Điều gì đã tạo nên một Madam Bình - NỮ CHÍNH TRỊ GIA ĐẦU TIÊN của Việt Nam ĐẶT BÚT KÝ HIỆP ĐỊNH PARIS trên bàn đàm phán?
"Người Mỹ có thể lên Mặt Trăng và trở về an toàn. Còn sang Việt Nam, thì chúng tôi không chắc!" - Chắc hẳn bạn đã ít nhất một lần nghe câu đối đáp bất hủ của nữ ngoại giao - chính trị xuất sắc nhất của Việt Nam: Nguyễn Thị Bình
Ngày nay, chúng ta nói về “tự do” như một khái niệm trừu tượng: Tự do trong tâm trí khi có quá nhiều lời thì thầm nói rằng chúng ta nên làm gì và không nên làm gì, hoặc tự do trong hành động khi đang sống trong một xã hội với nhiều định kiến, kỳ vọng.
Trong lúc vẫn còn loay hoay tìm cách gỡ rối những xiềng xích vô hình bên trong, tôi vẫn nhận biết được bản thân mình đang được hưởng một đặc quyền to lớn: Tôi đang sinh sống ở một đất nước tuy nhỏ bé, nhưng đã giành được sự Độc lập - Tự do nhờ công sức của biết bao thế hệ đi trước.
Mỗi khi nghĩ về chiến tranh, tôi thường giả định một con người nhỏ bé, bình thường như mình nếu được trở về thời chiến, sẽ suy nghĩ ra sao, làm được gì để có thể chung tay góp sức vào công cuộc giải phóng dân tộc. Có lẽ câu hỏi này đã dẫn tôi đến với bà Nguyễn Thị Bình - người phụ nữ đầu tiên và duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định Paris 1973 - văn kiện lịch sử buộc Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam.
Hẳn đương nhiên, tôi biết bà là một trong những tên tuổi tầm cỡ như cụ Lê Đức Thọ, Xuân Thủy, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Cơ Thạch và không thể không nhắc đến nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình. Nhưng điều làm tôi tò mò hơn cả là: Điều gì đã tạo nên một Madam Bình với phong thái điềm tĩnh, lập luận sắc bén và sức thuyết phục mạnh mẽ đến vậy?

Có lẽ trong bài viết này, không ít người sẽ tò mò chờ đợi những chuyện ly kỳ về cuộc hội đàm nổi tiếng gay go và dài nhất trong lịch sử ngoại giao thế giới, nhưng thật tiếc là tôi sẽ không tiếp cận theo cách ấy. Tôi muốn thận trọng tìm hiểu về con người của Madam Bình cũng như tài năng ngoại giao của bà mà nhiều người gọi là “xuất chúng bẩm sinh”, nhưng với tôi thì là một con đường rèn luyện đầy gian khổ với ý chí sắt đá không mệt mỏi.

A. Từ người con gái Nguyễn Thị Châu Sa với lòng yêu nước rực lửa
1. Những năm tháng định hình từ giáo dục và gia đình
Trước khi là Madam Bình (Nguyễn Thị Bình) nổi tiếng quốc tế, bà là Nguyễn Thị Châu Sa thân thương của thân sinh Nguyễn Đồng Hợi - một viên chức trong ngành trắc địa, say mê kỹ thuật và ham lao động và phụ mẫu Phan Thị Châu Lan - con gái của sĩ phu nổi tiếng Phan Châu Trinh với tư tưởng Canh Tân đất nước.

Ông bà Nguyễn Đồng Hợi và Phan Thị Châu Lan. (Ảnh chụp lại)
Nhiều tư liệu nói rằng bà ngay từ nhỏ đã nhận ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng yêu nước thức thời của cụ Phan Châu Trinh. Thế nhưng sự thật là cô gái Châu Sa chỉ được biết về ông ngoại qua lời kể của mẹ, bởi cụ Phan đã qua đời năm 1926 sau khi từ Pháp về được một năm, trước khi bà chào đời. Tuy không được gặp mặt ông ngoại, nhưng những câu chuyện về tư tưởng của cụ Phan đã nuôi dưỡng tinh thần yêu nước của bà từ thuở nhỏ.

Thực chất trong những năm tháng tuổi thơ, người ảnh hưởng nhiều nhất tới cô gái Châu Sa trong cả cuộc đời từ hoạt động xã hội lẫn đời sống riêng lại từ người cha của mình, cụ Nguyễn Đồng Hợi.
Trong cuốn hồi ký “Gia đình, bạn bè và đất nước” do chính bà chắp bút, bà đã viết về cha mình thế này:
“Cụ là người ham lao động, đặc biệt rất say mê kỹ thuật. Ở nhà dưới có một phòng đủ các dụng cụ về cơ khí để cụ sửa chữa, chế tạo. Ngoài giờ đi làm, muốn tìm cụ thì phải vào cái kho đặc biệt đó. Cụ là người rất yêu lao động nên đánh giá con người cũng qua thái độ lao động của họ: người nào siêng làm là người tốt, người nào hơi lười là cụ không ưa. Đối với tôi, cụ cũng có yêu cầu như vậy bất kể là trai hay gái: Biết đi xe đạp thì phải biết sửa xe, vá săm lốp. Về sau trong suốt đời hoạt động và công tác, tôi luôn gắn bó và cũng dễ gần gũi với người dân lao động, thường nhìn con người qua thái độ lao động và cách họ quan hệ với người lao động, nghĩ lại tôi rất biết ơn ông cụ tôi về ảnh hưởng đó.” [1]
Trong thời kỳ Pháp thuộc, ông Nguyễn Đồng Hợi được điều sang Campuchia làm việc nên đã mang theo cả gia đình đi theo và định cư tại thành phố Phnôm Pênh. Nhờ đó, bà được theo học hệ thống giáo dục “chính quốc” Pháp - dành riêng cho con cái công chức người Pháp hoặc có quốc tịch Pháp, đây là một trường trung học lớn nhất của Campuchia.
Nền giáo dục Pháp đã mang đến cho bà không chỉ tri thức mà còn là khả năng ngoại ngữ xuất sắc - vũ khí sắc bén sau này trên bàn đàm phán quốc tế. Trong môi trường đa văn hoá tại trường, bà đã tiếp xúc sớm với các trào lưu tư tưởng tiến bộ từ phương Tây và các phong trào đấu tranh trên thế giới. Cũng trong khoảng thời gian này, Campuchia đã bắt đầu xuất hiện các hoạt động của Hội Việt kiều yêu nước thu hút đông đảo người Việt hưởng ứng, và đương nhiên bà cũng hăng hái tham gia. Đây là điểm chạm đầu tiên giúp bà hiểu về Mặt trận Việt Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập.
Với một người phụ nữ sinh ra trong thời kỳ thuộc địa, việc được tiếp cận với nền giáo dục chất lượng cao là một đặc quyền hiếm có. Bà đã tận dụng cơ hội này không chỉ để trau dồi kiến thức, mà còn nuôi dưỡng trong mình một tinh thần dân tộc sâu sắc cùng sự độc lập, mạnh mẽ và tự chủ - những yếu tố quan trọng đã góp phần tạo nên một Madam Bình sau này.
2. Những phẩm chất cá nhân - Gốc rễ của một nữ ngoại giao huyền thoại
Nhiều người thường phỏng đoán đằng sau một người phụ nữ được mệnh danh là “bông hồng thép khiêu vũ giữa bầy sói” hẳn sẽ được nuôi dạy trong sự nghiêm khắc, khắt khe; hoặc đã được đào tạo về các hoạt động chính trị cách mạng ngay từ nhỏ. Trái ngược với tất cả những điều trên, cô gái Châu Sa lớn lên vô tư như bao người bạn thiếu thời khác: ăn học, vui chơi thể thao và rất thích đọc tiểu thuyết, nghe nhạc trữ tình.
Tuy tuổi thơ của bà ngập tràn tình yêu của mẹ, nhưng nỗi đau mất mẹ ở tuổi 16 đã thay đổi cuộc đời bà, mà về sau nó đã là tiền đề hình thành nên những phẩm chất đáng ngưỡng mộ của Madam Bình.
Mất mẹ ở tuổi 16, là chị cả của năm đứa em, bà từ vai trò là một người con gái chuyển sang thành một người “mẹ thứ hai”. Bà buộc mình phải trưởng thành sớm, học cách kiểm soát cảm xúc, giữ sự bình tĩnh trước mọi tình huống để đối mặt với thực tế khắc nghiệt. Bù lại, sự chăm lo và tình thương ân cần của cha đã luôn là động lực và sức mạnh nâng đỡ bà trong suốt hành trình sau này.

Có rất nhiều mẩu chuyện trong hồi ký bà chia sẻ về người cha của mình, nhưng tôi ấn tượng nhất là câu chuyện lần đi công tác đầu tiên của bà. Sau khi mẹ mất, cha bà quan tâm sát sao đến sinh hoạt hàng ngày của con gái và thường không cho phép bà ra ngoài vào buổi tối. Thế nhưng, khi tổ chức cần cử người từ Sài Gòn về Hồng Ngự để tiếp tế cho bộ đội, chính người cha không cho con mình ra ngoài vào buổi tối ấy - đã đích thân đưa bà đến bến cảng Sài Gòn. Bà kể:
“Cho tôi đi một mình cả hành trình như vậy, chắc ba tôi lo lắm, nhưng lúc này việc nước là trên hết. Tôi cũng rất lo, từ trước tới giờ đã có khi nào phải xông pha thế này đâu! Nhưng thấy bà băn khoăn, tôi nói cho ông yên tâm: Không sau đâu ba, con đi được mà!” [2]
Những người dũng cảm và bản lĩnh nhất mà chúng ta từng biết sẽ luôn có những lần đầu tiên bước ra chiến trường một cách sợ sệt đầy âu lo. Và với Madam Bình khi ấy cũng không ngoại lệ. Nhưng chính bằng tình yêu thương và sự cương trực, lòng can trường của người cha đã giúp bà vượt lên những khó khăn của thời cuộc, tôi luyện nên một người phụ nữ nhỏ bé nhưng có ý chí dũng cảm khổng lồ.

3. Những hoạt động cách mạng đầu tiên và trải nghiệm đau thương “tưởng muốn chết”
Cuối năm 1947, gia đình bà bị chia cắt mỗi người một phương. Cô gái Châu Sa giờ đây đã chính thức hoạt động bí mật cho phong trào Việt Minh khối sinh viên, học sinh và phụ nữ với bí danh là Yến Sa.
Lấy vỏ ngoài là một cô giáo dạy tư cho các con quan chức của chính quyền Sài Gòn và các gia đình khá giả, Yến Sa đã tích cực tham gia vào công tác tuyên truyền đường lối cách mạng, vận động quần chúng tham gia vào phong trào đấu tranh, công tác tiếp tế, biểu tình…. Đây là giai đoạn đánh dấu mốc khởi đầu cho hành trình cách mạng đầy chông gai của bà.

Năm 1951, vì được coi là những cán bộ quan trọng của Thành uỷ, bà cùng những người đồng đội khác bị thực dân Pháp bắt giam và tra tấn dã man nhằm khai thác thông tin. Bà kể lại giai đoạn mình bị tra tấn trong cuốn hồi ký của mình thế này:
“Lần đầu tiên bị tra đánh quá dã man, hết trần nước lại quay điện, tôi chỉ muốn chết cho xong. Điều tôi lo nhất là phải khai báo, chỉ điểm bắt người khác. Tôi quyết định điều gì địch nói về tôi, tôi nhận, nhưng một mực không khai gì khác. Tuy vậy, những tài liệu chúng bắt được chứng tỏ tôi làm điệp báo, dự kiến sẽ xử nặng.
Ở bót Catinat, sào huyệt chính của bọn mật thám Đông Dương, tôi đã tận mắt chứng kiến sự tàn bạo dã man của bọn tay sai thực dân. Chúng đánh đập tra khảo không thương tiếc bất kể nam nữ già trẻ. Đối với phụ nữ, chúng giờ nhiều trò đồi bại để làm nhục chị em. Khi bị đưa vào phòng điều tra, tôi nhìn thấy mấy tên mật thám đang dùng dùi cui, roi sắt vụt vào một thanh niên bị treo ngược trên trần nhà, khắp người đầm đìa máu me. Anh vẫn một mực không khai. Người chiến sĩ kiên cường mà tôi không được biết tên ấy đã bị chúng đánh đến chết. Tôi thật không tưởng tượng nổi con người lại có thế bạo tàn với đồng loại như thế.” [3]
Những trải nghiệm đau đớn “chỉ muốn chết cho xong” trong các nhà tù khét tiếng từ bót Catinat, Khám Lớn Sài Gòn cho tới Khám Chí Hoà không làm bà sợ hãi chùn bước. Trong khoảng thời gian bị giam cầm, bà đã chứng kiến hàng trăm tấm gương anh hùng chiến sĩ cách mạng thà chết chứ không đầu hàng. Những nhà tù giờ đây giống như một “lò lửa” tôi luyện nên một con người sắt đá và quật cường, thổi bùng lên sự tự tin của bà khi đứng trước mọi khó khăn.
Bên cạnh bản lĩnh của cô gái Yến Sa khiến cho quân địch bất lực, ngày ấy còn có một “can thiệp” quan trọng đã giúp cho bà được tự do. Ông Marius Moutet - Thượng nghị sĩ Quốc hội đã viết một bức thư gửi cho Chính phủ Pháp phụ trách các nước liên kết ở Đông Dương với nội dung như sau:
“Người ta thông tin cho tôi về một phụ nữ trẻ 23 tuổi, tên là SA hay SAN, bị giam tại Khám Chí Hoà sắp bị đưa ra xét xử và có thể bị kết án tử hình. Người phụ nữ này là cháu của một người mà tôi quen trước đây, tên là Phan Châu Trinh. Ông Phan được phía Việt Nam cũng như Việt Minh coi như một chí sĩ yêu nước, một anh hùng của dân tộc.
Tôi không rõ người phụ nữ này phạm tội gì, nhưng xin phép lưu ý ngài về mặt đạo lý cũng như chính trị, việc này có thể đưa đến những hậu quả nghiêm trọng. Dù là do toà án Việt Nam, Thẩm phán Việt Nam xét xử, người ta cũng sẽ nói là theo sự chỉ đạo của nước Pháp. Rất mong Ngài hết sức quan tâm (Ký tên: Marius Moutet)”. [4]
Chính bà Bình về mãi sau này biết được sự việc này cũng đã phải thốt lên:
“Lòng yêu nước mãnh liệt, ý chí quật cường của Cụ Phan đã lay động những người Pháp tiến bộ. Nhờ đó có thể đã giải thoát án tử hình cho cả cháu gái của Cụ. Phải chăng Cụ đã gieo quả Phúc để cứu cả con cháu!”
4. Bước ngoặt: Từ người hoạt động cách mạng đến nhà ngoại giao Nguyễn Thị Bình
Sau thời gian bị giam cầm được trả tự do, cuộc đời của người phụ nữ Yến Sa bước sang một trang mới. Thay vì tiếp tục công tác bí mật tại miền Nam, bà được điều động ra Hà Nội công tác tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung Ương - đánh dấu sự thay đổi lớn trong hành trình hoạt động cách mạng của bà.

Người phụ nữ Yến Sa lúc bấy giờ cũng giống như bao người khác khi đứng trước một môi trường nhiều sự khác biệt và đầy thử thách, bà cũng cảm thấy “không hề dễ dàng và chưa quen việc”. Giai đoạn này, bà được rèn luyện bài bản về cách công tác tổ chức, quản lý và điều hành ở cấp Trung Ương với vai trò là thư ký cho Bí thư Đảng. Bên cạnh đó, bà còn được cử đi học tại trường Nguyễn Ái Quốc - cơ sở đào tạo lý luận chính trị hàng đầu của Đảng. Tại đây, bà được trang bị những kiến thức nền tảng về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng cũng như các kỹ năng phân tích, đánh giá tình hình trong nước và quốc tế một cách bài bản, hệ thống.

Liệu có thể nói rằng đây là giai đoạn bà đang “ủ kén”, chuẩn bị kỹ lưỡng những tư duy duy, công cụ cần thiết để có thể trở thành nhà ngoại giao trên đấu trường quốc tế? Thế nhưng điều thú vị nhất rằng chính bà lúc đó cũng không thể ngờ rằng sắp tới, mình sẽ trở thành cán bộ ngoại giao cho tới khi nước nhà thống nhất.
Vào những năm 1960 - 1961, cục diện cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn mới. Bên cạnh đấu tranh quân sự và chính trị, mặt trận ngoại giao được Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Chính trong bối cảnh đó, bà được lựa chọn để tham gia vào công tác ngoại giao - một lĩnh vực hoàn toàn mới so với các hoạt động cách mạng trước đây. Sau khi hoạt động ngoại giao cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được 06 tháng, bà chính thức đổi bí danh từ Yến Sa thành Nguyễn Thị Bình với dụng ý: Bình là hoà bình, và nó dễ đọc với dân quốc tế. Đây là một bước ngoặt lớn, đánh dấu sự chuyển mình từ một cán bộ cách mạng hoạt động trong nước sang vai trò đại diện Việt Nam trên đấu trường quốc tế - nơi bà sau này đã để lại những dấu ấn quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc ta.
Sau này trong cuốn hồi ký, bà Bình đã tường thuật lại một cuộc đối thoại đáng nhớ với một phóng viên. Người phóng viên đó đã đặt câu hỏi mang tính châm biếm rằng: “Tại sao tên của bà là "Hòa Bình" nhưng bà lại chỉ nói về chiến tranh?”. Trước câu hỏi mang tính thách thức này, bà đã đáp lại một cách điềm tĩnh nhưng đầy mạnh mẽ:
“Tôi có thể nói gì khác ngoài việc lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và nêu rõ ý nghĩa cuộc chiến đấu của nhân dân ta, vì hòa bình và độc lập tự do? Phải khẳng định rằng chúng ta không hề muốn có chiến tranh, chính thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã buộc nhân dân ta đứng lên tự vệ”
Chúng ta không tự dưng mà có Nguyễn Thị Bình, chân dung của nhà ngoại giao xuất sắc ấy được kiến tạo nên từ nhiều phiên bản: Từ lòng quả cảm của một thiếu nữ dám dấn thân vào con đường cách mạng, đến sự kiên trường của người phụ nữ “thà chết chứ không chịu khai”, và sau cùng là một cán bộ mẫn cán khao khát học hỏi, kiên định trước mọi thử thách. Tất cả đã hun đúc nên một nhà ngoại giao sắc bén, tài năng cùng bản lĩnh phi thường.

B. Từ Nguyễn Thị Bình tới một Madam Bình - Bông hồng thép khiêu vũ giữa bầy sói Mỹ
Đầu thập niên 1960s, Mỹ ráo riết đưa hàng trăm nghìn quân vào miền Nam cùng với khối lượng vũ khí, trang thiết bị khổng lồ nhằm ngăn chặn “sự lan rộng của chủ nghĩa Cộng Sản”. Quân đội Mỹ cùng với Việt Nam Cộng Hoà đã mở rộng quy mô cuộc chiến thành chiến tranh cục bộ, thực hiện chiến lược “tìm diệt” và “bình định” nhằm đánh bại lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của chúng ta trên khắp chiến trường miền Nam khiến Mỹ phải bắt đầu nhận ra rằng chúng không còn khả năng thắng một nhân dân đã quyết chiến đấu đến cùng cho độc lập tự do; Mỹ đã phải tính đến việc xuống thang chiến tranh, buộc phải nghĩ đến một giải pháp chính trị để rút ra khỏi cuộc chiến vô vọng này, và tất nhiên vẫn muốn duy trì ảnh hưởng ở miền Nam.
Trước sự leo thang của cuộc chiến và sức ép từ dư luận quốc tế, Mỹ đã phải đồng ý tham gia Hội nghị Hòa bình tại Paris, tìm kiếm giải pháp hòa bình thông qua đàm phán trực tiếp. Còn về phía nhân dân ta, chúng ta cũng đã thấy đến lúc có thể triển khai tiếp cuộc chiến đấu dưới hai hình thức - vừa đánh vừa đàm.
Gần sáu năm hoạt động đối ngoại cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, bà Bình đã tích lũy được một số kiến thức ngoại giao và kinh nghiệm đấu tranh chính trị. Thời điểm chín muồi, bà đã được tin tưởng giao cho một nhiệm vụ khó khăn, quan trọng bậc nhất và nó đã làm nên tên tuổi của bà: Tham gia cuộc đàm phán lịch sử ở Paris nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam với tư cách Trưởng phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

5. Nghệ thuật ngoại giao độc đáo: Điềm đạm, bình thản nhưng sắc sảo, không nhân nhượng
Cuộc đàm phán Paris được đi vào lịch sử không chỉ bởi tính chất phức tạp của nó, mà còn được mệnh danh là một trong những cuộc đàm phán dài nhất lịch sử với nhiều “cú plot twist” khó lường. Tiến trình đàm phán này có thể phân chia thành ba giai đoạn chính:
Giai đoạn 01: Đàm phán công khai (1968 - 1972) với sự tham gia của bốn bên gồm:
- Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (đại diện miền Bắc) do cố vấn Lê Đức Thọ làm Trưởng phái đoàn
- Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do bà Nguyễn Thị Bình dẫn đầu
- Phía Mỹ do Henry Kissinger đại diện
- Chính quyền Việt Nam Cộng hoà

Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (trong đó có sự tham gia của bà Nguyễn Thị Bình) họp bàn tại Hội nghị bốn bên về Việt Nam ở Paris, Pháp (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam).
Giai đoạn 02: Đàm phán bí mật (1972 - 1973) giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Tôi đã viết một bài trước đó đi sâu vào cuộc đấu trí lịch sử giữa cụ Lê Đức Thọ và Henry Kissinger trong cuộc đàm phán bí mật này, các bạn có thể đọc tại đây:
Giai đoạn 03: Lễ ký kết Hiệp định Paris lịch sử.
Trong bối cảnh Hiệp định đầy thách thức này, bà Bình nổi lên như một nhân vật trung tâm tại bàn đàm phán công khai, đại diện cho tiếng nói của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Nếu cụ Lê Đức Thọ khẳng định tài ngoại giao xuất chúng của mình qua các trận đấu trí trực tiếp tại bàn đàm phán bí mật với Henry Kissinger, thì bà Bình lại đảm nhận vai trò then chốt trên mặt trận quốc tế.
Thời gian đầu của Hội nghị Paris, bà bị người Mỹ mỉa mai và đánh giá thấp vì định kiến về vai trò của người phụ nữ trong lĩnh vực ngoại giao. Thế nhưng qua quá trình đàm phán kéo dài và đầy khó khăn, bà đã cho thấy nếu “mình chỉ là một người nội trợ thì những nhà ngoại giao Hoa Kỳ chính là những lọ gia vị trong căn bếp của bà.” Đây cũng chính là thời điểm báo chí quốc tế đặt cho bà cái tên Madam Bình, như một cách để ca ngợi tài năng, trí tuệ và phong thái ngoại giao đầy cuốn hút của người phụ nữ mang tên Nguyễn Thị Bình.

Sức cuốn hút của Madam Bình đến từ những sắc thái đối lập. Bà nói không với những bộ đồ “nam tính, mạnh mẽ” nhằm phô diễn sức mạnh, mà thay vào đó là chiếc áo dài hồng sậm, măng tô xám và khăn quàng cổ đen điểm hoa trong lần đầu tới Paris với tư cách là đại diện của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam.
Bà không cần gồng mình, chẳng cần phải ngắt lời trước các phóng viên phương Tây có niềm tự hào đến từ nền giáo dục “bậc nhất thế giới. Bà luôn giữ nụ cười hòa nhã, cái gật đầu nhẹ nhàng nhưng lại đáp trả bằng những lập luận sắc lẹm, kiên định và bản lĩnh phê phán Mỹ chẳng kiêng nể.

Điều mà cá nhân tôi khâm phục nhất ở bà? Chính là sự tự tin, bản lĩnh và nhất quán trong mọi lập trường khi đứng trước những câu hỏi gài bẫy tinh vi - điều mà ngay cả những đối thủ cũng phải kính nể. Đây chính là nghệ thuật ngoại giao bậc thầy: Không cần phải hùng hổ để thể hiện sức mạnh, không cần phải gào thét để được lắng nghe, vì mọi lời phân bua tráo trở không thể thắng nổi sự thật: Mỹ là kẻ xâm lược, và Miền Nam Việt Nam - một phần lãnh thổ của Việt Nam, có quyền tự quyết và đứng lên chống lại giặc ngoại xâm.

Những cuộc đối đáp giữa bà với phóng viên Pháp, Mỹ được trích dẫn dưới đây sẽ chứng minh cho các bạn thấy tài năng ngoại giao xuất sắc của bà, cái cách mà bà luôn hiên ngang trước áp lực quốc tế không hề nao núng khiến cả thế giới khi ấy phải kính nể.
Trong giai đoạn đầu của Hội nghị Paris, đặc biệt là trong những năm 1970 của Hội nghị Paris, khi Mỹ leo thang chiến tranh bằng các cuộc ném bom dữ dội vào miền Bắc Việt Nam, các phóng viên quốc tế đã có cuộc phỏng vấn bà Nguyễn Thị Bình.
Các đoạn hội thoại này được trích từ “Phim Tài Liệu VIỆT NAM - Bà Nguyễn Thị Bình đấu trí tranh biện với nhà báo Quốc tế về Vietnam” [5] - cực kỳ khuyên các bạn hãy xem để thấy được cái tài và cái trí của bà.
Phóng viên: Bà giải thích như thế nào về vụ ném bom của Không quân Mỹ mà chúng tôi vừa đề cập? Bà có cho rằng đó là dấu hiệu cho sự thay đổi chính sách của Mỹ, chứng tỏ Mỹ ngày càng cứng rắn hơn?
Bà Bình: Những ngày vừa qua, cả thế giới hết sức phẫn nộ và cực liệt lên án với những hành vi chiến tranh của Mỹ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đó là những hành vi vô cùng nghiêm trọng, là sự vi phạm rõ ràng đối với chủ quyền và an ninh của một quốc gia độc lập, tự chủ, và là thách thức với chính nghĩa, lương tâm của nhân loại. Chắc hẳn ông đã nghe những lời biện bạch của các quan chức Washington, viện dẫn mọi lý lẽ mà họ có thể nghĩ ra về cái gọi là “Hiệp định ngầm”. Nhưng như ông thấy, đó là những lời lẽ dối trá, những luận điệu vu khống vì Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nhiều lần bác bỏ những luận điệu này.

Phóng viên: Tôi rất muốn biết người Mỹ đang nghĩ gì về “Hiệp định ngầm” này?
Bà Bình: Trước hết, không có hiệp định ngầm nào cả. Ông Xuân Thuỷ - Trưởng phái đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố rõ ràng không có hiệp định ngầm. Đó là lý do thứ nhất.
Thứ hai, chẳng có luật pháp nào cho phép một nước do thám hay ném bom một nước khác. Cũng chả luật pháp nào ngăn cấm một nước, mà thật ra không có nước Bắc Việt Nam hay nước Nam Việt Nam. Chúng tôi là một quốc gia. Chẳng có lý do gì để những người anh em ở phía bên này không giúp đỡ bên khác. Vì vậy tôi cho rằng, những lý lẽ mà ông vừa nêu ra là không có cơ sở.

Nguồn ảnh: https://www.nguoiduatin.vn/e-madam-binh-nguoi-phu-nu-khieu-vu-giua-bay-soi-204575602.htm
Phóng viên: Vừa rồi chúng ta có nói đến thái độ bực bội của Mỹ, một phần là hệ quả Hội nghị Paris không tiến triển. Vậy tại sao Hội nghĩ Paris không tiến triển, thưa bà Bình?
Bà Bình: Chúng tôi nhìn nhận các hành động của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam trong thời gian qua là một phần không thể tách rời của chính sách Mỹ ở ở Việt Nam và Đông Dương. Chúng tôi cũng luôn chỉ rõ rằng dù đã nếm trải nhiều thất bại liên tiếp, nước Mỹ vẫn không từ bỏ chính sách xâm lược và mở rộng chiến tranh. Để làm gì? Để dành được thế mạnh và áp đặt sự thống trị của họ vào dân tộc chúng tôi - tức là dân tộc Việt Nam và nhân dân Đông Dương. Đó cũng là nguyên nhân chủ yếu đẩy Hội nghị Paris vào ngõ cụt

Phóng viên: Thưa bà, có điều này tôi chưa rõ. Mỹ chấp thuận rút quân với điều kiện miền Bắc Việt Nam cũng rút quân. Có gì để phản đối nếu Mỹ và miền Bắc đều rút quân, chỉ để lại Mặt trận Giải phóng Dân tộc và chính quyền Việt Nam Cộng hòa tại địa bàn?
Bà Bình: Thưa ông, tôi cho rằng logic sơ khai nhất để giải quyết một vấn đề, đó là đánh giá nguồn gốc của vấn đề đó. Và tôi nhận thấy ông đã ít nhiều bóp méo nguồn gốc của vấn đề. Một giải pháp chỉ đúng đắn nếu xuất phát từ việc phân tích chính xác nguồn gốc của vấn đề. Và vấn đề của Việt Nam là sự xâm lược của người Mỹ trên lãnh thổ của chúng tôi. Sự xuất hiện của nửa triệu quân Mỹ trên đất nước Việt Nam là hết sức vô lý.

Nguồn ảnh: https://www.nguoiduatin.vn/e-madam-binh-nguoi-phu-nu-khieu-vu-giua-bay-soi-204575602.htm
Phóng viên: Đã từng có 445 nghìn quân, và hiện nay chỉ còn 290 nghìn quân. Quân đội Mỹ có số lượng thương vong rất đáng kể trong cuộc chiến tranh này.
Bà Bình: Ông không thể đánh đồng quân xâm lược Mỹ với dân tộc Việt Nam - những người chiến đấu chống ngoại xâm và có quyền hợp pháp được đánh đuổi quân xâm lược trân lãnh thổ của mình. Ông đang đánh đồng quân xâm lược Hoa Kỳ và Dân tộc Việt Nam. Tôi cho rằng không ai có thể chấp nhận 1 nhận định như vậy.
Phóng viên: Tại sao hai phía Chính quyền miền Nam Việt Nam không chịu đàm phán với nhau? Phía bà đã chấp nhận chính quyền Việt Nam Cộng hoà vào bàn đàm phán nhưng không chịu đàm phán với họ, trong khi họ có tận 1 triệu quân?
Bà Bình: Ông đang nhầm lẫn hai vấn đề. Tại sao chúng tôi không thể đàm phán với nhau bởi vì chính quyền của Thiệu - Kỳ - Khiêm không phải chính quyền đại diện cho Nhân dân Việt Nam mà là chính quyền do người Mỹ lập ra.
Và cuối cùng, ta không thể bỏ quên một trong những câu đối đáp bất hủ của bà Bình trên bàn đàm phán: "Người Mỹ có thể lên Mặt Trăng và trở về an toàn. Còn sang Việt Nam, thì chúng tôi không chắc!"

Bà Nguyễn Thị Bình trả lời phỏng vấn tại phòng nghỉ của mình ở Paris ngày 24/10/1972.
Qua những đoạn đối đáp trên, ta có thể rút ra được 3 điểm nổi bật nhất về kỹ thuật ngoại giao của bà:
(1) Dùng từ ngữ chính xác, chỉ đích danh vấn đề: Bà luôn nói Mỹ xâm lược, không phải là “can thiệp” hay “hiện diện” như báo chí quốc tế vẫn thường nói.
(2) Kiểm soát khuôn khổ cuộc thảo luận: Khi phóng viên cố gắng thiết lập các tiền đề có lợi cho Mỹ, bà Bình ngay lập tức chỉ ra sự phi lý trong cách đặt vấn đề, không để họ áp đặt logic sai lệch về bản chất cuộc xung đột
(3) Hoà nhã, nhưng sẵn sàng phản công khi cần thiết: Khi phóng viên đưa ra số liệu về quân Mỹ thiệt hại nặng nề trong cuộc chiến tranh, bà không bị mắc vào bẫy tranh luận về con số mà chuyển hướng tới vấn đề cốt lõi là tính chính đáng của sự hiện diện của quân Mỹ trên miền Nam Việt Nam.
Trong quá trình đàm phán, bà luôn tâm niệm: “Họ có quyền hỏi, mình có quyền trả lời. Nhưng trả lời thế nào để họ tâm phục khẩu phục, hiểu rõ hơn cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc mình, đó mới là điều quan trọng”.

Sau nhiều nỗ lực, ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết. Đây là vinh dự lớn lao trong cuộc đời hoạt động của bà, mỗi khi nhớ về sự kiện trọng đại này, bà vẫn tự hào: “Khi đặt bút ký vào bản hiệp định chiến thắng, nghĩ đến những đồng bào, đồng chí ngã xuống - những người không còn có thể biết được sự kiện trọng đại này, mắt tôi bỗng nhòe ướt. Trong cuộc đời tôi, đây là vinh dự rất lớn vì được thay mặt nhân dân, các chiến sĩ cách mạng để đấu tranh trực diện với kẻ thù xâm lược ngay tại Paris, được đặt bút ký vào bản hiệp định chiến thắng sau 18 năm cả nước tiến hành cuộc chiến đấu chính nghĩa đầy hy sinh gian khổ… Đó có lẽ là kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời ngoại giao của tôi”. [6]

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký văn kiện Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở thủ đô Paris (Pháp) (Ảnh: Văn Lượng - TTXVN).
6. Chiến lược ngoại giao đầy bản lĩnh làm nên tên tuổi của Madam Bình
Có thể nói, nếu cụ Lê Đức Thọ là "thanh kiếm sắc bén" trong các cuộc đàm phán bí mật, thì bà Nguyễn Thị Bình chính là "lá chắn vững chắc" trên mặt trận ngoại giao công khai và quốc tế. Bà đã áp dụng chiến lược "thời điểm" (timing) vô cùng tinh tế: Biết khi nào cần cứng rắn, khi nào cần linh hoạt, và đặc biệt là biết tận dụng những thời điểm chính trị quan trọng của Mỹ (như bầu cử tổng thống, thay đổi trong dư luận Mỹ) để đưa ra những đề xuất có tính đột phá. Vì hiểu rõ sức ảnh hưởng của báo chí, bà đã khéo léo nhấn mạnh thông điệp về quyền tự quyết (self - determination), sử dụng các phương tiện truyền thông để tạo áp lực dư luận lên chính quyền Mỹ - khi mà bối cảnh phong trào phản chiến tại Mỹ đang phát triển mạnh mẽ.

Đồng thời, bà cũng tích cực mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia thông qua các chuyến công du rộng khắp, vận động và thiết lập mạng lưới quan hệ chặt chẽ nhằm kêu gọi sự ủng hộ quốc tế. Chiến lược ngoại giao công khai của bà đã tạo nên một mặt trận quan trọng không kém gì các cuộc đàm phán bí mật, buộc Mỹ phải cân nhắc kỹ lưỡng về cái giá phải trả về mặt hình ảnh và vị thế quốc tế nếu tiếp tục kéo dài chiến tranh.

Nguồn ảnh: https://www.nguoiduatin.vn/e-madam-binh-nguoi-phu-nu-khieu-vu-giua-bay-soi-204575602.htm
Nếu không có sự hiện diện và tài năng của Madam Bình, có lẽ ngày 30/4/1975 - Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước sẽ đến muộn hơn rất nhiều. Bởi dù chúng ta có đạt được những thành công trong các cuộc đàm phán bí mật nhờ tài năng của cụ Lê Đức Thọ, nhưng thiếu đi áp lực từ dư luận quốc tế và sự ủng hộ của cộng đồng thế giới đối với Mỹ, thì con đường đi đến thỏa thuận cuối cùng chắc chắn sẽ gặp nhiều trở ngại hơn.

C. Di sản Madam Bình để lại
Những dấu ấn và ảnh hưởng của Madam Bình cho nền ngoại giao nước nhà là điều không cần phải bàn cãi. Rõ ràng, cái tài - tâm - trí - đức của bà chính là di sản mở đường cho những bậc hậu bối sau này, nhưng với tôi, bản thân cái tên Madam Bình đã trở thành biểu tượng vượt xa ra khỏi địa hạn ngoại giao.

Ngoài sự thật hiển nhiên rằng Madam Bình là một người vô cùng tài năng, thì tôi không đơn thuần nhìn nhận bà chỉ như một nhà ngoại giao. Nhiều nghiên cứu tư liệu thời kỳ đó cho tôi thấy ngoại giao phương Tây mang định kiến kép bọc trong những từ ngữ “văn minh”: Xem nhẹ bà vì là phụ nữ, coi thường bà vì đến từ một đất nước lạc hậu. Vậy nên tôi nhìn bà giống như một biểu tượng văn hoá - chính trị, góp phần phơi bày một nghịch lý khá châm biếm: Trong khi phương Tây thường tự hào về tiến bộ xã hội của mình, thì một quốc gia đang trong cuộc chiến tranh khốc liệt lại có thể đưa phụ nữ vào vị trí đàm phán quan trọng bậc nhất.

Và giờ đây, khi mà phụ nữ vào năm 2025 vẫn đang đấu tranh cho quyền bình đẳng trên thị trường lao động với đủ các loại rào cản thì hình ảnh của bà Bình ở sáu thập kỷ trước lại càng khiến cho tôi phải suy ngẫm.
Lời nói cuối
Tôi thấy bản thân mình trước và sau khi đặt bút viết về nữ ngoại giao nổi tiếng Madam Bình đã có sự đổi khác. Tôi thấy mình học thêm được nhiều điều: Không thách thức nào là quá lớn để ngăn cản một người mang quyết tâm phụng sự vì lý tưởng. Vì chỉ khi dâng hiến mình cho những điều vượt xa khỏi tầm vóc của bản thân, ta mới có thể khám phá được mọi tiềm năng không tưởng của chính mình. Có lẽ đó chính là di sản tinh thần vĩ đại nhất mà Madam Bình để lại, dạy cho ta cách để sống một đời trọn vẹn.
Và dẫu phía trước sẽ còn nhiều khó khăn thách thức, tôi mong ta đừng bao giờ quên rằng: "Đất nước Việt Nam có thể nhỏ bé, nhưng khát vọng tự do của chúng ta thì vô cùng lớn lao."
Hy vọng bài viết của tôi sẽ mang lại cho các bạn thêm góc nhìn mới. Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở những chủ đề thú vị tiếp theo. Goodbye!
Nguồn tài liệu tham khảo
[1] Trích từ trang 18 trong cuốn hồi ký "Gia đình, bạn bè và đất nước" của bà Nguyễn Thị Bình
[2] Trích từ trang 34 - 35 trong cuốn hồi ký "Gia đình, bạn bè và đất nước" của bà Nguyễn Thị Bình
[3] Trích từ trang 54 trong cuốn hồi ký "Gia đình, bạn bè và đất nước" của bà Nguyễn Thị Bình
[4] Trích từ trang 61 - 62 trong cuốn hồi ký "Gia đình, bạn bè và đất nước" của bà Nguyễn Thị Bình
[6] Bài báo “Madam Bình: Người phụ nữ khiêu vũ giữa bầy sói” https://www.nguoiduatin.vn/e-madam-binh-nguoi-phu-nu-khieu-vu-giua-bay-soi-204575602.htm

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

