm nếp dùng vào những dịp lễ tết. Phụ nữ các nhóm khác nhau dùng y phục khác nhau. Nhóm Phù Lá Lão và Bồ Khô Pạ mặc váy, áo ngắn, có thêu và trang trí hạt cườm ở phần ngực, thắt lưng đính vỏ ốc núi. Các nhóm khác mặc quần, áo dài xẻ ngực, hay áo ngắn xẻ nách. Áo nam rất độc đáo, sau lưng đính nhiều hạt cườm.
Les Phu La mangent du riz long, Ils pilent du riz pendant les jours où ils en mangent. On mange du riz gluant pendant les fêtes. Les femmes des groupes différents portent des vêtements différents. Les femmes Phu La vieux et Bo Kho Pa portent une robe et une chemise courte qui a des broderies, décorée avec des perles sur la poitrine, elles mettent les coquilles des escargots de la montagne sur la ceinture. Les femmes des autres groupes portent un pantalon et une chemise longue fendue sur la poitrine, ou une chemise courte qui montre les bras. Les chemises des hommes sont également unique avec les perles en arrière. 
Fendue: xẻ 
Nhóm Phù Lá Lão và Bồ Khô Pạ đeo gùi qua trán, còn nhóm Phù Lá Hán và Phù Lá Đen mang gùi sau lưng, và dùng ngựa thồ làm phương tiện vận chuyển.
Le groupe Phu La vieux et Bo Kho Pa porte une panier sur le fond, et les groupes Phu La Han et Phu La Noir la porte sur le dos, et il utilise le cheval pour transporter. 
Trong các bản người Phù Lá, mối quan hệ hàng xóm láng giềng rất khăng khít. Trong những ngày mùa, các gia đình trong bản thường đổi công cho nhau, ăn chung với gia chủ vào buổi tối. Khi một gia đình nào đó có công việc trọng đại như cưới xin, ma chay... đều được hàng xóm giúp đỡ.
Dans les villages des Phu La, la relation des voisins est très proche. En saison, toutes les familles dans le village échangent souvent les travaux, mangent avec l’hôte en soirée. Quand une famille a un grand travail comme le mariage ou la funérailles…. Tout le monde va l’aider.
Trong bản có nhiều dòng họ khác nhau. Mỗi họ chia thành nhiều chi. Họ của người Phù Lá có âm Hán, Hán-Việt, Việt, Thái, ngoài ra còn có những người mang họ bằng tiếng Phù Lá. 
Il existe de nombreux clan de famille dans un village. Chaque clan classe de nombreuses branches. Le nom de famille des Phu La est en langue Chinois, Chinois-Vietnamien, Vietnamien, Thailandais, de plus il y a également des gens qui porte le nom de famille en langue Phu La
Về hôn nhân, trai gái được tự do tìm hiểu. Buổi tối các chàng trai thường tới nhà bạn gái chơi và các cô gái cũng đến nhà bạn trai chơi. Họ ngủ lại ở nhà khách, nơi dành cho những người chưa vợ, chưa chồng. Nếu họ yêu nhau, người con trai được vào ngủ chung với người yêu của mình. Sau vài đêm đi lại với nhau, nếu hai bên thật sự ưng ý, người con trai về ngủ ở nhà mình và đêm đêm người yêu tới ngủ chung. Sau đó làm lễ dạm hỏi, hỏi và cưới. Trong đám cưới có hát đối để được vào nhà đón và đưa cô dâu về nhà trai. Có tục co kéo cô dâu giữa nhà trai và nhà gái, tục vẩy nước bẩn và bôi nhọ nồi lên mặt các thành viên nhà trai trước khi ra về. Sau lễ cưới 12 ngày có tục lại mặt. Sản phụ có tục đẻ ngồi, không được ngủ trên giường mà ngủ trên đệm rơm. Nhau thai nhi được chôn dưới gầm giường. Khi sinh con, người nhà úp nón lên cột trước cửa làm dấu hiệu kiêng người lạ vào nhà. Sau khi sinh 12 ngày tiến hành lễ đặt tên cho trẻ.
En termes de mariage, les couples peuvent se connaître à l’aise. En soirée, les gars viennent souvent chez les filles et les filles viennent aussi chez les gars. Ils restent dans une maison pour les gens qui ne sont pas mariés. S’ils tombent amoureux, le gars peut dormir avec sa copine. Après quelques nuits ensemble, si tous les deux sont d’accord, le gars va rentrer chez lui et sa copine y vient pour dormir ensemble. Après, on fait la fiançaille et le mariage. En mariage, on chante en couplet alterné pour entrer chez l'épouse et l'amener chez le marié. On a la cérémonie de tirer l'épouse entre la famille de l’épouse et la famille du marié, d’asperger de l’eau sale et mettre la suie sur le visage des membres de la famille du marié. Après le mariage 12 jours, on a une cérémonie de réunion. L’épouse doit asseoir pour accoucher, elle ne doit pas dormir sur le lit, elle dort sur un coussin en paille. Le placenta est mis sous le lit. En faisant le bébé, toute la famille doit mettre le chapeau pointu sur un pilier pour faire un signe d’interdiction des visites des étrangers. Après 12 jours, on fait la cérémonie du nom du bébé. 
Chante en couplet alterné: hát đối
Asperger: vẩy
le coussin: đệm
Khi có người chết, thi hài được đặt giữa nhà, đầu quay vào bàn thờ. Nước rửa mặt cho người chết không được đổ mà để cho bốc hơi đi hết. Khi cúng cơm có bát cơm cắm đôi đũa, con gà (thui hoặc nướng, không cắt tiết, không rửa). Trong những ngày có tang cha hoặc mẹ, con cái trải đệm rơm ngủ hai bên quan tài. Quan tài độc mộc, không nắp, đậy bằng dát vầu hoặc bằng ván. Lễ viếng có kèn. Khiêng quan tài ra đến nơi chôn mới đào huyệt. Người Phù Lá thờ tổ tiên. Lễ cơm mới cúng nơi bàn thờ tổ tiên. Lễ cúng bản thường vào tháng 2 âm lịch. Người Phù Lá ăn Tết Nguyên đán và các tết mồng 5 tháng 5, rằm tháng 7.
Quand il y a un défunt, son corps est mis au milieu de la maison avec la tête tournée vers l’autel. L'eau pour laver le visage du défunt ne doit pas être versée mais laissée s'évaporer. Lors de la cérémonie de repas, on doit préparer un bol planté des baguettes, le poulet ( grillé, sans couper le cou et laver). Pendant les jours de funérailles du père ou de la mère, les enfants doivent mettre un coussin en paille aux 2 côtés du cercueil. Le cercueil est unique, sans couvercle, on couvre en assiette dát vầu ou en planche. On joue la trompette en cérémonie de condoléance et on porte le cercueil jusqu'au lieu où on a déjà creusé pour l’enterrer. Les Phu La font le culte des ancêtres. La cérémonie du nouveau riz est organisée à l’autel des ancêtres. La cérémonie de culte villageois se passe vers le février lunaire. Les Phu La ont le Têt lunaire et des Têt 5 mai, la pleine lune juillet. 
Verser: đổ
Évaporer: bốc hơi
La cérémonie de repas: cúng cơm
Planter: cắm
Le jour de funéraille: ngày để tang
Planche: tấm ván
Cérémonie de condoléance: lễ viếng tang
Vốn văn nghệ người Phù Lá rất phong phú, có nhiều chuyện cổ tích. Trai gái thích hát giao duyên, hát đối đáp và biết múa xòe. Nhạc cụ có kèn, trống.
Les arts littéraires des Phu La sont très riches avec plusieurs contes des fées. Les couples aiment chanter en duo, chanter en couplet alterné et danser en cercle
L’art littéraire: văn nghệ
Chanter en duo: hát giao duyên
Danser en cercle: múa xòe