Một trong những dấu mốc quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp nói riêng và hơn 30 năm kháng chiến giành độc lập thống nhất của Việt Nam nói chung, chính là thắng lợi có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” ở Điện Biên Phủ. Ta vẫn thường nói rằng đây là một chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, và đó không hề là một lời khen quá đáng. Bởi lẽ đây là lần đầu tiên, quân đội của một nước từng là thuộc địa ở châu Á đánh bại đội quân hiện đại và tối tân của một cường quốc châu Âu, được hỗ trợ bởi đồng minh là Mỹ trong một chiến dịch quân sự lớn.
Thảm bại của Pháp ở Điện Biên Phủ đã khiến nước này phải từ bỏ tham vọng kiểm soát Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung. Và không chỉ có thế, chiến thắng của Việt Nam tại Điện Biên Phủ đã góp phần cổ vũ cho 17 nước thuộc địa châu Phi lần lượt nổi dậy giành lại độc lập. Và chiến thắng này cũng góp phần vào sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Trong bài viết ngày hôm nay, hãy cùng nhìn lại toàn cảnh những gì đã diễn ra xung quanh chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử này nhé.

Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và “Kế hoạch Navarre”

Vào thời điểm Đông Xuân 1953 - 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp đã kéo dài đến năm thứ 8. Sau ngần ấy năm tiến hành chiến tranh, quân Pháp đã bị sa lầy trong một cuộc chiến tiêu hao không có lối thoát và suy yếu nghiêm trọng. Các chiến dịch thất bại liên tiếp, thương vong tăng cao, vùng chiếm đóng bị thu hẹp. Quân Pháp một mặt phải tập trung lực lượng để mong xoay chuyển tình thế, mặt khác lại phải lo phân tán quân để chiếm đất giành dân, đối phó với du kích Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập được quyền kiểm soát cực kì vững chắc tại nhiều khu vực rộng lớn ở Tây Nguyên, khu 5, các tỉnh Cao - Bắc - Lạng,... và nhiều khu vực khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Chi phí cho chiến tranh ngày càng cao làm cho nền kinh tế tài chính Pháp kiệt quệ. Nước Pháp thời đó đã hầu như không còn đủ sức gánh chịu, chi trả được cho chiến phí tại Đông Dương được thêm nữa và Pháp đã phải cầu viện sự trợ giúp về kinh tế lẫn quân sự từ phía Mỹ.Tới năm 1953, viện trợ Mỹ cả kinh tế và quân sự cho Pháp đã lên tới hơn 2,7 tỷ đô, trong đó riêng viện trợ quân sự đã là 1,7 tỷ đô (sau đó năm 1954 thì Mỹ viện trợ thêm 1,3 tỷ đô nữa). Tính ra thì đến năm 1954, 73% chiến phí của Pháp tại Đông Dương là do Mỹ trả.
Đối mặt với tình trạng sa lầy kéo dài, Pháp muốn tìm một giải pháp hòa bình có thể chấp nhận được để chấm dứt cuộc chiến, nhưng vẫn muốn duy trì quyền lợi tại Đông Dương. Cuộc chiến bước sang năm thứ 8 đã chứng tỏ Pháp chỉ còn cách duy nhất là tìm một "lối thoát danh dự", nếu không muốn dâng Đông Dương cho Mỹ. Lãnh đạo của ta nhận định rằng việc Mỹ trực tiếp can thiệp vào Đông Dương chỉ còn là vấn đề thời gian; và nếu tình hình ở bán đảo Triều Tiên tạm ổn định thì chắc chắn Mỹ sẽ dồn sức cho chiến dịch chống cộng sản ở Đông Dương.
Henri Navarre - Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp
Henri Navarre - Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp
Cuối năm 1953, chính phủ Pháp bổ nhiệm Henri Navarre sang làm Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh thay cho Raoul Salan. Mục đích của Pháp là muốn tìm kiếm một chiến thắng quân sự quyết định để làm cơ sở cho một cuộc thảo luận hòa bình trên thế mạnh. Kế hoạch của bộ chỉ huy Pháp bấy giờ gồm hai bước:
Bước thứ nhất, vào giai đoạn Thu Đông 1953 và Xuân 1954, quân Pháp giữ thế phòng ngự ở miền Bắc Việt Nam, tập trung một lực lượng cơ động lớn ở đồng bằng Bắc Bộ để đối phó với cuộc tiến công của Việt Minh. Bên cạnh đó là thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam nhằm chiếm đóng 3 tỉnh ở đồng bằng Liên khu 5; đồng thời đẩy mạnh việc mở rộng Quân đội Quốc gia Việt Nam - chính quyền do Pháp dựng lên. Mục đích là xây dựng một đội quân cơ động lớn đủ sức đánh bại được quân chủ lực của Việt Minh.
Bước thứ hai là từ Thu Đông 1954, sau khi đã hoàn thành những mục tiêu trên, quân Pháp sẽ dồn toàn lực ra Bắc, chuyển sang tiến công chiến lược trên chiến trường chính, giành thắng lợi lớn về quân sự, buộc Việt Minh phải chấp nhận điều đình theo những điều kiện có lợi cho Pháp. Nếu Việt Minh từ chối, quân cơ động chiến lược của Pháp sẽ tập trung mọi nỗ lực để tiêu diệt chủ lực Việt Minh.
Cái gọi là “Kế hoạch Navarre” này của quân Pháp có ba trọng tâm: phát triển quân đội Liên hiệp Pháp trên quy mô lớn, chuyển một số đơn vị quân đồn trú thành các lực lượng cơ động chiến lược, và yêu cầu thêm viện binh từ chính quốc Pháp. Cụ thể hơn, kế hoạch này cần thực hiện những việc sau:
Đẩy nhanh tiến độ thi hành chính sách trao quyền độc lập danh nghĩa cho các chư hầu thuộc Liên hiệp Pháp, biến họ thành các chính phủ bù nhìn tương tự như chính thể Quốc gia Việt Nam. Làm thế sẽ giúp Navarre giải quyết vấn đề thiếu hụt lực lượng chiến đấu, đồng thời hạn chế việc chiêu mộ công dân Pháp nhập ngũ, nhờ đó giải tỏa bớt những căng thẳng trong lòng nước Pháp. Song song với đó là thành lập lực lượng cơ động chiến lược để thoát khỏi tình trạng phòng ngự thụ động và đảm bảo lợi thế trên mặt trận bình định hậu phương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
“Kế hoạch Navarre” được Mỹ tán thành. Mỹ cũng chấp nhận gánh chịu mọi khoản chi phí cho kế hoạch đó, lên tới 385 triệu đô. Thời gian này, ở tất cả các cấp độ trong quân đội viễn chinh Pháp đều có cố vấn Mỹ. Người Mỹ có thể đến bất cứ nơi nào kiểm tra tình hình mà không cần sự chấp thuận của các tướng lĩnh quân Pháp. Sự phụ thuộc quá nhiều của Pháp vào Mỹ đã khiến Henri Navarre phải than phiền rằng: "Địa vị của chúng ta đã chuyển thành địa vị của một kẻ đánh thuê đơn thuần cho Mỹ." Hội đồng Tham mưu trưởng và Hội đồng Quốc phòng Mỹ cũng từng bàn với Pháp về việc cắt giảm lực lượng ở Lào để giảm thiểu chi phí, nhưng Pháp không muốn thế. Navarre cũng nhận định rằng nếu quân đội Việt Minh đánh Thượng Lào mà lực lượng ở đó bị cắt giảm thì sẽ không thể chống được. Đây cũng chính là một trong những lý do mật thiết dẫn đến việc xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Kế hoạch của hai bên

Trước khi vào mùa khô 1953 - 1954 thì thực chất Pháp đã vượt trội về quân số. Tổng quân số của Pháp và tay sai lên tới 445,000 quân; trong khi lực lượng bộ đội chủ lực của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ có hơn 250,000 quân chính quy. Đấy là còn chưa kể những ưu thế của Pháp về khí tài quân sự, cụ thể là pháo binh, xe thiết giáp và không quân; vừa nhiều hơn lại vừa hiện đại hơn hẳn so với bộ đội ta.
Còn nếu tính các khoản viện trợ, thì từ tháng 6 năm 1950 trước lúc mở Chiến dịch Biên giới, đến tháng 6 năm 1954; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận được từ Liên Xô và Trung Quốc hơn 21,000 tấn hàng viện trợ các loại; trong đó một nửa là lương thực - thực phẩm, số còn lại là vũ khí. Quy đổi ra tiền thì số hàng viện trợ của ta chỉ tương đương 34 triệu đô mà thôi.
Tuy Pháp có ưu thế vượt trội về quân số cũng như khí tài và trang bị, nhưng việc Quân đội nhân dân Việt Nam áp dụng triệt để chiến tranh nhân dân kết hợp với chiến tranh du kích đã khiến Pháp phải phân tán lực lượng rộng khắp các chiến trường. Không những Pháp không thể tập trung toàn bộ ưu thế đó vào một trận đánh quyết định, mà cũng chưa đủ lực lượng để mở một cuộc tiến công lớn vào chủ lực bộ đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền bắc. 70% lực lượng của Pháp đã phải phân tán làm nhiệm vụ chiếm đóng, chỉ 30% là làm nhiệm vụ cơ động chiến thuật và chiến lược, trong số đó thì Pháp lại phải phân quá nửa ra ở miền bắc để đối phó chủ lực bộ đội Việt Minh. Vào thời điểm này, nếu tính chung trên chiến trường Bắc Bộ, lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ gần bằng 3/4 so với Pháp; nhưng tính riêng lực lượng cơ động chiến lược thì chúng ta lại có phần nhỉnh hơn.
Vào cuối tháng 8 năm 1953, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam đã trình lên Tổng Quân ủy bản kế hoạch tác chiến với bốn nhiệm vụ:
- Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở hậu phương địch nhằm phá tan các âm mưu bình định và kế hoạch mở rộng các lực lượng tay sai người Việt của Pháp. - Bộ đội chủ lực dùng phương thức hoạt động thích hợp tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, có thể tác chiến lớn trên chiến trường đồng bằng để rèn luyện bộ đội. - Sẵn sàng kế hoạch bố trí lực lượng chống đỡ và tiêu diệt nếu quân Pháp đánh ra vùng tự do. - Tăng cường hoạt động lên hướng Tây Bắc, Thượng Lào và các chiến trường khác để phân tán chủ lực Pháp.
Cũng trong cuộc họp ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết lại phương châm tác chiến là: "Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn."
Khi nhận được tin lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam có ý định tiến lên Tây Bắc, Navarre đã quyết định phải hành động. Ông ta quyết định phải thiết lập một tập đoàn cứ điểm kiên cố vững chãi có nhiệm vụ bảo vệ vùng Thượng Lào để tránh việc Việt Minh kiểm soát được toàn bộ vùng cực bắc Đông Dương. Ý định của Navarre là biến cụm tập đoàn cứ điểm này thành điểm án ngữ miền Tây Bắc Việt Nam, kiểm soát liên thông với Thượng Lào để làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công. Pháp tin rằng nếu tấn công vào đây, chủ lực của ta sẽ bị tiêu diệt và nghiền nát. Và địa điểm mà Navarre chọn chính là Điện Biên Phủ - một vùng thung lũng lòng chảo ở Tây Bắc, cách Hà Nội 300km và cách Lai Châu 80km; xung quanh là đồi núi trập trùng và rừng cây rậm rạp. Người Pháp coi Điện Biên Phủ chính là chìa khóa của Thượng Lào.
Ngày 2 tháng 11 năm 1953, Navarre đã ra chỉ thị cho tướng Réne Cogny là từ ngày 15 đến ngày 20, chậm nhất là 1 tháng 12, phải đánh chiếm Điện Biên Phủ để thiết lập một điểm ngăn chặn bảo vệ cho Thượng Lào. Cuộc hành quân đánh chiếm Điện Biên Phủ có bí danh là “Castor”, và chỉ huy là tướng Jean Gilles.
11 giờ sáng ngày 20 tháng 11, Pháp dùng máy bay để thả 3000 lính dù và chiến cụ các loại xuống Điện Biên Phủ. Hai ngày sau, ngày 21 và 22 tháng 11, liên tiếp 3 tiểu đoàn lính dù nữa được cử đến với một đại đội pháo binh. Ngày 24 tháng 11, đường băng được sửa chữa xong, phi cơ lại đáp xuống được. Vậy là trong vòng 3 ngày, Pháp đã  đưa xuống Mường Thanh 6 tiểu đoàn dù với khoảng 4500 quân. Về sau lực lượng ở đây tăng lên đến 11 tiểu đoàn, chưa kể số được tăng viện trong suốt chiến dịch.
Đến ngày 3 tháng 12, Navarre đã quyết định sẽ chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Đến ngày 7 tháng 12, Navarre và Cogny thống nhất chỉ định Đại tá Christian de Castries làm người chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chuẩn bị đương đầu với cuộc tấn công của bộ đội Việt Minh. Có người hỏi vì sao Navarre lại trao quyền chỉ huy tập đoàn cứ điểm quan trọng như vậy cho một người chỉ mang hàm Đại tá, nhưng Navarre đáp rằng: "Cả tôi lẫn Cogny đều không trông lon mà xét người nên cũng chẳng sùng bái gì lắm mấy ngôi sao cấp tướng. Tôi khẳng định: trong số các chỉ huy được lựa chọn, không ai có thể làm giỏi hơn Castries".
Sau này, có những ý kiến chỉ trích các tướng lĩnh Pháp đã "mắc một lỗi sơ đẳng" khi thiết lập một căn cứ ở nơi quá xa xôi hẻo lánh, dễ bị bao vây cô lập để rồi bại trận. Nhưng ở vào thời điểm đó, với những yêu cầu chiến lược và chính trị của Pháp là phải giữ được Lào thì việc thiết lập tập đoàn cứ điểm như Điện Biên Phủ là điều tất yếu, không thể khác được. Sau này trong hồi ký, Navarre cũng khẳng định rằng: "Có cần bảo vệ Lào hay không? Tôi thì chỉ còn một cách chấp nhận phương án chiến đấu ở Điện Biên Phủ." Hơn nữa, người Pháp tin rằng lợi thế công nghệ vượt trội và sự trợ giúp của Mỹ sẽ giúp họ đánh bại được Quân đội nhân dân Việt Nam vốn có vũ khí thô sơ và lạc hậu hơn nhiều. Đại úy Jean Pouget, sĩ quan tùy tùng của Navarre, đã nhớ lại rằng: "...có thể khẳng định là không một ai trong số hơn 50 chính khách, tướng lĩnh đã tới thăm Điện Biên Phủ phát hiện được cái thế thua đã phơi bày sẵn..." Cogny thì tin tưởng và nói rằng: "Chúng ta đến đây là buộc Việt Minh phải giao chiến, không nên làm gì thêm để họ phải sợ mà lảng đi."
Về phía chúng ta thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận xét rằng: "Tới lúc này, quân đồn trú ở Điện Biên Phủ vẫn có thể mở một con đường rút lui. Vì sao Navarre không làm điều đó khi thấy nguy cơ một trận đánh sẽ xảy ra? Theo tôi, Navarre vẫn muốn Điện Biên Phủ sẽ làm vai trò "chiếc nhọt tụ độc" trên miền Bắc." Theo đó, Điện Biên Phủ ra đời nhằm thu hút chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam, để rồi Pháp tự tin với ưu thế hỏa lực sẽ có thể tiêu diệt gọn.
Nhưng thực ra chính Navarre đã bị cuốn theo các hoạt động mà ta đã dự đoán trước trong chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954 mà không hề hay biết. Đối với việc đánh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thì đây vốn đã là dự tính của Bộ Tổng tham mưu và Tổng Quân ủy - tức là chắc chắn sẽ phải đánh một trận lớn, giành chiến thắng quyết định để kết thúc chiến tranh. Kế hoạch của ta sẽ gồm hai bước: Đầu tiên là tiến đánh Lai Châu, dự kiến kết thúc vào cuối tháng 1 năm 1954. Sau đó sẽ cho bộ đội nghỉ ngơi, chấn chỉnh khoảng 20 ngày, tập trung đầy đủ lực lượng để đánh Điện Biên Phủ. Bước thứ hai chính là tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ước tính chiến dịch này sẽ kéo dài trong 45 ngày. Nếu Pháp không tăng cường thêm nhiều quân thì thời gian có thể rút ngắn hơn. Chiến dịch dự kiến sẽ kết thúc vào đầu tháng 4 năm 1954. Phần lớn lực lượng sau đó sẽ rút, để một bộ phận ở lại tiếp tục phát triển sang Lào.

“Pháo đài” Điện Biên Phủ và những chuẩn bị của Việt Nam

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được chia làm ba phân khu chính: Phân khu Bắc, Phân khu Trung tâm và Phân khu Nam. Tổng cộng trong toàn bộ tập đoàn cứ điểm có 10 trung tâm đề kháng khác nhau. 10 trung tâm đề kháng ấy lại chia ra thành 49 cứ điểm phòng thủ kiên cố với liên hoàn trang bị hỏa lực mạnh yểm trợ lẫn nhau. Mỗi cứ điểm riêng lẻ trong Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đều có khả năng phòng ngự độc lập. Nhiều cứ điểm được tổ chức lại thành cụm cứ điểm, gọi là "trung tâm đề kháng theo kiểu phức hợp", có lực lượng cơ động, hỏa lực riêng, hệ thống công sự vững chắc, chung quanh là hào giao thông và hàng rào dây kẽm gai, khả năng phòng ngự mạnh. Mỗi một phân khu được tạo thành từ nhiều trung tâm đề kháng kiên cố như vậy. Mỗi trung tâm đề kháng, cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm, đều có hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất, chịu được tác động của đạn pháo 105mm. Hệ thống công sự phụ dày đặc, hỏa lực mạnh, xung quanh lại được chôn vô số các loại mìn khác nhau.
Hỏa lực pháo binh được bố trí ở Mường Thanh và Hồng Cúm, có thể linh hoạt yểm trợ lẫn nhau và cho tất cả các cứ điểm khác khi bị tấn công. Ngoài hỏa lực chung của tập đoàn cứ điểm, mỗi trung tâm đề kháng còn có hỏa lực riêng, bao gồm súng cối các loại, súng phun lửa, và các loại súng máy bắn thẳng bố trí thành hệ thống vừa tự bảo vệ, vừa yểm hộ cho những trung tâm đề kháng xung quanh. Hỗ trợ cho Điện Biên Phủ là lực lượng không quân hùng hậu của cả Pháp và Mỹ. Hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm nối liền với Hà Nội, Hải Phòng bằng một cầu hàng không, trung bình mỗi ngày có gần 100 lần bay vận tải tiếp tế khoảng 200 - 300 tấn hàng, và thả dù khoảng 100 - 150 tấn. Tổng cộng quân Pháp ban đầu có 10800 quân cùng hơn 2000 quân người Việt của Quốc gia Việt Nam, về sau trong thời gian diễn ra chiến dịch được tăng viện thêm hơn 4300 quân nữa.
Về phía Quân đội nhân dân Việt Nam thì tuy có quân số đông đảo hơn hẳn đối phương, nhưng chúng ta chưa có kinh nghiệm đánh một cụm tập đoàn cứ điểm lớn như Điện Biên Phủ. Quân Pháp phòng thủ tuy ít hơn hẳn, nhưng bù lại có hệ thống các ổ trung tâm đề kháng vững chắc và kiên cố, có nhiều loại vũ khí hỏa lực mạnh dễ dàng gây thiệt hại lớn cho bên tấn công. Để có thể tiếp cận căn cứ địch, bộ đội Việt Nam sẽ phải chạy khoảng 200m giữa địa hình trống trải dày đặc dây kẽm gai và các bãi mìn, phải hứng chịu đủ loại hỏa lực của Pháp mà không hề có xe thiết giáp hay chướng ngại vật che chắn. Các chỉ huy Pháp tự tin rằng nếu Việt Minh chỉ biết sử dụng chiến thuật biển người thì dù quân số có đông đảo tới đâu cũng sẽ bị hỏa lực quân Pháp tiêu diệt nhanh chóng. Thêm nữa, tuy quân Pháp nằm bên dưới đáy lòng chảo Điện Biên Phủ, nhưng đó là khi xét trên toàn bộ khu vực. Còn nếu xét quy mô từng trận đánh thì thực tế các cụm đề kháng của Pháp đều nằm trên đồi và các khu vực cao, còn bộ đội Việt Nam là bên phải đánh từ dưới thấp lên.
Một khó khăn nữa của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến dịch chính là vấn đề hậu cần. Pháp cho rằng Việt Minh không thể có cách gì đưa được pháo lớn trên 105mm vào trận địa. Navarre tin rằng vì Điện Biên Phủ nằm cách quá xa căn cứ Việt Minh, địa hình xung quanh lại toàn là đồi núi và rừng rậm nên Việt Minh sẽ không có cách nào tiếp tế được lương thực, đạn dược cho 4 đại đoàn được. Cùng lắm thì sau 1 tuần lễ, bộ đội Việt Minh sẽ phải rút lui vì cạn tiếp tế. Trái lại quân Pháp sẽ được tiếp tế bằng máy bay, trừ khi sân bay bị pháo kích; nhưng Navarre tin rằng trường hợp này khó có thể xảy ra vì sân bay ở quá tầm pháo 105mm, và dù Việt Minh có đưa được pháo tới gần thì sẽ bị không quân và pháo binh Pháp phá hủy.
Thiếu tướng René Cogny
Thiếu tướng René Cogny
Vì các lý do trên, khi thiết lập tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã đánh giá sai khả năng của đối phương và đều tự tin cho rằng Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả chiến bại", là "cái bẫy để nghiền nát chủ lực Việt Minh". Tướng Cogny tuyên bố rằng: "Chúng tôi đã có một hỏa lực mạnh đủ sức quét sạch đối phương đông gấp 4-6 lần... Tôi sẽ làm tất cả để bắt tướng Giáp phải ‘ăn cát’ và chừa cái thói muốn đóng vai một nhà chiến lược lớn". Còn Navarre thì nhận xét rằng: "Làm cho Việt Minh tiến xuống khu lòng chảo! Đó là mơ ước của Đại tá Castries và toàn ban tham mưu. Họ mà xuống là chết với chúng ta." Chỉ huy pháo binh Pháp là Charles Piroth thì tự tin rằng ông ta có thừa số lượng pháo để đè bẹp đối phương và Việt Minh sẽ không thể gây ra khó khăn gì cho quân Pháp. Piroth tuyên bố rằng: "Sẽ không có khẩu pháo nào của Việt Minh bắn được 3 phát mà không bị pháo binh của chúng ta tiêu diệt!"
Bộ Tổng tham mưu của ta cũng nhận định rằng hậu cần là một trong những yếu tố quan trọng cần phải tìm cách giải quyết. Sau khi tính toán với bên Tổng cục Cung cấp, Bộ Tổng tham mưu đã nhận định rằng: Bước đầu phải huy động 4200 tấn gạo cho chiến dịch (chưa tính gạo cho dân công vận chuyển), 100 tấn rau, 100 tấn thịt, 80 tấn muối và 12 tấn đường. Tất cả đều phải vận chuyển qua chặng đường dài 500 km phần lớn là đèo dốc hiểm trở, lại bị không quân Pháp thường xuyên đánh phá. Nếu dùng dân công gánh gạo bằng đòn gánh thì để có 1 kg gạo đến đích phải có 24 kg ăn dọc đường. Vậy thì nếu cũng vận chuyển hoàn toàn bằng dân công gánh bộ, muốn có số gạo trên phải huy động từ hậu phương hơn 100,000 tấn gạo, và phải huy động hơn 2 triệu dân công để gánh. Cả hai con số này đều cao gấp nhiều lần so với nguồn lực có thể huy động được lúc đó.
Đứng trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã đưa ra nhiều phương hướng giải quyết thay thế. Một mặt, Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên người dân các vùng Tây Bắc ra sức tiết kiệm lương thực để đóng góp ngay tại chỗ. Mặt khác, động viên dân công phối hợp với công binh ra sức đẩy mạnh việc làm đường, sửa đường, huy động tối đa các phương tiện vận chuyển khác nhau nhằm giảm đến mức tối đa lượng lương thực, thực phẩm bị tiêu thụ dọc đường vận chuyển do phải đưa từ xa tới. Về chuẩn bị đường sá, các con đường thuộc tuyến chiến dịch đều phải bảo đảm vận chuyển bằng ô tô. Chúng ta đã huy động hai trung đoàn bộ binh cùng bộ đội công binh và hàng ngàn dân công để mở rộng - tu sửa các tuyến đường phục vụ cho ô tô chuyển gạo và đạn cho các đơn vị.
Một trong những lực lượng quan trọng phục vụ hậu cần cho chiến dịch là đội xe thồ với trên 20,000 người. Xe thồ được cải tiến có thể cho năng suất chở hàng cao hơn gấp hơn 10 lần dân công gánh bộ, lên tới 200-300kg hàng; đồng thời giảm được mức tiêu hao gạo ăn dọc đường cho người chuyên chở. Ngoài ra, xe thồ còn có thể hoạt động tốt trên cả những tuyến đường ghồ ghề, sình lầy, lắm bùn đất mà ô tô không thể đi được. Chính phương tiện vận chuyển thô sơ này đã gây nên sự bất ngờ lớn ngoài tầm dự tính của các chỉ huy quân Pháp. Mọi tính toán của Pháp hầu như đều bị đảo lộn khi họ cho rằng Việt Minh không thể có cách gì đáp ứng hậu cần cho một chiến dịch dài ngày và cho một đội quân lớn trong điều kiện địa hình phức tạp như vậy.
Thực tế đã cho thấy, công tác chuẩn bị hậu cần cho chiến dịch vượt xa số lượng cần thiết. Số lượng hàng hóa bảo đảm cho hơn 87,000 người tham gia chiến dịch, trong đó có gần 54,000 người là bộ đội chiến đấu chủ lực. Ngoài ra, các chỉ huy pháo binh Pháp cũng đã đánh giá quá sai lầm khả năng tác chiến bằng pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Người Pháp cho rằng với địa hình rừng núi quá hiểm trở, không có đường giao thông nên chúng ta không thể nào có năng lực mang được các loại pháo cỡ lớn như pháo 105mm hay pháo phòng không 37mm vào Điện Biên Phủ tham chiến. Cùng lắm chúng ta chỉ đưa được các loại pháo hạng nhẹ từ 75mm trở xuống vào trận địa, mà những loại pháo đó không thể gây thiệt hại lớn cho quân Pháp, sẽ dễ dàng bị tiêu diệt. Chính bản thân quân Pháp muốn chuyên chở các loại pháo hạng nặng vào cũng phải dùng đến không quân vận tải. Chính vì tin chắc như thế nên chỉ huy pháo binh Pháp là Piroth mới tự tin tuyên bố rằng pháo binh Việt Minh không thể làm nên trò trống gì và ông ta thừa sức nghiền nát đối phương.
Tất nhiên một lần nữa, Quân đội nhân dân Việt Nam lại làm đảo lộn mọi tính toán của người Pháp khi tìm ra được cách đưa pháo hạng nặng vào trận địa. Lính pháo binh của chúng ta đã tháo rời những chi tiết có thể tháo được một cách đơn giản và dễ dàng của khẩu pháo rồi huy động lực lượng vận chuyển đến trận địa. Sau khi đến trận địa thì sẽ tiến hành lắp ráp những chi tiết này lại với nhau. Đó chính là phương án giải quyết của Quân đội nhân dân Việt Nam khi không có khả năng như Pháp - trực tiếp kéo pháo vào trận địa bằng sức người. Bằng cách đó, bộ đội pháo binh Việt Nam đã đưa được thành công những khẩu pháo 105mm nặng đến hơn 2 tấn lên bố trí sâu trong các hầm được khoét vào sâu bên trong các lòng núi, sườn đồi.
Pháo binh của ta đã xây dựng các trận địa pháo cực kì bí mật, an toàn nhưng lại rất nguy hiểm với quân Pháp. Từ trên cao, những trận địa này khống chế rất tốt lòng chảo Điện Biên Phủ mà lại cực kỳ an toàn trước bom và pháo của đối phương. Với thế trận hỏa lực này, pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ cách mục tiêu chưa đầy 10km - tức là chỉ bằng nửa khoảng cách tối đa để pháo kích có hiệu quả. Ngược lại, pháo binh Pháp lại bố trí ở ngay giữa trung tâm, phơi mình trên trận địa không khác gì cá nằm trên thớt; chủ yếu vẫn là do người Pháp tự tin rằng Việt Minh không có khả năng đưa pháo hạng nặng vào nên không tỏ ra lo sợ gì.
Pháo và đạn dược của Việt Nam chủ yếu là chiến lợi phẩm hoặc do Trung Quốc viện trợ. Dù vậy, viện trợ không có nhiều nên việc sử dụng đạn pháo trong suốt chiến dịch phải hết sức tiết kiệm. Trước mỗi trận đánh có hiệp đồng binh chủng, số lượng đạn pháo và đạn cối đều phải được duyệt trước. Ngoài ra, các trung đoàn, đại đoàn muốn xin pháo 105mm bắn chi viện thì cứ từ 3 viên đạn trở lên phải được phép của Tham mưu trưởng chiến dịch xác nhận; còn nếu từ 5 viên đạn trở lên phải được đích thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký duyệt. Lý do là vì dự trữ đạn pháo của ta chỉ có độ 15,000 viên 105mm, nếu bắn theo kiểu không tiếc đạn như Pháp thì sẽ hết sạch chỉ sau vài ngày chiến đấu. Ngoài ra thì để bảo vệ các trận địa pháo, chúng ta còn lập trận địa giả với các khẩu pháo giả làm nghi binh. Khi trận địa thật khai hỏa thì người phụ trách nghi binh từ trong công sự chui ra rồi tung bộc phá loại nhỏ lên trên không thật cao; sau đó chạy thật nhanh khỏi khu vực. Máy bay trinh sát Pháp sẽ nghĩ đó là pháo địch nên sẽ phát tín hiệu cho pháo binh và không quân Pháp tiến hành tấn công khu vực đó. Nhờ vậy mà đa số trận địa pháo của Việt Nam đều được an toàn, và suốt chiến dịch chỉ có một khẩu 105mm bị hỏng do đã cũ.
Cuối cùng, một trong những chi tiết quan trọng và mang yếu tố quyết định tới toàn chiến dịch Điện Biên Phủ chính là quyết định thay đổi phương án tác chiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Vốn ban đầu kế hoạch của Đại tướng và Bộ Chỉ huy chiến dịch là thống nhất phương án "đánh nhanh thắng nhanh", ấn định ngày bắt đầu tấn công là 20 tháng 1 năm 1954. Phương án này đặt kế hoạch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trong 3 ngày đêm bằng tiến công ồ ạt đồng loạt, thọc sâu. Đây là phương án đã được Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương cùng Bộ Tổng tham mưu phê duyệt với sự nhất trí của đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Ý tưởng đằng sau phương án này chính là nếu tổ chức đánh sớm khi Pháp chưa tập trung đủ lực lượng và củng cố công sự thì có nhiều khả năng giành chiến thắng.
Sau đó do một đơn vị trọng pháo vào trận địa chậm nên ngày bắt đầu tấn công được lùi xuống là 25 tháng 1; nhưng rồi vì tin tức bị lộ nên Bộ Chỉ huy hoãn tiếp 24 giờ nữa, xuống ngày 26. Thế nhưng trong buổi đêm 25 tháng 1, sau cả một ngày dài suy nghĩ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định phải cho lui quân, thay đổi phương án tiến công vì một vài lý do quan trọng:
Thứ nhất, bộ đội chủ lực của ta cho đến thời điểm đó chưa có nhiều trang bị và kinh nghiệm trong việc đánh các công sự nằm liên hoàn trong một cứ điểm. Điển hình như trận Nà Sản diễn ra năm 1953 trước đó đã không thành công, và bị thương vong nhiều.
Thứ hai, đây là một trận đánh hiệp đồng lớn, nhưng pháo binh và bộ binh chưa tập luyện kỹ lưỡng, chưa diễn tập nhiều, không thể tránh khỏi việc không ăn ý với nhau.
Thứ ba, trước giờ Quân đội nhân dân Việt Nam thường quen tác chiến ban đêm ở những địa hình dễ ẩn náu, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc đánh quy ước ban ngày trên địa hình bằng phẳng, nhất là với một đối phương có ưu thế tập trung nhiều vũ khí và trang thiết bị hỏa lực mạnh như Pháp.
Sau khi xem xét kỹ lưỡng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng phương án "đánh nhanh thắng nhanh" mang nhiều tính chủ quan, không đánh giá đúng thực lực hai bên, không thể đảm bảo chắc thắng. Ông kiên quyết tổ chức lại chiến dịch theo phương án "đánh chắc, tiến chắc", chấp nhận đánh dài ngày để dần dần cô lập và triệt tiêu các trung tâm đề kháng của tập đoàn cứ điểm. Tuy cuộc họp vào sáng ngày 26 tháng 1 chưa hoàn toàn thống nhất được ý kiến, nhưng thật sự cũng không ai chắc chắn sẽ giành chiến thắng 100% nếu đánh theo phương án cũ. Do vậy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định hoãn cuộc tấn công vào chiều 26 và kết luận:
Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là "đánh chắc thắng", cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ "đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc". Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết, và kéo pháo ra.
Vậy là trong gần 2 tháng sau đó, các trận địa pháo lại được kéo ra, và bộ đội tiếp tục đánh nghi binh; đồng thời mở đường rộng hơn, dài hơn quanh khu vực Điện Biên Phủ. Sau đó lại tiếp tục kéo pháo vào, đào hào sâu hơn, xây công sự kiên cố hơn, tiếp cận gần hơn các căn cứ quân Pháp. Bên cạnh đó, lương thực và vũ khí từ hậu phương cũng được dồn lên nhiều hơn để chuẩn bị cho chiến dịch đánh dài ngày, có thể kéo sang đến cả mùa mưa.
Bản thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp về sau cũng cho rằng đây là quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân của mình. Thay đổi phương án tác chiến cũng kéo theo việc phải chuẩn bị lại hậu cần cho chiến dịch và bố trí lại các trận địa pháo. Dù rất khó khăn, nhưng ông vẫn đưa ra quyết định ấy; bởi lẽ thà chịu thêm khó khăn vất vả nhưng có khả năng chiến thắng cao, còn hơn là mạo hiểm đánh nhanh chịu thương vong nhiều mà cơ hội thắng còn bỏ ngỏ. Sau này, khi nhìn lại tổng thể chiến dịch Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh và nhà nghiên cứu của hai bên đều thống nhất rằng: nguyên nhân chính làm nên chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong trận này là đã huy động được rất lớn nguồn sức người để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch - nhất là sau khi thay đổi kế hoạch tấn công. Rõ ràng đây là việc mà người Pháp cho rằng không thể giải quyết được nếu không có nguồn lực như họ. Bản thân Navarre cũng thừa nhận rằng:
"Nếu tướng Giáp tiến công vào khoảng 25 tháng 1 như ý đồ ban đầu thì chắc chắn ông ta sẽ thất bại. Nhưng không may cho chúng ta, ông ta đã nhận ra điều đó và đây là một trong những lý do khiến ông ta tạm ngưng tiến công."
Tờ rải truyền đơn "khiêu chiến" của Henri Navarre gửi tới Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Tờ rải truyền đơn "khiêu chiến" của Henri Navarre gửi tới Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Mọi quá trình chuẩn bị coi như đã hoàn tất, và Bộ Chỉ huy chiến dịch ấn định ngày bắt đầu đợt tiến công đầu tiên là 13 tháng 3. Nhưng từ trước đó rất lâu, bộ đội Việt Nam đã khép chặt vòng vây, liên tục tổ chức những cuộc đánh phá quy mô nhỏ. Với chúng ta, chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài 56 ngày đêm; thế nhưng với hơn 10,000 quân Pháp có mặt ở Điện Biên Phủ, thì cơn ác mộng của họ kéo dài gấp ba lần như thế. Cơn ác mộng của người Pháp bắt đầu ngay từ lúc những lực lượng đầu tiên nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 20 tháng 11 năm 1953; và kéo dài gần nửa năm trời - bị đón đánh, bị phục kích, bị vây hãm, bị tấn công dồn dập. Quãng thời gian ấy kéo dài 170 ngày tất cả, và các đợt tấn công nằm trong chiến dịch Điện Biên Phủ chính là đỉnh điểm của cơn ác mộng ấy.

Diễn biến chiến dịch

Trong quá trình xây dựng và củng cố cụm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, de Castries phát hiện thấy lực lượng lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam đang tiến về khu vực lòng chảo. Vì thế, ông ta liên tục tung quân giải tỏa các ngọn đồi. Từ đầu tháng 12 năm 1953 đến tận ngày mở màn chiến dịch là 13 tháng 3 năm 1954, de Castries đã huy động một nửa lực lượng của tập đoàn cứ điểm vào những cuộc hành binh giải tỏa. Nhà báo Bernard Fall cho biết: "Theo những bản kê mới nhất từ Điện Biên Phủ gửi về, thiệt hại của binh đoàn đồn trú từ 20 tháng 11 đến 15 tháng 2 đã lên tổng số 32 sĩ quan, 96 hạ sĩ quan và 836 binh lính, tương đương với 10% số sĩ quan và hạ sĩ quan và 8% binh lính ở thung lũng."
Navarre về sau cũng viết trong hồi ký của mình rằng: "Trong thời gian này, đại tá de Castries thực hiện những trận chiến mạnh mẽ có tính thăm dò xung quanh Điện Biên Phủ. Ở khắp nơi, quân Pháp đều vấp phải những đơn vị bộ đội vững vàng và phòng ngự rất giỏi của địch. Chúng ta bị thiệt hại khá nặng nề. Rõ ràng là vòng vây chung quanh tập đoàn cứ điểm không hề bị rạn nứt."
Tuy vậy, các chỉ huy Pháp vẫn rất tự tin vào chiến thắng. Bộ trưởng Quốc phòng René Pleven đã báo cáo với Chính phủ Pháp sau chuyến đi thị sát tình hình Đông Dương rằng: "Tôi không tìm được bất cứ ai tỏ ra nghi ngờ về tính vững chắc của tập đoàn cứ điểm. Nhiều người còn mong ước cuộc tiến công của Việt Minh."
Về phía Quân đội nhân dân Việt Nam, thì tất cả mọi người đều hiểu rõ tầm quan trọng của chiến dịch này. Đây sẽ là một trận đánh lớn, mang tính quyết định với cuộc kháng chiến chống Pháp đã kéo dài gần 9 năm. Và trước thềm diễn ra cuộc tấn công mở màn, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã gửi lời động viên cổ vũ tới lực lượng tham gia chiến dịch: "Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn nhưng rất vinh quang... Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới… Chúc các chú thắng to!"
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao lá cờ Quyết chiến quyết thắng cho Đàm Quang Trung, Đại đoàn phó 312 trước giờ tấn công Him Lam
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao lá cờ Quyết chiến quyết thắng cho Đàm Quang Trung, Đại đoàn phó 312 trước giờ tấn công Him Lam
Như chúng ta đã biết, chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài 56 ngày đêm, nhưng các trận đánh diễn ra không liên tục mà có những quãng nghỉ nhất định. Lý do chính là vì công tác hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiều khó khăn, dù đã hết sức khắc phục nhưng vẫn cần độ trễ nhất định để chuyển lương thực và vũ khí, đạn dược tới chiến trường. Do đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã xác định không thể tổ chức đánh dồn dập liên tục, mà chia thành các đợt tiến công. Sau mỗi đợt tiến công, Bộ Chỉ huy sẽ xem xét tình hình để bổ sung, tổ chức lại quân số và hậu cần các nơi. Và đợt tiến công đầu tiên sẽ diễn ra từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3, với mục tiêu là tập trung tiêu diệt Phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm.
5 giờ chiều ngày 13 tháng 3, chiến dịch chính thức bắt đầu bằng trận đánh tại Đồi Him Lam. Quân đội nhân dân Việt Nam đánh phủ đầu bằng một loạt pháo nhắm thẳng vào cụm cứ điểm Him Lam. Một viên đạn pháo rơi trúng Sở Chỉ huy Him Lam, giết chết Thiếu tá Chỉ huy trưởng Paul Pégot cùng với ba sĩ quan khác và phá hỏng điện đài. Him Lam vì thế mất liên lạc với Mường Thanh ngay từ đầu trận đánh, các trận địa pháo của Pháp tại đây bị tê liệt hoàn toàn. Sau hơn 4 tiếng đồng hồ bắn pháo liên tục và dữ dội thì bộ đội Việt Nam bắt đầu tấn công vào Him Lam và xóa sổ cứ điểm này chỉ sau 3 tiếng.
Ngay chiều hôm sau - 14 tháng 3, theo yêu cầu của de Castries, Cogny lập tức tăng cường ngay cho Điện Biên Phủ một tiểu đoàn lính nhảy dù. Máy bay Pháp liều lĩnh vượt qua lưới lửa do pháo phòng không Việt Nam tạo ra để thả lính xuống lòng chảo. Trong khi đó, Quân đội nhân dân Việt Nam cũng tiếp tục cuộc tiến công bằng việc đánh đồi Độc Lập. Pháo binh tiếp tục làm nhiệm vụ đánh phủ đầu lúc 3 giờ rưỡi sáng ngày 15, và khi Chỉ huy trưởng cứ điểm đồi Độc Lập là Roland de Mecquenem điện báo cáo tình hình với de Castries thì được hứa hẹn sẽ có yểm trợ pháo tối đa và có phản kích bằng bộ binh và chiến xa. Thế nhưng chỉ 3 tiếng sau khi cuộc tấn công bắt đầu, trận chiến đã ngã ngũ với việc bộ đội Việt Nam chiếm được đồi Độc Lập, bắt sống Chỉ huy trưởng và những sĩ quan, binh lính còn sống.
Mất liên tiếp 2 cứ điểm, quân Pháp bèn mở cuộc phản kích, huy động 2 tiểu đoàn gồm 1000 lính cùng 5 xe tăng, nhưng bị pháo binh của Việt Nam đẩy lùi không tiến được. Cùng sáng ngày 15, Chỉ huy pháo binh Pháp Piroth sau 2 đêm liền không không thực hiện được lời hứa phá hủy các họng pháo của Việt Minh, đã tự sát trong hầm bằng lựu đạn. Bạn thân của ông ta là André Trancart, chỉ huy Phân khu Bắc đã kể lại rằng sau khi mất đồi Độc Lập, Piroth đã khóc và nói: "Tôi đã mất hết danh dự. Tôi đã bảo đảm với de Castries và Tổng Chỉ huy rằng sẽ không để pháo binh địch giành vai trò quyết định, và bây giờ, chúng ta sẽ thua trận."
Đến ngày 17 tháng 3, Đợt 1 của chiến dịch kết thúc. Sau 5 ngày chiến đấu, cánh cửa phía bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã mở toang. Quân Pháp không thể giành lại những vị trí đã mất, quan trọng hơn nữa là pháo binh Việt Nam đã đe dọa nghiêm trọng đến sân bay - chỗ dựa của tập đoàn cứ điểm. Ngày 20 tháng 3, Tổng tham mưu trưởng Pháp là Paul Ély được cử sang Mỹ cầu viện. Ông ta đã phát biểu công khai rằng Pháp không thể thắng được với những phương tiện hiện có; sau đó yêu cầu Mỹ tăng cường giúp đỡ vũ khí, đặc biệt là máy bay ném bom, và nếu cần thì can thiệp bằng không quân.
Lúc bấy giờ, các sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm đã bị pháo binh Việt Nam tấn công dữ dội, đến mức máy bay không thể cất cánh và hạ cánh được nữa. Từ đó trở đi không quân Pháp chỉ có thể tiếp tế được cho tập đoàn cứ điểm bằng cách thả dù. Ngay từ những ngày đầu trong Đợt 1 của chiến dịch, người Pháp đã nhận ra những tính toán ban đầu của họ là quá sai lầm, dẫn tới các điểm yếu chết người và tương lai thất bại rõ ràng. Thế nhưng Pháp vẫn tăng cường và cố gắng cầm cự ở Điện Biên Phủ vì hy vọng nếu kéo dài đến mùa mưa thì bộ đội Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong hậu cần và phải rút lui. Thế nhưng sự thật sau này đã chứng minh, ngay cả hy vọng nhỏ nhoi này cũng bị dập tắt, khi vòng vây của bộ đội Việt Nam ngày càng khép chặt.
Đợt 2 của chiến dịch bắt đầu từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 26 tháng 4, khi Quân đội nhân dân Việt Nam tập trung đánh Phân khu Trung tâm và đặc biệt là dãy cao điểm quan trọng ở phía đông, mục đích để khép vòng vây và bóp nghẹt tập đoàn cứ điểm. Hơn 30 cứ điểm ở đây được chia thành 4 trung tâm đề kháng, có những cao điểm chiến lược kiểm soát toàn bộ trận địa Phân khu Trung tâm. Trong số các cao điểm này, đồi A1 giữ vai trò đặc biệt quan trọng, vì nó khống chế một phạm vi khá rộng gồm cả khu vực sở chỉ huy của de Castries và hai chiếc cầu trên sông Nậm Rốm.
Chủ trương của ta trong Đợt 2 là tập trung ưu thế binh hỏa lực đánh chiếm đồng thời các cao điểm phía đông, trong đó có 5 cao điểm quan trọng là các đồi E, D1, C1, C2 và A1. 6 giờ chiều ngày 30 tháng 3, Đợt 2 chính thức bắt đầu. Tại cao điểm C1, Quân đội nhân dân Việt Nam dùng bộc lôi mở rào, sau đó tấn công dưới sự yểm trợ của pháo binh. Chỉ 10 phút sau, bộ đội Việt Nam đã chiếm được chiếc lô cốt nằm trên mỏm đất cao nhất nhô lên trên đỉnh đồi và cắm cờ trên nóc sở chỉ huy. Quân Pháp dồn về những lô cốt ở khu vực phía tây, gọi pháo bắn vào trận địa. Bộ đội Việt Nam bèn chuyển sang đánh giáp lá cà bằng lưỡi lê và lựu đạn. Chỉ trong chưa đầy 1 tiếng, toàn bộ cao điểm C1 đã thất thủ.
Sau đó, bộ đội Việt Nam tiếp tục đánh đến đồi C2. Khoảng 11 giờ đêm, một trung đội của ta đột nhập được một đoạn hào của C2, chiếm liên tiếp 11 lô cốt và ụ súng. Tuy nhiên lực lượng phía sau qua nhiều lần xung phong đều bị hỏa lực mạnh của Pháp cản lại. Vì vậy, các chỉ huy quyết định tạm lui về đồi C1 để tổ chức lại lực lượng. Ở các cao điểm khác như E và D1, mọi chuyện diễn ra suôn sẻ hơn khi bộ đội Việt Nam sau nhiều giờ chiến đấu đã kiểm soát được hai ngọn đồi này.
Tại cao điểm đặc biệt quan trọng là đồi A1, trận đánh diễn ra cực kỳ dữ dội. Bộ đội ta xung kích với sự yểm trợ của các loại hỏa lực. Tuy nhiên pháo binh Pháp đã kịp phản kích, bắn trả quyết liệt. Phải mất đến nửa tiếng thì hai mũi xung kích của ta mới vượt qua 100 mét rào và bãi mìn. Tại A1, Pháp đã dựa vào địa thế tự nhiên của quả đồi, bố trí công trình phòng thủ thành ba tuyến, trong cứ điểm có nhiều tuyến chiến hào và giao thông hào liên hoàn. Tất cả các lô cốt và hầm trú ẩn đều có nắp đậy, chịu được đạn súng cối và pháo. Chính những lớp phòng thủ kiên cố này đã khiến bộ đội Việt Nam hứng chịu nhiều thiệt hại khi xung kích mở đường.
Trận đánh tại A1 kéo dài đến sau cả khi chiến sự ở những ngọn đồi còn lại đã kết thúc. Vì thế Pháp dồn tất cả hỏa lực vào A1 để mong cứu vãn tình hình. Vì thế nên các đợt xung kích của ta bị khựng lại và thế trận rơi vào giằng co. Trận đánh dai dẳng mãi đến nửa đêm và mỗi bên kiểm soát được một nửa ngọn đồi.
Bộ Chỉ huy chiến dịch của ta nhận định rằng: bộ đội đã hoàn thành phần quan trọng nhiệm vụ Đợt 2, nhưng vẫn chưa chiếm được cao điểm phòng ngự then chốt A1. Lực lượng đánh vào đây đã tiêu hao đến cả quân số dự bị, không còn khả năng dứt điểm A1 nữa; còn lực lượng đánh đồi C2 cũng đã tiêu hao nhiều. Vì vậy, việc cần làm lúc này là đưa các đơn vị khác đến tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt A1 và phòng thủ C1. Bộ Chỉ huy sau đó đã hạ lệnh: các đơn vị khẩn trương tổ chức trận địa phòng ngự trên các cao điểm C1, D1, E; chuẩn bị chống lại những đợt phản kích của quân Pháp, dù thế nào cũng không thể để địch chiếm lại cao điểm. Bên cạnh đó, huy động lực lượng khác đến tiếp tục đánh A1.
Với người Pháp, những ngọn đồi có tính sống còn đối với tập đoàn cứ điểm; đặc biệt là các đồi  A1, C1 và D1. Một mặt, Pháp dựa vào hầm ngầm, lô cốt để cố thủ và đưa quân từ các điểm khác, huy động cả xe tăng để phản kích. Ngày 31 tháng 3, quân Pháp lợi dụng khói đại bác để tiến đánh D1. Lúc này, lực lượng bộ đội Việt Nam làm nhiệm vụ cảnh giới đã hy sinh nhiều do trúng đạn pháo của Pháp. Vì thế nên chỉ sau gần 30 phút, Pháp đã chiếm lại được gần hết đồi D1, dồn bộ đội Việt Minh vào góc. Bộ đội Việt Nam dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh lui những đợt phản kích của Pháp, quyết tử giữ mảnh đồi còn lại. Tuy đường dây điện thoại đã đứt, nhưng đài quan sát trung đoàn phát hiện kịp thời sự có mặt của quân Pháp trên D1, lập tức dùng pháo 105mm bắn chặn và điều lực lượng lên tăng viện, đảo ngược tình thế. Thấy tình thế bất lợi, quân Pháp yêu cầu được tăng viện, nhưng nhận được câu trả lời từ chỉ huy là Thiếu tá Bigeard rằng: "Không còn ai cả. Nếu không giữ được nữa thì biến!" Sau 1 giờ chiến đấu, quân Pháp rút về Mường Thanh, không chiếm lại được D1, mà còn kéo theo đó là mất cả đồi D3.
Đầu giờ chiều hôm đó, Thiếu tá Bigeard trực tiếp chỉ huy hai tiểu đoàn lính dù tiến lên đồi A1. Lần này Pháp tiếp tục dồn được lực lượng phòng ngự của Việt Nam vào thế bất lợi. Pháo binh không thể yểm trợ vì không tài nào phân biệt nổi hai bên. Bộ đội Việt Nam bèn nghĩ ra cách lấy vải dù trắng buộc lên đầu súng làm chuẩn cho pháo binh. Sau đó lợi dụng khi pháo yểm trợ bắn dồn dập, bộ đội Việt Nam đưa quân tăng viện vào, phối hợp cùng lực lượng phòng ngự đánh bật quân Pháp ra. Đến 4 giờ chiều, Bigeard buộc phải ra lệnh rút lui. Những cuộc phản kích trong ngày 31 của Pháp để chiếm lại các cao điểm đều thất bại. Tầm 10 giờ tối, Chỉ huy trưởng Phân khu Trung tâm của Pháp là Trung tá Pierre Langlais gọi điện thoại cho Bigeard, hỏi có thể giữ được những gì còn lại trong đêm nay không. Bigeard bèn khẳng định chắc nịch rằng: "Thưa Trung tá, chừng nào còn một người sống sót, tôi sẽ không bỏ Eliane (tức đồi A1)!" Với người Pháp, đồi A1 như thể một thành lũy cuối cùng của tập đoàn cứ điểm.
Thế trận lúc này rơi vào thế giằng co. Để chống lại các cứ điểm phòng ngự kiên cố của Pháp, bộ đội Việt Nam đã áp dụng chiến thuật "vây lấn" rất có hiệu quả bằng việc đào các đường giao thông hào, dần dần bao vây, siết chặt các vị trí phòng thủ của địch. Trận địa hào được xây dựng vào ban đêm, ngụy trang rất kỹ và triển khai cùng một lúc trên toàn thể mặt trận nên đã phân tán được sự đánh phá của quân Pháp. Việc đào hào, xây dựng trận địa cũng thực sự cũng là một cuộc chiến đấu. Bộ đội chủ lực cùng với lính công binh phải lao động cật lực từ 14 đến 18 tiếng mỗi ngày. Mà bấy giờ thời tiết lại không thuận lợi khi mưa dầm gió bấc khiến cho công sự nhiều nơi ngập nước và trở nên lầy lội; chưa kể đến việc quân Pháp bắn trả để ngăn bộ đội Việt Nam đào hào.
Khó khăn như thế, nhưng bộ đội Việt Nam vẫn tìm cách đối phó được và kết quả là đã tạo ra được một hệ thống hào phức tạp khắp mặt trận. Những tuyến chiến hào chằng chịt tổng cộng dài đến hơn 100km, thường xuyên được mở rộng và kéo dài theo tình hình thực tế. Dựa trên những yêu cầu về chiến thuật, bộ đội Việt Nam đã xây dựng hai loại đường hào: đường hào trục dùng cho việc cơ động pháo, vận chuyển thương binh, điều động bộ đội với số lượng lớn và đường hào tiếp cận địch của bộ binh. Các loại hào này đều sâu đến 1,7m và không quá rộng để bảo đảm an toàn trước bom đạn địch, giữ bí mật cho bộ đội khi di chuyển. Có thể nói là lúc bấy giờ, việc giằng co chiến đấu không khác gì so với thời kỳ Thế chiến thứ 1, khi binh lính các bên tranh giành quyền kiểm soát các đoạn hào.
Hệ thống hào này đã giúp ích rất nhiều cho việc chiến đấu dài ngày của bộ đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ. Chúng giúp hạn chế đáng kể thương vong vì pháo binh vào sát được vị trí của quân đối phương, làm bàn đạp tấn công rất thuận lợi. Bộ đội Việt Nam vây lấn đào hào cắt ngang cả sân bay, đến tận chân lô cốt cố thủ, khu vực kiểm soát thực tế của quân Pháp bị thu hẹp đáng kể, hầu như chỉ còn bó hẹp trong các lô cốt và cứ điểm. Chiến hào tiến vào gần còn mang cho quân Pháp nhiều tai họa khác. Hàng rào dây kẽm gai và bãi mìn dày đặc của cứ điểm lúc này lại trở thành những vật chướng ngại bảo vệ an toàn cho bộ đội Việt Nam; bởi vì nếu quân Pháp lao ra tấn công để phá hào hoặc bỏ chạy thì rất dễ đạp phải mìn hoặc vướng vào dây kẽm gai do chính họ chôn xuống.
Quân Pháp bị vây hãm nên ngày càng khốn đốn, phải sống trong điều kiện khủng khiếp. Vòng vây thu hẹp, tiếp tế và tiếp viện trở nên cực kỳ khó khăn. Dù có cả sự hỗ trợ của các phi công Mỹ thì việc thả hàng tiếp tế cũng không được hiệu quả cao. Nếu bay thấp thì máy bay trở thành mồi ngon cho pháo phòng không Việt Nam, nhưng nếu bay cao thì việc thả dù sẽ thiếu chính xác. Thành ra nhiều lúc họ nhắm mắt thả hàng cầu may và hậu quả là một phần không nhỏ rơi vào đúng trận địa của Việt Nam. Đây là một hệ quả tai hại mà các chỉ huy Pháp không hề mong muốn, nhưng họ vẫn buộc phải tiếp tục thả dù để duy trì khả năng chiến đấu của binh lính. Ngoài ra thì hình ảnh những chiếc máy bay vẫn đang thả dù chi viện cũng là một cách lên tinh thần để binh lính không mất hết hy vọng. Đại úy Jean Pouget về sau đã kể về thực trạng tiếp tế bằng không quân rằng:
"Có tới 50% kiện hàng rơi ngoài bãi thả. Ngày 1-4, hơn một nửa số hàng thả rơi ngoài vị trí. Ngày 6-4, hơn mười khẩu pháo không giật 75mm thả xuống Điện Biên, lính Pháp chỉ thu được hai khẩu, số còn lại coi như làm quà cho Việt Minh. Ngày 9-4, trong tổng số 195 tấn hàng tiếp tế đã thả, quân của tôi chỉ thu được có 6 tấn. Ngày 13-4, máy bay C-119 của Mỹ đã trút toàn bộ số đạn pháo 105mm xuống trận địa Việt Minh, coi như tiếp tế đạn cho đối phương! Ngày 18-4, hơn 30 tấn hàng rơi lạc sang trận địa Việt Minh. Ngày 27-4, có tới 70% số dù hàng rơi lạc mục tiêu. Ngày 5-5, hầu hết số hàng do C-119 thả xuống đều rơi xuống trận địa Việt Minh."
Để động viên tinh thần cho lính Pháp ở Điện Biên Phủ thì tháng 4 năm 1954, chính phủ Pháp đã thăng quân hàm trước thời hạn cho de Castries, từ Đại tá lên Chuẩn tướng. Nhưng dù thế cũng không thay đổi được tình hình thực tế rằng quân Pháp ở Điện Biên Phủ ngày càng yếu thế. Một lần nữa, Pháp lại hy vọng vào một sự giúp đỡ hoặc can thiệp trực tiếp của Mỹ.

Kết thúc chiến dịch

Tổng thống Mỹ là Eisenhower thực tế trước đó đã từng hứa với cử tri khi tranh cử rằng sẽ tìm cách xoa dịu tình hình quốc tế, khi dư luận đang căng thẳng do Chiến tranh Lạnh. Thế nhưng ông ta cũng không muốn tỏ ra thờ ơ trước yêu cầu của người Pháp. Phó tổng thống Richard Nixon về sau đã kể lại trong hồi ký rằng lúc ấy, "Đô đốc Radford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đề nghị chúng ta dùng 60 máy bay ném bom B-29 ở Philippines mở các cuộc đột kích vào ban đêm để tiêu diệt các vị trí của Việt Minh. Và đặt ra kế hoạch mang tên ‘Cuộc hành binh Chim kền kền’, sử dụng ba quả bom nguyên tử cỡ nhỏ để đạt được mục tiêu."
Ngày 3 tháng 4 năm 1954, Ngoại trưởng Mỹ John Dulles và Đô đốc Arthur Radford họp với 8 nghị sĩ có thế lực trong Quốc hội, phổ biến ý định của Tổng thống muốn có một nghị quyết cho phép sử dụng lực lượng không quân và hải quân Mỹ ở Đông Dương. Dulles nhấn mạnh Đông Dương sụp đổ có thể dẫn tới mất toàn bộ Đông Nam Á, Mỹ cuối cùng sẽ bị đẩy về quần đảo Hawaii. Nếu Mỹ không giúp Pháp thì hậu quả sẽ là Pháp phải từ bỏ cuộc chiến này.
Tổng thống Eisenhower
Tổng thống Eisenhower
Đến ngày 9 tháng 4, Eisenhower họp với Radford, các Tham mưu trưởng ba quân chủng và nhiều sĩ quan cao cấp khác để xem xét lần cuối mọi mặt tình hình. Radford là người duy nhất ủng hộ một cuộc can thiệp của Mỹ dù là đơn phương để tránh việc Pháp phải chịu thất bại ở Điện Biên Phủ. Các tham mưu trưởng hải quân và không quân tỏ vẻ không muốn dính dáng gì đến cuộc chiến này, còn tham mưu trưởng lục quân Ridgway thì phản đối quyết liệt, đưa ra ví dụ ngay trước đó về những hoạt động quân sự tương tự trong Chiến tranh Triều Tiên. Ông ta cho rằng những cuộc ném bom sẽ khiến Mỹ rơi vào một cuộc chiến mới tốn kém và không có kết quả rõ ràng. Ý kiến của Ridgway được nhiều người tán đồng và kế hoạch "Cuộc hành binh Chim kền kền" ngay lập tức bị đình chỉ. Mỹ quyết định không can thiệp trực tiếp, và như vậy coi như Pháp đã không còn cách nào thoát khỏi tình cảnh bi đát ở Điện Biên Phủ.
Sau gần một tháng tổ chức vây hãm, lấn dần trận địa và mài mòn tinh thần cũng như sinh lực quân Pháp; Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định tổ chức tiến công Đợt 3 để ra đòn quyết định. Đợt 3 của chiến dịch mở màn ngày 1 tháng 5, mục tiêu là đánh dứt điểm các cứ điểm phía đông và tổng tiến công tiêu diệt các vị trí còn lại.
Để chống lại hệ thống hầm ngầm cố thủ không thể xung phong đánh chiếm được trên đồi A1, công binh Việt Nam đào đường hầm từ trận địa tại A1 tới dưới hầm ngầm, đưa bộc phá với số lượng lớn vào đặt rồi cho nổ. Một đội đặc biệt gồm 25 người đã tiến hành công việc ngay trước mũi súng quân Pháp đã gặp rất nhiều khó khăn: thiếu không khí, đèn, đuốc mang vào hầm đều bị tắt, số đất moi từ lòng núi ra ngày càng nhiều không được để cho quân Pháp phát hiện. Nhưng lực lượng phòng ngự tại A1 đã có kế hoạch chiến đấu không cho quân Pháp tiến xuống cửa hầm, dù phải hy sinh tới người cuối cùng, để bảo vệ bí mật tuyệt đối.
Ngày 1 tháng 5, lực lượng phòng ngự tại đồi C1 được lệnh rời khỏi trận địa 200m để pháo binh chuẩn bị tấn công. Sau loạt pháo kích, bộ đội Việt Nam lập tức tấn công vào. Trận đánh kéo dài đến nửa đêm, và toàn bộ quân Pháp ở C1 đều bị tiêu diệt và bắt giữ. Dây thép gai và mìn lấy từ trận địa lập tức được trải ra sườn đồi thành một bãi chướng ngại dày đặc, đề phòng quân Pháp phản kích. Còn ở phía đông sông Nậm Rốm, bộ đội Việt Nam cũng đồng thời tấn công, đánh chiếm thành công 2 cứ điểm 505 và 505A vào rạng sáng ngày 2 tháng 5. Trên cánh đồng phía tây, bộ đội Việt Nam cũng thành công trong việc tiêu diệt cứ điểm 311A chỉ trong chưa đầy 1 tiếng rưỡi. Đến đêm ngày 4 tháng 5, lực lượng đánh cứ điểm 311A tiếp tục đánh chiếm cứ điểm 311B ở phía trong. Lúc này, trận địa của bộ đội Việt Nam đã tiến đến rất gần tới trung tâm đề kháng có nhiệm vụ làm bình phong chắn giữ cho hầm chỉ huy de Castries.
Ngày 5 tháng 5, việc đào hầm và đặt bộc phá tại đồi A1 đã hoàn tất. Sáng ngày 6, lực lượng phòng ngự ở A1 suốt hơn 1 tháng vừa qua được lệnh rút lui để làm dự bị. Tiếng nổ của khối bộc phá trên đồi A1 được chọn làm hiệu lệnh xung phong cho đợt tiến công tối hôm đó. Đến 8 rưỡi tối, bộc phá phát nổ, tạo ra một tiếng động lớn, thổi bay hoàn toàn lô cốt ngay bên trên, tiêu diệt phần lớn lực lượng quân Pháp ở đây. Bộ đội ta lập tức tràn vào, chia thành từng tổ nhỏ tiêu diệt dần dần từng ụ đề kháng của quân Pháp. Đến chừng 4 giờ sáng ngày 7 tháng 5, chỉ huy ở A1 là Đại úy Jean Pouget chỉ còn lại 34 lính dù. Cuối cùng, Pouget bị thương nặng và bị bắt; cứ điểm A1 thất thủ.
Cũng trong sáng ngày 7 tháng 5, bộ đội Việt Nam đã tiến công và chiếm được các cứ điểm còn lại như C2, 506, 507 và 310F. Toàn bộ các cứ điểm phía đông bị chiếm mà quân Pháp không có đủ lực lượng để phản kích. Độ 12 giờ trưa thì ở Mường Thanh, Langlais triệu tập cuộc họp các chỉ huy tiểu đoàn, đề ra kế hoạch phá vây lúc 8 giờ tối. Nhưng chỉ huy các tiểu đoàn đều báo rằng đơn vị họ không có đủ lực lượng và không ở trạng thái tốt nhất, nên nếu mạo hiểm tổ chức phá vây thì sẽ không thể thành công mà còn chịu thương vong lớn. Để binh lính kiệt sức liều đánh vào những vị trí được đối phương bảo vệ vững chắc, sẽ là một hành động tự sát.
Về phía Quân đội nhân dân Việt Nam, thì đến 3 giờ chiều, Bộ Chỉ huy truyền mệnh lệnh đến rằng: "Không cần đợi trời tối, lập tức mở cuộc tổng công kích vào Mường Thanh. Đơn vị phía đông đánh thẳng vào khu vực trung tâm, đơn vị phía tây giáp công sang, cùng tiến vào Sở chỉ huy của địch. Phải đánh thật mạnh, bao vây thật chặt, không để cho de Castries hay bất cứ tên địch nào chạy thoát."
Các lực lượng của ta khắp trận địa đều đồng loạt tiến công, trong khi quân Pháp hầu như không chống cự gì mà lập tức đầu hàng do đã kiệt sức và thấy rằng thế trận đã mất. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật lúc ấy dẫn Đại đoàn 360 chỉ còn 4 người khác băng qua cầu Mường Thanh. Nhận thấy quân Pháp hầu như không chống cự, Tạ Quốc Luật nhảy lên mặt đất, dùng một lính bảo an người Việt dẫn theo đường tắt tiến thật nhanh tới sở chỉ huy của de Castries. Đến độ 5 giờ chiều, sau khi dùng thủ pháo tiêu diệt tổ bảo vệ ở phòng ngoài sát cửa ra vào, 5 người của Đại đoàn 360 vượt qua gian hầm thứ 2, tiến vào gian hầm giữa khá rộng có tướng de Castries và các sĩ quan Pháp đang ở đấy. Tạ Quốc Luật bèn nói bằng tiếng Pháp rằng: "Các ông hàng đi. Các ông thua rồi. Các ông phải ra lệnh cho các ổ đề kháng bỏ súng, đầu hàng và điện về Hà Nội không cho máy bay ném bom xuống Điện Biên Phủ nữa." Đến 5 rưỡi chiều, tin tức bắt sống được de Castries đã lan khắp mặt trận.
Lực lượng của Pháp ở Phân khu Nam định tìm cách rút chạy sang Lào, nhưng bị truy kích và không thoát được. Hầu như toàn bộ quân Pháp còn lại ở Điện Biên Phủ, tức là hơn 11,000 quân, đều bị bắt sống. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc với thắng lợi hoàn toàn của Quân đội nhân dân Việt Nam và cụm tập đoàn cứ điểm mà Pháp cho rằng là "pháo đài bất khả xâm phạm", đã sụp đổ.
de Castries và bộ tham mưu Tập đoàn cứ điểm bị bắt
de Castries và bộ tham mưu Tập đoàn cứ điểm bị bắt
Sau 56 ngày đêm giao tranh ác liệt, trận chiến mang tính quyết định tới cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam đã kết thúc với thắng lợi hoàn toàn. Cụm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp đã bị tiêu diệt. Dù có lúc quân số của Pháp ở đây lên tới hơn 16,000 quân với vũ khí vượt trội, nhưng cuối cùng vẫn không tài nào lật nổi thế cờ. Thiệt hại của quân Pháp là từ hơn 1700 đến gần 2300 binh lính bỏ mạng, từ hơn 5200 đến hơn 6600 bị thương, hơn 1700 mất tích và hơn 11,000 bị bắt sống. Về phía Quân đội nhân dân Việt Nam, chúng ta có hơn 4000 người hy sinh và hơn 9600 người bị thương.
Với Pháp, đây là một thất bại thảm hại và bất ngờ. Thảm bại này khiến cho họ không còn nhân lực và ý chí để mà tiếp tục chiến tranh nữa. Một ngày sau khi Pháp để Điện Biên Phủ thất thủ, ngày 8 tháng 5 năm 1954, Hội nghị Genève bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Sau hội nghị này, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại đây.
Người Pháp buộc phải thừa nhận thất bại đầy cay đắng này, không còn lý do gì để bào chữa, như chính Langlais cũng đã viết trong hồi ký rằng: "Ở Điện Biên Phủ, nếu người ta muốn nhìn thẳng vào sự thật, thì ắt phải thấy rằng viện trợ cho Việt Minh chỉ là một giọt nước đặt bên cạnh dòng thác vật tư của Mỹ đổ vào cho người Pháp chúng ta."
Chiến thắng ở Điện Biên Phủ có thể coi là chiến thắng khiến cả thế giới chấn động vào thời điểm bấy giờ. Điện Biên Phủ là một đòn đánh mạnh vào nước Pháp nói riêng và thế giới phương Tây nói chung. Nó không chỉ là chất xúc tác khiến Pháp phải ký Hiệp định Genève chấm dứt chế độ thực dân ở Đông Dương, mà còn khiến nhiều quốc gia thuộc địa tương tự như Việt Nam - nhất là các quốc gia châu Phi - nhận ra rằng, họ cũng có thể làm được như vậy. Và thực tế là Điện Biên Phủ đã góp phần tạo nên một làn sóng nổi dậy đòi quyền độc lập từ các nước thuộc địa của Pháp ở châu Phi, dẫn đến kết quả cuối cùng là năm 1967, Pháp buộc phải trao trả quyền độc lập cho tất cả các nước thuộc địa.
Còn với Việt Nam, thắng lợi tại Điện Biên Phủ đã giúp chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài ngót 9 năm. Thế nhưng mọi chuyện chưa dừng lại ở đó, vì dù Pháp thất bại, nhưng còn đó một cường quốc phương Tây khác là Mỹ với tham vọng còn lớn hơn nữa. Thực tế là ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định rất chính xác tình hình với Đại tướng Võ Nguyên Giáp rằng: "Nhưng đừng chủ quan, còn phải đánh với Mỹ nữa. Sớm muộn gì chúng cũng sẽ nhảy vào Đông Dương thế chỗ Pháp." Và mọi chuyện sau đó như thế nào, chúng ta cũng đã biết: Mỹ tiếp tục can thiệp vào Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung, thậm chí là can thiệp quân sự trực tiếp; và cuộc chiến giành độc lập, tự do và thống nhất của Việt Nam vẫn còn chưa kết thúc. Nhưng dù sao đi chăng nữa, thắng lợi ở Điện Biên Phủ vẫn có vai trò cực kỳ quan trọng không chỉ với Việt Nam hay Đông Dương, và còn với cả tình hình thế giới những năm 1950 - 1960 đó.