Nói không ngoa khi Đông Kinh Nghĩa Thục đã đặt nền móng cho nền giáo dục hiện tại của Việt Nam. Đó là ngôi trường của những “lần đầu tiên” - Lần đầu tiên có một trường ở Việt Nam từ bỏ lối học chuộng văn chương lỗi thời sang tư duy “giáo dục khai phóng” đậm chất Phương Tây, lần đầu tiên một trường mang tư tưởng duy tân được công khai hoạt động ở An Nam, và còn nhiều hơn thế nữa… 

I. BỐI CẢNH LÚC BẤY GIỜ

Hầu hết người dân thời đó vẫn chìm trong lối cổ học đề cao Hán học, suốt ngày vùi đầu đọc lấy đọc để Kinh Thư, Tứ Thư chỉ với một mục đích duy nhất là lấy được danh tiếng khoa cử. Hệ quả là, dân ta không chỉ mụ mị trong những hủ tục lỗi thời, lạc hậu mà còn thiếu kiến thức về văn minh thế giới đến nỗi một người uyên bác như cụ Phan Bội Châu lần đầu đi Nhật cũng thật sự choáng ngợp trước “bầu trời rộng lớn ngoài miệng giếng”. 
Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX cũng đang trong giai đoạn chuyển mình với sự du nhập mạnh mẽ của văn hoá Phương Tây mang đến bởi thực dân Pháp, góp phần khơi dậy trong nhiều thanh niên sự phản biện với hệ giá trị cũ của dân tộc và mong muốn thay đổi những quan niệm ấy của xã hội. 

II. KHỞI ĐẦU

Đầu năm 1906, sau chuyến đi Nhật vài tháng, qua quá trình tiếp xúc với các giáo sư trong Khánh-Ứng nghĩa thục (Keio Gijuku (慶應義塾) – nơi đào tạo nên các nhà cải cách duy tân của nước bạn – cũng như trực tiếp khảo sát phương pháp tổ chức ở ngôi trường này, cụ Phan Châu Trinh về nước cùng bàn với cụ Lương Văn Can để thành lập nên một mô hình nghĩa thục tương tự như ở Khánh Ứng.
Cụ Lương Văn Can - Hiệu trưởng trường Đông Kinh Nghĩa Thục
Cụ Lương Văn Can - Hiệu trưởng trường Đông Kinh Nghĩa Thục
Ít tháng sau, cụ Phan Bội Châu cũng từ Nhật về; thế nên 2 cụ Phan, cụ Lương Văn Can và cụ Tăng Bạt Hổ họp lại tại nhà cụ Lương ở số 4 Hàng Đào và quyết định lập nên Đông Kinh Nghĩa Thục. Đông Kinh ở đây nghĩa là phía đông kinh đô còn Nghĩa thục là trường làm việc nghĩa, do vậy mà đây đơn giản là trường làm việc nghĩa ở phía đông Kinh Đô.
Ngôi nhà bên phải với ba vòm cửa màu trắng tại số 4 phố Hàng Đào, Hà Nội là trụ sở trường Đông Kinh nghĩa thục.
Ngôi nhà bên phải với ba vòm cửa màu trắng tại số 4 phố Hàng Đào, Hà Nội là trụ sở trường Đông Kinh nghĩa thục.
Mục đích thành lập trường gói gọn trong cụm từ “khai trí cho dân” nhưng lại bao hàm các nghĩa sau:
1) Đưa dân thoát khỏi những hủ tục, mụ mị của lối cổ học quanh quẩn trong vòng chữ nghĩa thi-cử Hán học. Lối học ấy theo cụ Phan Bội Châu là khiến dân xứ mình suốt đời chỉ biết mỗi Trung Quốc, mà hạn chế của nó được giải quyết bởi lớp nghĩa tiếp theo;
2) Khai mở trí tuệ, tầm hiểu biết về thế giới của người dân: dạy họ về địa lý để biết đến nhiều quốc gia Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc..., dạy họ về cách suy nghĩ, tư duy có tổ chức và hệ thống của ngoại quốc;
3) Đào tạo nên một thế hệ nồng nàn tinh thần duy tân, cứu nước không chỉ bằng đánh nhau; qua đó bồi dưỡng nhân tài, bồi đắp dân khí cho công cuộc chống ngoại xâm của nước nhà.
Từ khi nghe tin mở trường, người dân ai nấy đều hết thảy mong ngóng đến ngày khai giảng để chứng kiến trường “nghĩa thục” đầu tiên của nước ta trông ra sao. Càng đáng mong chờ hơn cả là vì dàn giáo sư toàn những cử nhân, tú tài, danh sĩ tâm huyết với nghề giáo và công cuộc duy tân đất nước. Thế là, tháng 3 năm 1907, hai lớp học đầu tiên được mở, với một lớp nam sinh và một lớp nữ sinh. Việc mở lớp cho nữ sinh thật sự là một cải cách đột phá, khẳng định tinh thần bài trừ lệ cũ “trọng nam khinh nữ” đồng thời tạo điều kiện để nữ sinh đóng một vai trò trong xã hội, qua đó mà chấn hưng lại nhân sinh quan mới cho phụ nữ.
Một lớp học của trường Đông kinh Nghĩa thục
Một lớp học của trường Đông kinh Nghĩa thục
Đến tháng 5 năm đó, Đông Kinh Nghĩa Thục nhận được giấy phép hợp pháp bởi Thống sứ Bắc kỳ để dạy học công khai, trở thành trường mang tư tưởng duy tân đầu tiên được hoạt động công khai tại An Nam lúc bấy giờ.

III. 5 ĐIỂM ĐẶC BIỆT TRONG TRIẾT LÝ GIÁO DỤC

<1> Dạy miễn phí với tinh thần nghĩa thục (tức là trường làm việc nghĩa): Đây là một điểm cực kỳ quan trọng, giúp xóa bỏ rào cản tài chính, mở rộng cơ hội học tập cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là người nghèo, thể hiện tinh thần vì dân, vì nước.
<2> Đề cao lối học thực nghiệm:
Ngay từ mục tiêu mở trường đã khẳng định sự khác biệt trong đường lối của trường. Đông Kinh Nghĩa Thục chủ trương dạy để biết, để làm và để sáng tạo ra sáng kiến mới, đặc biệt là những sáng kiến mang tính cách mạng, chấn hưng đất nước. Qua đó cho rằng lối học chạy theo bằng cấp, khoa cử là không cần thiết; trái lại, việc quan trọng là cần phổ cập kiến thức phổ thông và tri thức có thể áp dụng trong thực tế. Nhà trường khuyến khích học sinh tự nghiên cứu, thảo luận, và áp dụng kiến thức vào cuộc sống, thay vì chỉ học thuộc lòng kinh điển.
<3> Chỉ trích Kinh Thư và những hủ bại của lối học cũ:
Trường mạnh dạn phê phán những giáo điều cũ kỹ, lạc hậu của Nho giáo, đặc biệt là Hiếu Kinh Khổng Tử và các tác phẩm kinh điển khác mà trước đây được coi là kim chỉ nam cho mọi tri thức. 
Chẳng hạn, trong một đoạn trích từ sách “Đông kinh nghĩa thục” của Nguyễn Hiến Lê, tác giả hớm hỉnh bình luận về cách chỉ trích của các “giáo sư tân học” về câu “Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm huỷ thương” 
“Đức Khổng nói vậy thì ta phải hiểu là hồi nhỏ không nên chơi dao, leo cao cho ngã mà sinh ra vết tích, lớn lên thì đừng làm việc trái phép cho bị hình phạt còn những chất dơ, chứa thừa trong mình bài tiết ra, như tóc như móng tay mà cũng không cắt nữa, để làm cái tổ cháy, cái chỗ chứa ghét thì không phải là hiếu mà là ngu, chi ngu”. 
Cứ vậy mà các cụ nhà ta bắt từ chuyện để móng tay dài, búi tóc củ hành đến hủ tục nhuộm răng, chọn ngày tốt để tắm. Tất cả đều nhằm phê phán sự tụt hậu, lỗi thời của những quan niệm xưa. 
<4> Dạy cả tiếng Pháp và tiếng Hán nhưng…
Mặc dù Đông Kinh Nghĩa Thục là một trường mang tinh thần yêu nước và chống Pháp, nhưng họ vẫn đưa tiếng Pháp và tiếng Hán vào chương trình giảng dạy. Tuy nhiên, việc dạy hai ngôn ngữ này không nhằm mục đích phục vụ chế độ thực dân hay duy trì tư tưởng phong kiến. Thay vào đó, tiếng Pháp được dạy để tiếp cận tri thức khoa học, kỹ thuật, và tư tưởng tiến bộ từ phương Tây, giúp học sinh mở rộng tầm nhìn ra thế giới. Tiếng Hán vẫn được giữ lại nhưng với mục đích nghiên cứu và phê phán những mặt hạn chế của Hán học cổ truyền, đồng thời giúp học sinh hiểu rõ hơn về văn hóa và lịch sử phương Đông để có cái nhìn tổng thể, không bị bó hẹp. Nhà trường đặc biệt chú trọng việc dạy tiếng Việt, khuyến khích sử dụng chữ Quốc ngữ, coi đây là công cụ quan trọng để truyền bá tri thức rộng rãi trong quần chúng và xây dựng nền văn hóa dân tộc. <5> Hun đúc lòng ái quốc:
Trong giờ học lịch sử, hễ cứ thấy hai chữ “thiên triều” để chỉ Trung Hoa thì các giáo sư sẽ bôi kín chỗ đó mà giảng một hồi về tinh thần tự cao của Trung Quốc và tinh thần tự ti của dân tộc ta, để rồi kết luận mạnh mẽ rằng ta phải bỏ tinh thần tự ti với Trung Hoa mà cũng đừng nên có cái thói tự cao mù quáng như họ. 
Các giáo sư ở Nghĩa Thục cũng rất hay viết những bài nhạc ái quốc để cổ động học sinh. Đơn cử như một đoạn trích sau trong bài A-tế-á: 
Ngồi mà ngẫm thêm sầu lại tủi, 
Nước Nam ta gặp buổi truân chuyên
Dã man quen thói ngu hèn
Nhật Bản Minh Trị dĩ tiền khác đâu 
Tự giống khác mượn mày bảo hộ
Mưu hùm thiêng lo lũ cáo già 
Non sông thẹn với nước nhà 
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu 
Nỗi diệt chủng vừa thương vừa sợ 
Nòi giống ta chắc có còn không ?

IV. TÁC ĐỘNG VÀ KẾT CỤC

Đông Kinh Nghĩa Thục nhanh chóng trở thành một hiện tượng, thu hút hàng ngàn học sinh và sự quan tâm của đông đảo quần chúng. Không chỉ là một trường học, đây còn là một trung tâm truyền bá tư tưởng duy tân, yêu nước, tổ chức các buổi diễn thuyết, bình văn, xuất bản báo chí để nâng cao dân trí và cổ vũ tinh thần độc lập dân tộc. Người dân thời đó vẫn râm ran bài thơ 
Trường Nghĩa-thục đứng đầu dạy dỗ, 
Khắp ba mươi sáu phố Hà Thành, 
Gái trai nô-nức học-hành, 
Giáo-sư tám lớp; học-sinh non ngàn.
Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng của Đông Kinh Nghĩa Thục đã khiến chính quyền thực dân Pháp lo ngại. Họ coi đây là một mối đe dọa lớn đối với nền cai trị của mình. Tháng 12 năm 1907, chỉ sau vài tháng hoạt động, Đông Kinh Nghĩa Thục đã bị thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa. Nhiều giáo sư và thành viên của trường bị bắt bớ, tù đày.

V. DI SẢN

Mặc dù tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn 9 tháng nhưng Đông Kinh Nghĩa Thục đã để lại một di sản vô cùng to lớn trong lịch sử giáo dục và phong trào yêu nước Việt Nam. Trường là ngọn cờ đầu trong công cuộc khai trí, đổi mới tư duy, và truyền bá tinh thần duy tân. Nó đã chứng minh sức mạnh của giáo dục trong việc thức tỉnh dân tộc, đặt nền móng cho sự phát triển của nền giáo dục hiện đại và góp phần hun đúc ý chí đấu tranh giành độc lập cho đất nước. Tinh thần của Đông Kinh Nghĩa Thục vẫn còn sống mãi, là biểu tượng của khát vọng tự cường và đổi mới của dân tộc Việt Nam.
*******
Nguồn dẫn: Đông kinh Nghĩa Thục | Nguyễn Hiến Lê
Thông tin liên hệ: > Email: [email protected] > Facebook: https://www.facebook.com/AnnamDejaVu.project Kênh thông tin chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý, chỉnh sửa từ quý độc giả để giúp kênh ngày càng phát triển!