Viva la Vida là bài hát do nhóm nhạc rock nước Anh Coldplay phát hành vào năm 2008. Chắc chắn mỗi người trong chúng ta đều đã biết đến và lắng nghe những giai điệu của bài hát này ít nhất một lần. Bản thân mình cũng là một fan hâm mộ của Coldplay nói chung và bài hát Viva la Vida nói riêng. Trong một lần trên Spiderum, mình tình cờ kiếm được một bài viết phân tích về bài hát Viva la Vida của một bạn có tên tài khoản là Miinnn (Link bài viết này mình sẽ đính kèm cuối bài). Đại ý bài phân tích, bạn Miinnn cho rằng bài hát Viva la Vida phê phán và đả kích đạo Thiên Chúa nói chung và Công giáo nói riêng. Sau khi đọc xong bài viết, mình không đồng ý với quan điểm của bạn Miinnn. Nên hôm nay, mình xin được phân tích bài hát Viva la Vida dưới góc nhìn của mình.


1) Giới thiệu chung:


"Viva la vida" là một cụm từ tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa "Cuộc sống trường tồn" (Long live life). Bài hát nói về cuộc cách mạng thông qua góc nhìn của vị cựu vương bị lật đổ bởi chính cuộc cách mạng ấy. Và một khi đã mất hết quyền lực, vị vua mới nhận ra được "cuộc sống trường tồn" thật sự nơi Nước Trời. 

2) Phân tích lời bài hát:

Verse 1:

I used to rule the world
Seas would rise when I gave the word
Now in the morning I sleep alone
Sweep the streets I used to own
I used to roll the dice
Feel the fear in my enemy's eyes
Listen as the crowd would sing
Now the old King is dead, long live the King
One minute I held the key
Next the walls were closed on me
And I discovered that my castles stand
Upon pillars of salt and pillars of sand

 I used to rule the world - Ta từng thống trị cả thế giới
Seas would rise when I gave the word - Biển cả phải dậy sóng mỗi khi ta gọi tên
Mở đầu bài hát là sự hồi tưởng về quá khứ của vị cựu vương, một quá khứ đầy quyền lực. "Biển cả dậy sóng" chính là hình ảnh ẩn dụ cho thấy quyền lực ấy to lớn đến nhường nào.
Now in the morning I sleep alone - Giờ đây chỉ có mình ta mỗi sớm mai
Sweep the streets I used to own - Lang thang trên những nẻo phố từng thuộc về ta
Trái ngược với quá khứ là hiện thực phũ phàng khi những quyền lực to lớn đều đã tan bay theo gió. Có ý kiến cho rằng câu hát này đề cập đến Phổ Nghi - vị hoàng đế cuối cùng của Trung Hoa. Trong những năm tháng cuối đời của mình, Phổ Nghi đã làm nghề công nhân quét đường (street sweeper). Lời bài hát mang đầy tính mỉa mai, khi người từng sở hữu cả vương quốc giờ lại mang thân phận hèn kém như những người quét đường.
I used to roll the dice - Ta từng gieo những viên xúc sắc định mệnh
Feel the fear in my enemy's eyes - Cảm nhận nỗi sợ qua ánh mắt quân địch
"Ta từng gieo những viên xúc sắc định mệnh" ám chỉ đến câu nói của Caesar - nhà độc tài của Cộng Hòa Lã Mã - khi ông chuẩn bị vượt sông Rubicon với đội quân của mình: “alea iacta est” (Viên xúc sắc đã được gieo). Câu nói mang ý nghĩa "một việc gì đó đã được quyết định". Việc vượt sông Rubicon là nguyên nhân trực tiếp gây nên nội chiến La Mã với kết quả là chiến thắng thuộc về Caesar. Ở đây chúng ta có thể hiểu, Caesar cho rằng ông tự nắm trong tay vận mệnh của chính mình.
TeamPurple Political Explainer (9/5)– “Crossing the Rubicon” – TPMN
(Caesar vượt sông Rubicon cùng với đội quân của mình)
Listen as the crowd would sing - Lắng nghe đám đông hò reo
Now the old King is dead, long live the King - Vị cựu vương đã băng hà, nhà vua vạn tuế

Đọc thêm:

Đây là lúc nhà vua được trao sức mạnh, bắt đầu triều đại của mình.
One minute I held the key - Giây phút ta nắm giữ chiếc chìa khóa
Next the walls were closed on me - Mọi thứ đóng lại trong thoáng chốc.
Chiếc chìa khóa được đề cập ở đây là chiếc chìa khóa Nước Trời mà Chúa Jesus hứa trao ban cho Thánh Phêrô.
Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy - Matthew 16:19
Nhà vua trong bài hát cảm thấy như mình được trao chiếc chìa khóa Nước Trời đầy quyền lực. Tuy nhiên, mọi thứ xảy ra vô cùng nhanh chóng. Chẳng bao lâu sau khi có được quyền lực, mọi thứ đã đóng lại với ông. "The walls are closing in" là thành ngữ chỉ về việc một người đang trong tình trạng khó khăn, dường như không còn cơ hội hay hy vọng nào.
Entrega de las llaves a San Pedro (Perugino).jpg
(Bức Tranh "Chúa Jesus trao chìa khóa nước trời cho thánh Phêrô" của họa sĩ người Ý  Pietro Perugino)
And I discovered that my castles stand - Và ta nhận ra tòa lâu đài của mình
Upon pillars of salt and pillars of sand - Được xây trên cát bụi và muối đất
Để hiểu ý nghĩa câu hát, chúng ta hãy đọc qua 2 đoạn này trong Kinh Thánh:
Sô-đôm là nơi một người tin Chúa tên là Lót đến lập nghiệp. Thành Sô-đôm kế cận thành Gô-mô-rơ. Ông Lót là người giàu có và ông đã chọn đến tại thành Sô-đôm để trú ngụ vì thành rất giàu dầu ông biết dân thành nầy có đời sống rất tội lỗi. Vì dân thành nầy vô cùng gian ác nên Đức Chúa Trời muốn hủy diệt thành bằng lửa, nhưng Ngài vẫn muốn cứu Lót và gia đình ông. Chúa cho hai thiên sứ đến để đưa gia đình ông ra khỏi thành. Lót gặp hai người khách lạ nầy đến nên ông mời họ tạm trú ở nhà mình, ông không muốn họ trú ngụ qua đêm trong các quán trọ, vì ông biết dân thành nầy rất hung ác và có thể hiếp đáp hoặc hành hung họ. Nhưng dân trong thành biết được nhà ông có khách lạ nên họ kéo đến vây hãm nhà ông Lót và đòi ông giao hai người khách ra cho chúng tra khảo để biết tông tích và hành vi họ và làm nhục họ cách tàn bạo. Lót từ chối. Các thiên sứ làm cho bọn hung bạo hóa mù, và họ kéo vợ chồng Lót và hai người con gái chạy ra khỏi thành trong đêm tối. Liền sau đó, diêm sinh từ trời phát xuống và thiêu cháy thành. Bà Lót vì nuối tiếc tài sản của mình, trái lời dặn của thiên sứ, chồn bước quay nhìn lại, thì bị biến thành tượng muối.


Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời ta phán đây, thì giống như người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá. Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không sập, vì đã cất trên vầng đá. Kẻ nào nghe lời ta phán đây, mà không làm theo, khác nào như người dại cất nhà mình trên cát. Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy, thì bị sập, hư hại rất nhiều.– Matthew 7: 24-27
Tòa lâu đài ở đây chính là quyền lực của nhà vua. Ông đã nhận ra quyền lực mà ông cất công xây dựng bấy lâu đều dựa trên những kẻ phản bội và những kẻ ngu dại. Trong phút chốc, quyền lực ấy đã hóa thành hư vô.

Verse 2:
It was the wicked and wild wind
Blew down the doors to let me in
Shattered windows and the sound of drums
People couldn't believe what I'd become
Revolutionaries wait
For my head on a silver plate
Just a puppet on a lonely string
Oh who would ever want to be king?

                          It was the wicked and wild wind - Tựa cơn gió hoang dại đầy tàn bạo
Blew down the doors to let me in - Thổi tung mọi cánh cửa dẫn lối ta đi
"Con gió hoang dại" là hình ảnh ẩn dụ cho những kẻ đem lại quyền lực cho nhà vua. Hay nói cách khác đó chính là những kẻ muốn lợi dụng ông sau này.
Shattered windows and the sound of drums - Những ô cửa sổ vỡ tan và tiếng trống trận
People couldn't believe what I'd become -  Không ai tin nổi vào mắt mình ta đã trở nên thế nào

Đọc thêm:

Nhà vua bắt đầu sử dụng quyền lực thông qua đàn áp (ô cửa sổ vỡ tan) và chiến tranh (tiếng trống trận) để đạt lấy mọi thứ mình muốn. Nhân dân không ai tin nổi vào mắt mình khi vị vua mà mình từng tung hô hò reo lại trở thành một tên hôn quân.
Revolutionaries wait - Những nhà cách mạng đợi chờ
For my head on a silver plate - Để được thấy thủ cấp ta trên chiếc khay bạc
Bất bình trước vị vua tàn bạo, nhân dân bắt đầu đứng dậy đấu tranh chống lại ông. Nhiều khả năng nhân vật được đề cập đến trong câu hát này là Louis XVI - vua của nước Pháp trong giai đoạn 1774 tới 1792. Ông bị hành hình trong cuộc cách mạng Pháp, đánh dấu sự ra đời của nền Đệ nhất Cộng hòa nước này.
(Vua Louis XVI bị hành hình tại Quảng trường Concorde)
Just a puppet on a lonely string - Như con rối nhảy múa trên dây
Oh who would ever want to be king? - Ôi ai lại muốn trở thành vua cơ chứ ?
Tưởng như mình nắm trong tay quyền lực tuyệt đối. Nhưng không! Vị vua đã nhận ra ông không khác nào con rối ngồi trên ngai vàng, bị điều khiển bởi các phe phái quyền lực. "Ôi ai lại muốn trở thành vua cơ chứ ?" vừa như một lời hối tiếc muộn màng vừa như một lời tự trách mình của ông. 



Chours:
I hear Jerusalem bells are ringing
Roman Cavalry choirs are singing
Be my mirror, my sword and shield
My missionaries in a foreign field
For some reason I can't explain
I know Saint Peter won't call my name
Never an honest word
But that was when I ruled the world


I hear Jerusalem bells are ringing - Ta nghe thấy tiếng chuông Jerusalem từng hồi ngân vang
Roman Cavalry choirs are singing - Những kỵ binh La Mã cùng hop lại và tung hô 
Khi đã mất hết quyền lực, vị vua mới nhận ra được ai là hoàng đế thật sự: Đức Chúa Trời. Tiếng chuông Jerusalem ngân vang như sự báo hiệu của Nước Trời đang đến (Trong quan niệm Thiên Chúa Giáo, Jerusalem được xem là vùng đất thánh). "Roman Cavalry" "Kỵ Binh La Mã"; "choirs""dàn hợp xướng" (trong nhà thờ). Tuy nhiên, Roman Cavalry choirs không có nghĩa là dàn hợp xướng của Kỵ binh La Mã. Ở đây, tác giả sử dụng cụm từ này với ý nghĩa: những Kỵ Binh La Mã cùng họp lại và cùng nhau chúc tụng, vinh danh Đức Chúa Trời. Trong giai đoạn Chúa Jesus xuống thế làm người , quân đội La Mã được xem là quân đội hùng mạnh nhất. 
Be my mirror, my sword and shield - Hãy trở nên tấm gương, chiếc khiên và thanh gươm của ta
My missionaries in a foreign field - Những nhà truyền giáo của ta nơi miền xa xôi 
Đây có thể là lời Thiên Chúa nói với nhà vua, như những lời đã ghi trong Kinh Thánh:
Anh chị em là con cái yêu dấu của Thượng Đế, vậy hãy trở nên giống như Ngài                                                                                                                                                                          - Ephesians 5

Luôn luôn dùng đức tin làm thuẫn; nhờ đó anh em có thể dập tắt được mọi tên lửa của ma quỷ. Hãy đội mũ của sự cứu rỗi và cầm gươm của Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời.
                                                                                                                                        -Ephesians 6:16-17 


Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần                                                                                                                                                                                                                                             - Matthew 28:19
Thông qua biến cố này, Thiên Chúa muốn nhà vua hồi tâm, quay về với con đường chân chính, trở nên như Ngài (tấm gương), chiến đấu cho Ngài (chiếc khiên và thanh gươm). Ngài cũng muốn vị vua hãy đi tới những miền xa xôi và rao giảng về Ngài như những nhà truyền giáo
For some reason I can't explain - Những lý do ta chẳng thể giải thích
I know Saint Peter won't call my name - Ta biết rằng thánh Phêrô sẽ không gọi tên ta
Nhà vua tự cảm thấy sâu thẳm trong bản ngã, những việc làm của mình khi xưa là hoàn toàn sai trái. Sau khi nghe những lời Thiên Chúa nói, ông cho rằng mình không xứng đáng được hưởng nước Trời (Thánh Phêrô sẽ không gọi tên ta, như đã nói ở trên Thánh Phêrô là người nắm giữ chiếc chìa khóa Nước Trời). Nhưng sự thật là Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi cho ông (câu trên). Trong Kinh Thánh, Thánh Phaolô khi xưa cũng là người tội lỗi. Nhưng thông qua một biến cố, ông đã quy đạo và cũng được Chúa Jesus sai đi rao giảng về Ngài như vị vua trong bài hát.
“Hãy đi, vì Thầy sẽ sai con đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22,21)

Never an honest word - Không một lời thành thật nào cả
But that was when I ruled the world - Đó là lúc ta thống trị thế gian
Cuối cùng nhà vua tự kết luận, những quyền lực ông từng có chỉ là hư ảo, giả dối. Bây giờ, ông đã nhận ra được chân lý thật sự: 

Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.                                                                                        - Đnl 6:4


3) Kết:

Viva la Vida tựa như một bộ phim tư liệu, cho người nghe thấy được hành trình nhận biết Đức Chúa Trời của nhà vua đã diễn ra như thế nào. Môt hành trình trở về từ lầm lạc như trong Dụ ngôn Đứa con hoang đàng. Dù có phần muộn màng, nhưng Thiên Chúa vẫn rộng lòng tha thứ 
Các ngươi hãy giữ lấy mình. Nếu anh em ngươi đã phạm tội, hãy quở trách họ; và nếu họ ăn năn, thì hãy tha thứ. Dầu trong một ngày, họ phạm tội cùng ngươi bảy lần và bảy lần trở lại cùng ngươi mà nói rằng: Tôi ăn năn, thì hãy tha tội cho họ. - Luca 15:20

Xin cảm ơn các bạn đã dành ra thời gian để đọc bài viết này của mình. Chúc các bạn có một ngày đầy vui vẻ và hạnh phúc ^^