Những năm gần đây quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng leo thang trong bối cảnh cạnh tranh toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Từ đó, hình thành những điểm nóng mới và biến động trong quan hệ hai nước. Các nhà nghiên cứu lo ngại cho tương lai của hai nước lớn này nói riêng và thế giới nói chung. Họ nhận định rằng “chiến tranh lạnh mới” giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ sớm xảy ra, mà nguyên nhân bắt nguồn từ tranh chấp tại Đài Loan (Peter Gries, 2020). Một số nghiên cứu chỉ ra những điểm nóng xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc có thể khiến “chiến tranh lạnh chuyển sang nóng”, vì thế phải ngăn chặn chúng. Rốt cục, những điểm nóng trong quan hệ Mỹ - Trung Quốc hiện nay đang tồn tại là gì? Tại sao chúng được gọi là các điểm nóng trong quan hệ hai nước? Vai trò của chúng đối với Mỹ và Trung Quốc như thế nào?
Bài viết sẽ nêu ra và chứng minh tầm quan trọng của ba điểm nóng quan trọng nhất hiện nay trong mối quan hệ Mỹ - Trung Quốc. Ba điểm nóng đó là vấn đề Đài Loan, lĩnh vực công nghệ, và xung đột Ukraine – Nga. Dựa trên việc lựa chọn các điểm nóng tiêu biểu này bài viết sẽ đi sâu vào phân tích nhằm lý giải không chỉ làm sáng tỏ cấu trúc, vai trò, tác động của các điểm nóng mà còn thấy được các khía cạnh đối ngoại của Mỹ và Trung Quốc ở những toan tính, thái độ chính trị, giá trị, và quan điểm. Mặc dù bài viết chưa xâu chuỗi được rõ ràng mối liên hệ giữa các điểm nóng cạnh tranh và chưa đưa ra câu trả lời cuối cùng cho tương lai của mối quan hệ này nhưng phần nào gợi mở được xu hướng cạnh tranh chiến lược mới, nơi mà các điểm nóng đang định hình một thể chế mới trên hành trình đến sự tương đồng còn nhiều gập ghềnh trong quan hệ của hai siêu cường.

Vấn đề Đài Loan

Từ khi quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Trung Quốc chính thức được ký kết vào năm 1979 cho đến nay, những cam kết chính trị xoay quanh vấn đề Đài Loan thường xuyên được thay đổi phụ thuộc vào sự lên xuống trong quan hệ hai nước. Thời gian đầu ngoại giao là lúc mà hai nước thể hiện mong muốn hợp tác cao nhất trên phương diện đối ngoại ở thái độ ôn hòa và trạng thái tin tưởng lẫn nhau. Vào năm 1978, chính phủ Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo đã cải cách nền kinh tế và hội nhập quốc tế, đặc biệt với Mỹ. Cụ thể, Trung Quốc đã ban hành đạo luật “một quốc gia, hai chế độ” trong đó cho phép Đài Loan được quyền có thể chế chính trị riêng. Đồng thời, để đạt được sự tin cậy của Mỹ trong quan hệ đối tác thì Trung Quốc không ngần ngại tuyên bố chuyển phương pháp ứng xử với Đài Loan từ “giải phóng bằng vũ lực” trở thành biện pháp “thống nhất hòa bình”. Những hành động đó là điều kiện để tổng thống Mỹ R.Nixon và Bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger nhìn thấy chuyển biến khả quan về lợi ích có được từ Trung Quốc nên việc tăng cường hợp tác diễn ra vô cùng thuận lợi. Điều này làm cho vấn đề Đài Loan bị hạ thấp khi quan hệ Mỹ - Trung tìm thấy nhiều lợi ích hơn trong việc tiến hành hợp tác. 
Ngược lại, vấn đề Đài Loan được đẩy lên cao trong chiến lược của Mỹ và Trung Quốc khi hai nước xảy ra những bất đồng quan điểm, căng thẳng cạnh tranh. Bởi vì, phía Trung Quốc thì kiên định theo đuổi mục tiêu thống nhất bán đảo Đài Loan vì nơi đây gắn liền với lợi ích an ninh quốc gia không thể tách rời. Trung Quốc quan niệm rằng vấn đề Đài Loan là một hình thức mô phỏng sự tôn nghiêm và niềm tự hào của quốc gia và sự thống nhất của nền văn minh vượt xa sự cân nhắc chính trị (Layne, 2020b). Theo mô tả của họ, Đài Loan là mảnh ghép cuối cùng để chữa lành chuỗi ký ức đau thương “bách niên quốc sỉ” (nỗi nhục trăm năm) của Trung Quốc. Sự thống nhất đó có ý nghĩa quan trọng giúp Chính phủ Trung Quốc giải quyết vấn đề ly khai ở Hồng Kông, Tây Tạng và Tân Cương, nó giúp củng cố niềm tin vào Chính phủ. Mặt khác, địa chính trị xuyên eo biển này có thể trở thành chỗ dựa củng cố cho việc phát triển quyền lực của Trung Quốc trong và ngoài nước. Chính vì vậy, các thế hệ lãnh đạo của Trung Quốc đều thực hiện nhất quán các nguyên tắc “thống nhất trong hòa bình” với Đài Loan dựa trên ba lĩnh vực chủ đạo về ngoại giao, quân sự và kinh tế. Tại đó, Trung Quốc dùng vị thế quốc gia để cô lập Đài Loan trên phương diện ngoại giao với thế giới bằng quan điểm “một Trung Quốc”. Đối với kinh tế, Trung Quốc duy trì ảnh hưởng kinh tế sâu rộng đối với Đài Loan để kiểm soát hành vi chính trị bên trong và ngoài bán đảo. Trung Quốc tiếp tục dùng sức mạnh quân sự để tạo ra uy quyền trước một Đài Loan nhỏ bé. Thế nhưng, chiến lược của Trung Quốc chưa thể vẹn toàn khi tình hình quân sự và vị trí ngoại giao của Đài Loan chuyển biến một cách khó kiểm soát do vai trò của Mỹ.
Đài Loan chính là nhân tố chiến lược để Mỹ hiện diện thường xuyên trong kế hoạch đối với khu vực Đông Á. Từ những ngày đầu, Mỹ chưa chú trọng đến Đài Loan vì trọng tâm lợi ích hướng đến thị trường và vai trò của Trung Quốc. Mỹ bấy giờ ưu tiên hợp tác với Trung Quốc cốt để phá vỡ sự liên kết và thu hẹp ảnh hưởng của Liên Xô, do đó “Kissinger giảm thiểu tầm quan trọng của Đài Loan” và “xem như một trở ngại cho tiến trình bình thường hóa với Bắc Kinh” (Tucker, 2005). Nhưng thời gian sau đó, tuyên bố của Mỹ mâu thuẫn với hành động của họ. Mỹ chấp thuận quan điểm “một Trung Quốc” trong Đồng thuận 1998, không công nhận Đài Loan là một quốc gia nhưng Mỹ vẫn có kết nối quân sự, duy trì hỗ trợ an ninh đối với Đài Loan. Điều này được thể hiện rõ trong các điều khoản đảm bảo trong  “6 cam kết” của Mỹ từ năm 1982 (Sukacz, 2023). Mối liên hệ đó gây nguy hại một cách trực tiếp đối với an ninh quốc gia của Trung Quốc, khiến nước này phải ban hành đạo luật “chống ly khai” vào năm 2005. Trong đó, Trung Quốc có thể sử dụng “biện pháp phi hòa bình” như là cách bất đắc dĩ để chống lại các hành vi quân sự tại Đài Loan giành độc lập (Cody, 2005). Rõ ràng, đối lập với các nỗ lực “thống nhất trong hòa bình” bằng việc cô lập ngoại giao và xóa bỏ quân sự tại Đài Loan của Trung Quốc thì Mỹ lại tìm cách để làm điều ngược lại với hầu hết các quan điểm của phía Trung Quốc, nó nảy sinh các mâu thuẫn không thể hòa giải trong quan hệ hai nước.
img_0
Sự gia tăng quyền lực của Trung Quốc trong hai thập kỉ gần đây đe dọa vị thế lãnh đạo của Mỹ khiến quốc gia này có những tính toán phức tạp mới về Đài Loan. Trong đó, khía cạnh an ninh quân sự được đẩy lên hàng tối quan trọng trong chiến lược của Mỹ đối với Đài Loan. Hòn đảo này luôn được xếp hạng là một trong những nhà nhập khẩu vũ khí hàng đầu của Hoa Kỳ, kể từ khi Mỹ thực hiện cam kết hỗ trợ phòng thủ. Điều này thấy rõ bằng các thương vụ buôn bán khí tài quân sự lớn nhất của các đời tổng thống từ G.W.Bush đã phê duyệt chín gói vũ khí, trị giá khoảng 5 tỷ đô la, hay Obama đã ký kết hai gói lớn với tổng trị giá khoảng 12 tỷ đô la, cho đến D.Trump đã phê duyệt gói 1,4 tỷ USD ngay từ ngày đầu nhậm chức (Maizland, 2019). Các nhà hoạch định quân sự Hoa Kỳ cùng chung quan điểm về Đài Loan như một “điểm nút” chiến lược để triển khai lực lượng trong Đông Á, kìm hãm sự trỗi dậy của Trung Quốc (Hass, 2022). Vì vậy, cung cấp nguồn lực quân sự là sự chuyển tiếp quyền lực Mỹ tại Đài Loan một cách khéo léo mà ít gây tốn kém cho toan tính kìm hãm Trung Quốc. Các hoạt động đó khiến Trung Quốc kịch liệt phản đối khi mà các tuyên bố Mỹ đã thừa nhận về nguyên tắc “một Trung Quốc”. Tháng 8 năm 2022, Trung Quốc công bố sách trắng mang tựa đề “Vấn đề Đài Loan và sự thống nhất của Trung Quốc trong kỷ nguyên mới”. Trong sách nêu rõ, “Bất kỳ nỗ lực nào sử dụng vấn đề Đài Loan như một cái cớ để can thiệp vào công việc nội bộ hoặc cản trở sự thống nhất” thì “chúng tôi [Trung Quốc] sẽ không từ bỏ việc sử dụng vũ lực và chúng tôi bảo lưu lựa chọn thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết” (Xinhua, 2022b). Có thể thấy, Trung Quốc đang quyết liệt hơn đối với vấn đề Đài Loan để bảo vệ lợi ích quốc gia trước các hành động của Mỹ. Điều này lý giải cho các hành động tập trận quân sự, thử nghiệm vũ khí và tranh chấp quân sự của Trung Quốc ở eo biển Đài Loan hiện nay. 
img_1
Ngoài ra, khía cạnh ngoại giao của đảo Đài Loan là luận điểm xuất hiện thường xuyên trong chiến lược của Mỹ và Trung Quốc. Nếu Đài Loan có nền ngoại giao độc lập và được quốc tế thừa nhận thì Trung Quốc sẽ thất bại trong việc thống nhất hòn đảo này, trong khi Mỹ đang làm điều đó. Vì vậy, Trung Quốc yêu cầu các nước không thiết lập quan hệ ngoại giao với Đài Loan nếu họ muốn thiết lập quan hệ với Bắc Kinh, điều đó khiến Đài Loan bị loại khỏi hầu hết các tổ chức quốc tế (Scott L. Kastner, 2022).  Thêm vào đó, Trung Quốc lồng ghép các chính sách cô lập ngoại giao Đài Loan khỏi quốc tế thông qua đại chiến lược “Vành đai, con đường” bởi các hành lang kinh tế, chính trị. Trước bức tường kiên cố đó, Mỹ đã phải tìm cách dùng ảnh hưởng quốc tế để hỗ trợ Đài Loan tham gia tổ chức quốc tế. Mỹ ban hành đạo luật Sáng kiến bảo vệ và tăng cường đồng minh quốc tế Đài Loan vào tháng 3 năm 2020 củng cố niềm tin cho Đài Loan có thêm chỗ dựa trong việc tham gia vào các tổ chức quốc tế. Hơn nữa, Mỹ tăng cường các chuyến thăm đến Đài Loan với mục đích không chỉ khuấy động ý chí của người dân và giới lãnh đạo Đài Loan về giá trị nền “dân chủ, tự do và nhân quyền” mà còn thể hiện những cam kết chính trị thực chất. Nhìn rộng ra, Mỹ muốn Đài Loan giành được vị thế ngoại giao trên quốc tế để biến hòn đảo này trở thành quân cờ trong bàn cờ chính trị dưới sự điều khiển của Mỹ. Đã có không ít các chuyến thăm ngoại giao được Mỹ tổ chức nhưng không chính thức. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã tới Đài Loan lần đầu vào năm 2002, sau đó là năm 2008 và một số quan chức tầm cỡ khác của Mỹ. Thậm chí, vào ngày 1 tháng 8 năm 2022, chuyến công du của bà Nancy Pelosi tới Đài Loan đã khiến chính trường Mỹ và giới chức Trung Quốc lo ngại về nguy cơ xung đột đỉnh điểm trong quan hệ hai nước. Các chuyên gia cho rằng, chuyến đi rõ ràng là động thái “khiêu khích” vào thời gian “nhạy cảm” khi quan hệ Mỹ - Trung đang leo thang căng thẳng trên nhiều lĩnh vực (Vân, 2022). Rõ ràng, vấn đề Đài Loan mới chỉ dừng lại ở sự hỗ trợ ngoại giao chưa được thừa nhận của Mỹ, vô hình trung gây đe dọa đến an ninh quốc gia buộc Trung Quốc phải hành động quân sự quyết liệt.
Có thể thấy, mức độ quan tâm dành cho Đài Loan vấn đề Đài Loan có mối quan hệ chặt chẽ đối với lợi ích của Mỹ và Trung Quốc tùy thuộc vào tình hình biến động trong chiến lược của hai nước. Trên phương diện ngoại giao hoặc quân sự thì tại Đài Loan vẫn chịu nhiều hậu quả hơn nữa do rạn nứt của quan hệ chính trị, thể chế và bất đồng lợi ích giữa Trung Quốc và Mỹ. Rõ ràng, Đài Loan sẽ còn nằm trong chiến lược lợi ích và mục tiêu chiến lược của hai siêu cường cho đến khi vấn đề tại Đài Loan được giải quyết hoàn toàn hoặc có những thỏa hiệp trong tiến trình đàm phán đem lại giá trị hòa bình cho Đài Loan, Mỹ và Trung Quốc.

Cạnh tranh công nghệ

Sự phát triển vượt bậc của tiến bộ công nghệ định hình xu hướng của các quốc gia phải bắt kịp công nghệ lõi để tránh không bị lạc hậu trước bối cảnh thế giới hiện đại. Trong cuộc chạy đua đó, hai siêu cường Trung Quốc và Mỹ đều tham vọng trở thành cường quốc đi đầu trong lĩnh vực công nghệ cao. Đó là dạng thức quyền lực của thời kỳ mới khi mà chức năng của công nghệ có tính đa nhiệm rộng lớn bao phủ các trụ cột thiết yếu như kinh tế hoặc quân sự. Do đó, cả Mỹ và Trung Quốc đều ban hành các chính sách tiếp cận công nghệ một cách cấp bách và đầy chiến lược từ đó mảng hợp tác công nghệ trở nên mong manh trước can thiệp của hai nước.
Trung Quốc rất coi trọng phát triển công nghệ trong suốt các thế hệ lãnh đạo quốc gia. Sự thực tiễn hóa vai trò của công nghệ trong nền chính trị Trung Quốc được thể hiện rõ nhất kể từ sau giai đoạn cải cách kinh tế và mở rộng hợp tác quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình với “cách duy nhất để Trung Quốc vượt Mỹ là hợp tác quan hệ với Mỹ tại lĩnh vực công nghệ” (Pillsbury, 2015). Từ cách tiếp cận mở hơn về công nghệ của Trung Quốc, cơ sở hạ tầng để kiến thiết nền công nghệ Trung Quốc ngày càng được củng cố. Điều này được thấy qua các thống kê tính đến cuối năm 1998, có hơn 20 triệu cán bộ khoa học và kỹ thuật làm việc trong các tổ chức nhà nước, gấp 4,8 lần so với năm 1975, các nhà khoa học và kỹ sư đã chiếm 56-60% nhân lực hoạt động khoa học và công nghệ (China, 2004). Với thế và lực công nghệ đủ mạnh, các thế lãnh đạo Trung Quốc kế nhiệm từ Hồ Cẩm Đào, hay Giang Trạch Dân cho đến hiện nay là Tập Cận Bình đều tiếp tục mở rộng ảnh hưởng công nghệ trên phạm vi toàn cầu.
Các mục tiêu phát triển công nghệ của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình được vạch ra một cách cụ thể có trọng tâm. Nổi bật là chiến lược “Made in China 2025” thể hiện rõ hoài bão cho nền công nghệ tương lai của Trung Quốc có thể tự sản xuất công nghệ cao vào năm 2025. Để đạt được mục tiêu đó, Trung Quốc ban hành các chính sách kích thích các cá nhân, tổ chức, công ty nội địa “vươn ra” thế giới bằng cách đầu tư ra nước ngoài để mua tài nguyên thiết yếu và hợp đồng xây dựng hạ tầng, công nghệ lõi (Shambaugh, 2020). Theo đó, Trung Quốc ủy thác rất lớn trách nhiệm cho công ty công nghệ có đủ nội lực và tự sản xuất ra sản phẩm công nghệ lõi để khẳng định bản sắc công nghệ Trung Quốc. Thông qua các quy định pháp luật đối với các doanh nghiệp nước ngoài muốn tham gia vào thị trường nội địa Trung Quốc thì phải chia sẻ hiểu biết công nghệ cho Chính phủ như một thỏa thuận bắt buộc. Và tất nhiên, lợi thế này tiếp tục được Trung Quốc duy trì trong các công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) và chia sẻ cho các công ty nội địa. Có thể thấy, chính phủ Trung Quốc thực hiện các chính sách học hỏi, tiếp thu và thậm chí là bòn rót các giá trị công nghệ thế giới quy tụ vào công cuộc xây dựng nền tảng công nghệ nội địa, trong đó Mỹ là quốc gia bị Mỹ lợi dụng nhiều nhất. 
Nếu chiến lược “Made in 2025” chú trọng nhiều hơn trong công nghệ nội địa thì trụ cột “con đường tơ lụa kỹ thuật số” nằm trong đại chiến lược “Vành đai, con đường” là bước đi của công nghệ Trung Quốc vươn ra ngoài thế giới.  Chiến lược này phơi bày tham vọng việc xây dựng chuỗi liên kết công nghệ toàn cầu mà trung tâm là Trung Quốc. Tính đến tháng 7 năm 2022, Trung Quốc đã thiết lập cơ chế hợp tác Con đường tơ lụa kỹ thuật số với 16 quốc gia, thúc đẩy cơ chế hợp tác song phương Thương mại điện tử Con đường tơ lụa với 23 quốc gia và xây dựng 34 tuyến cáp đất liền xuyên biên giới và một số tuyến cáp ngầm quốc tế với các nước láng giềng (Xinhua, 2022a). Đó là cơ hội để công nghệ Trung Quốc chứng tỏ tính hữu hiệu. Từ đó, việc tạo ra một bức tường công nghệ do Trung Quốc dẫn đầu để củng cố vị thế cường quốc công nghệ nhằm cô lập nước Mỹ trong sân chơi chính trị. Chính sách này phòng ngừa các biện pháp thắt chặt công nghệ của Mỹ có thể gây “tách biệt về công nghệ” và “thiệt hại của Trung Quốc có thể sẽ lớn hơn” (Anh, 2022). Điều này được thể hiện rõ thông qua sự kiện Huawei, ở đó Mỹ và Trung Quốc đã vén bức màn chiến lược công nghệ của quốc gia.
img_2
Các đột phá về khoa học công nghệ có ý nghĩa quan trọng cho Mỹ vươn lên vị trí cường quốc thế giới hiện đại. Mỹ đưa ra tuyên bố “ứng dụng triệt để công nghệ vào trung tâm của cạnh tranh với Trung Quốc” và “định hình nguồn của quyền lực quốc gia và sự thịnh vượng kinh tế Mỹ dựa trên khả năng duy trì ưu thế công nghệ.” (Brendan Thomas, 2020). Trong suốt hai cuộc chiến tranh thế giới, Mỹ đã chiếm lĩnh công nghệ quân sự ưu việt của thế giới nhằm thực hiện buôn bán giành thị phần về kinh tế. Tuy nhiên, trong chiến tranh lạnh với Liên Xô thì Mỹ lại đầu tư kinh tế đối với nghiên cứu và phát triển để chạy đua công nghệ phá vỡ các giới hạn mới về vũ trụ, quân sự và tương tác. Sau sự kiện ngày 11 tháng 9, công nghệ được coi là yếu tố thiếu yếu để bảo vệ quốc gia và chống khủng bố của chính quyền Bush. Do đó, Mỹ sẵn sàng chi hàng tỷ đô la mỗi năm cho nhiệm vụ vô cùng khẩn trọng của nước Mỹ và vì thế tiến bộ khoa học công nghệ cũng ngày càng phát triển vượt bậc (Jentleson, 2014).
Hơn nữa, chiến lược “xoay trục Châu Á - Thái Bình Dương” của tổng thống Obama chuyển trọng tâm sang địa chính trị Châu Á nhằm ban phát ảnh hưởng Mỹ một cách có chiến lược, sâu sắc. Từ đó, Mỹ hợp tác chặt chẽ về trao đổi kinh nghiệm và thúc đẩy giá trị công nghệ Mỹ được sử dụng rộng rãi tại quốc gia đồng minh tại Châu Á. Tuy nhiên, thời kỳ tổng thống D.Trump lại đòi hỏi nhiều hơn về sự trao đổi, sử dụng công nghệ Mỹ phải được công bằng. Năm 2017 tại phiên họp Quốc hội Mỹ, tổng thống D.Trump tuyên bố hùng hồn rằng chính sách đối ngoại của Mỹ cần thiết “chia sẻ công bằng”, tức là các đồng minh của Mỹ phải “trả phần chi phí xứng đáng” (Spetalnick, 2017). Rõ ràng, Mỹ bắt đầu có những sự đòi hỏi nhất định về giá trị công nghệ mà Mỹ cho rằng đó vốn là của họ, cách này đóng vai trò chính là nguyên nhân thúc đẩy chiến tranh công nghệ vào năm 2018 ở Huawei. Các cáo buộc, chính sách ngăn chặn toàn diện sự trao đổi công nghệ được Mỹ nhắm thẳng đối với Trung Quốc. Tổng thống Mỹ J.Biden tiếp tục kế thừa và kêu gọi các đồng minh gia nhập liên minh công nghệ để phát triển và loại bỏ yếu tố công nghệ Trung Quốc. Vào tháng 1 năm 2023, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và Tổng cục Mạng Truyền thông, Nội dung và Công nghệ của Ủy ban Châu Âu đã ký “Thỏa thuận Hành chính về Trí tuệ Nhân tạo vì Lợi ích Công cộng” (Digibyte, 2023). Rõ ràng, Mỹ thể hiện tham vọng thống trị nền công nghệ siêu máy tính, làm chủ trí tuệ nhân tạo (AI) trong tương lai, gạt bỏ yếu tố Trung Quốc ra khỏi các sản phẩm, thiết bị công nghệ Mỹ. Đó cho thấy quyết của Mỹ đối với Trung Quốc về lĩnh vực công nghệ.
img_3
Từ các nghi ngờ cố hữu đó, cạnh tranh công nghệ Mỹ - Trung Quốc đang diễn ra quyết liệt hơn kể từ lúc bắt đầu sự kiện Huawei. Trong sự kiện Huawei, công nghệ 5G đã làm iến bộ vượt bậc của công nghệ Trung Quốc, điều mà Mỹ không thể chấp nhận. Do đó, Mỹ đưa ra các cáo buộc chống lại Trung Quốc đã gia tăng trong những năm gần đây, dẫn đến việc cấm xuất khẩu công nghệ của Hoa Kỳ cùng với việc ngăn chặn các công ty Hoa Kỳ mua thiết bị công nghệ Trung Quốc được coi là gây rủi ro cho an ninh quốc gia. Sự bảo vệ nền tảng công nghệ lõi của Mỹ, vô hình trung đẩy Trung Quốc vào công cuộc phải tự sản xuất và phát triển công nghệ. Điều này trở thành chất xúc tác cho một điều kiện mới hình thành một bản sắc giá trị công nghệ riêng biệt của các siêu cường khi mà công nghệ không thể hòa hợp. Vị trí siêu cường công nghệ từ đó được định nghĩa qua các sản phẩm công nghệ tiến bộ vượt trội hơn phần còn lại của thế giới.

Điểm nóng Nga - Ukraine

Xung đột vũ trang tại Ukraine đã ảnh hưởng sâu sắc đến trật tự quan hệ quốc tế, nổi bật hơn là hình thành những tranh luận, bất đồng giữa các nước lớn. Sự biến động này khiến Mỹ chú ý nhiều hơn trong địa chính trị phía trên. Ở phía ngược lại, Trung Quốc đã phải duy trì tốt hơn các mối quan hệ ngoại giao với Nga. Trong đó, giới nghiên cứu nhận định “chiến tranh ở Ukraine đã trở thành một viên gạch trong bức tường ngăn cách quan hệ Mỹ - Trung” (Biba, 2022). Vì tại cùng thời điểm này, Mỹ và Trung Quốc đang cạnh tranh toàn diện nhau trên mọi lĩnh vực cho nên hai nước đều cần tìm kiếm các nguồn lợi ích có thể thúc đẩy quyền lực và vị thế lãnh đạo của quốc gia.
Sự hiện diện của Mỹ có hầu hết trong toàn bộ quá trình xung đột giữa Nga và Ukraine. Chính quyền tổng thống Biden đã phải chia đều vai trò Mỹ ở hai mặt trận địa chính trị, đó là khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và khu vực Châu Âu - Nga. Bởi vì, nước Mỹ tin rằng “có thể vực dậy ổn định khu vực, an ninh toàn cầu và trật tự quốc tế tự do bằng cách đảm bảo một chiến thắng của Ukraina” (Zambakari, 2022a). Chính vì vậy, Mỹ đã hỗ trợ phần lớn các khí tài quân sự cho Ukraine để chống lại Nga. Chỉ trong tháng 1 năm 2021, Hoa Kỳ đã đầu tư hơn 30 tỷ đô la vào hỗ trợ an ninh để thể hiện cam kết lâu dài và kiên định đối với chủ quyền của Ukraine (State, 2023). Việc hỗ trợ Ukraine được Mỹ giải thích trong bài phát biểu của Tổng thống Biden rằng “chúng tôi [Mỹ] muốn thấy Ukraine dân chủ, độc lập, có chủ quyền và thịnh vượng với các phương tiện để ngăn chặn và tự bảo vệ mình trước sự xâm lược” (Taylor, 2022). Có thể thấy, nước Mỹ luôn can dự trước hết thông qua những phát ngôn quảng giao với giá trị tự do, dân chủ Mỹ, nhưng đó vốn chỉ là phần nổi của tảng băng trong chiến lược của Mỹ.
Trên thực tế, nước Mỹ tham gia cuộc xung đột Ukraine nhằm đạt được lợi ích chính trị cốt lõi thay vì lợi ích kinh tế. Điều đó được thể hiện qua vị thế lãnh đạo, gia tăng sức ảnh hưởng quyền lực của Mỹ khi viện trợ giúp Ukraine thắng cuộc chiến. Quy luật chính trị quốc tế thường quy trách nhiệm, phê phán nước lớn và ủng hộ nước nhỏ trong cuộc xung đột mặc cho lỗi đến từ một phía khác. Do đó, Mỹ đang nắm chắc được sự ủng hộ quốc tế giúp nâng cao vai trò, uy tín, trách nhiệm quốc tế của cường quốc lãnh đạo. Từ đó, Mỹ thuận lợi truyền bá giá trị tự do Mỹ khắp nơi để nâng cao quyền lực mềm quốc gia. Ngược lại, Mỹ thiêu dệt cho Trung Quốc một hình ảnh tiêu cực trong việc ủng hộ Nga đối với quốc tế. Về cấp độ chiến lược, cuộc chiến đó đang cho Mỹ cơ hội để cô lập Nga và Trung Quốc trước phần còn lại thế giới do Mỹ lãnh đạo.
img_4
Đối với Trung Quốc, xung đột Ukraine khiến quốc gia này phải định hình cách ứng xử đối ngoại với các nước lớn và thế giới. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đưa ra lựa chọn phương án tối ưu đó chính là thể hiện thái độ trung lập với các hành động của Nga đối với Ukraine và chỉ trích vai trò của Mỹ. Trung Quốc tự nhận “không bao giờ đổ thêm dầu vào lửa, càng không lợi dụng khủng hoảng” và công kích Mỹ mới là “nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Ukraine và là nhân tố lớn nhất thúc đẩy cuộc khủng hoảng ấy” (Trung, 2023). Phía Trung Quốc tin rằng ngay cả khi nước này lên án các hành động của Nga ở Ukraine thì Mỹ cũng sẽ không cùng chiến tuyến với Trung Quốc để giải quyết xung đột. Thực ra, Mỹ và Trung Quốc, cả hai bên đều tham gia ở hai đầu đối lập của phổ hỗ trợ tại chiến tranh Ukraine, trong một cuộc cạnh tranh tổng thể ngày càng sâu sắc về kinh tế, quân sự và lĩnh vực công nghệ (Zambakari, 2022b).     
Trung Quốc đã lựa chọn cách thức ngoại giao nói một đằng làm một nẻo vừa ủng hộ vừa ngầm phản đối hành động của Nga. Trung Quốc không cấm vận Nga và biện minh cho hành động của Nga xuất phát từ an ninh quốc gia nhưng Trung Quốc vẫn tuyên bố lập trường là các bên cần phải giải quyết hòa bình tại Ukraine (Hùng, 2022). Rõ ràng, Trung Quốc cho thấy toan tính rất lớn đến diễn biến xung đột với các bên. Với Nga, thì Trung Quốc bề ngoài ủng hộ nhưng bên trong thì tuyệt nhiên không ủng hộ Nga hành động quân sự tại Ukraine vì rõ ràng nếu Nga chiến thắng cuộc chiến này thì Trung Quốc sẽ là quốc gia tiếp theo bị đe dọa an ninh quốc gia. Việc Nga thắng Ukraine khiến địa chính trị của Trung Quốc bị bó chặt với hai nguy cơ, một là không thể vươn xa hơn, hai là bị cô lập bởi một nước Nga hùng mạnh. Trung Quốc có thể hưởng lợi vô cùng lớn về kinh tế khi mà chiến sự kéo dài thì hàng hóa, đặc biệt là tài nguyên, năng lượng, thương mại song phương giữa Nga và Trung Quốc diễn ra vô cùng thuận lợi, mạnh mẽ. Theo dự báo, Trung Quốc có thể đạt tỷ lệ quan hệ thương mại cao nhất với Nga ở mức 51,09 tỷ USD (Javokhir, 2022). Do đó, chiến lược đối ngoại hữu hiệu của Trung Quốc là “ngư ông đắc lợi” chờ đợi và hưởng lợi trực tiếp đối với chiến sự ở Ukraine. Phần khác, Trung Quốc cũng phải bận tâm đáng kể ở phía Bắc trước bối cảnh quốc tế xáo trộn khiến các trung tâm quyền lực chuyển dịch. Trung Quốc phải chia đôi chính sách vào khu vực phía Bắc để đề phòng mọi phương án cả tốt lẫn xấu có thể xảy ra mà không thể đoán định.
Như vậy, chiến tranh Ukraine đã bộc lộ rõ bản chất các quan điểm, mục tiêu chiến lược đối ngoại của Mỹ và Trung Quốc đối với thế giới. Sự kiện này điều chỉnh chính sách đối ngoại của hai siêu cường dựa trên những sợi dây liên kết lợi ích xuyên lục địa của Mỹ và lợi ích láng giềng của Trung Quốc. Điều đó cũng cho thấy một cách thức hành xử đối ngoại hoàn toàn trái ngược nhau của Mỹ và Trung Quốc trong bản chất lợi ích. Chiến tranh Ukraine khắc họa điểm cắt cho mối quan hệ Mỹ - Trung có thể tiến tới hòa giải mối quan hệ phức tạp này khi mà cạnh tranh toàn diện cần thiết phải có môi trường ổn định, hòa bình.

Kết luận

Những điểm nóng chính trị vừa được phân tích ở trên cho thấy quan hệ ngoại giao Mỹ - Trung hiện ngày càng trở nên đa diện, đa hướng, biến động và cạnh tranh quyết liệt. Cho đến nay, các điểm nóng đều chưa được giải quyết triệt để, vì sự giằng co lợi ích từ các bên, sự khẳng định thể chế ưu việt cho sự phát triển, và vì những lý thuyết gắn liền với giấc mơ sức mạnh vượt chội, ở những lý thuyết đó cũng không thiếu những toan tính về sức mạnh lấn át của nền kinh tế. Quy mô và tính chất của các cuộc cạnh tranh ngày càng cao hơn đang tích lũy thành sự đối đầu ngày càng khó kiểm soát. Điều này có một phần nguyên nhân ở lập trường quốc tế đối nghịch nhau trong cách tiếp cận giải quyết các vấn đề. Vì thế, khi một trong ba điểm nóng tiếp tục leo thang cộng với những điểm nóng cũ vẫn đang duy trì, thì bất kỳ một hành động thiếu cân nhắc kỹ lưỡng của mỗi bên đều sẽ dẫn đến chiến tranh trực tiếp của Mỹ và Trung. Như thế rất có thể thế giới sẽ bước vào cuộc chiến tranh mới với hồi kết bất định. Lúc đó chắc chắn tất cả đều tổn hại vô cùng lớn.   
          Những điểm nóng trong quan hệ giữa Mỹ - Trung không chỉ là biểu hiện tức thời của quá trình chuyển biến quyền lực từ không ổn định đến ổn định, mà sẽ là sự cạnh tranh lâu dài trong quy luật thống nhất và đấu tranh. Điều này có nghĩa là sẽ có những điểm nóng mới xuất hiện, bên cạnh sự mất đi của một số điểm nóng cũ hoặc tất cả các điểm nóng ngày càng lớn dần, chúng chất chứa thành ung nhọt và không thể không bung mủ. Trong khi, Việt Nam là một phần trong chiến lược và mục tiêu cho sự cạnh tranh Mỹ - Trung thì điều Việt Nam cần làm là phải tránh xa khỏi các mâu thuẫn lợi ích và quyền lực của hai siêu cường này để không trở thành điểm nóng xung đột mới. Do đó, chính sách và ứng xử ngoại giao của Việt Nam với Mỹ và Trung Quốc phải giữ vững nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” – lợi ích quốc gia dân tộc là bất biến để linh hoạt, mềm dẻo trong quan hệ với Mỹ và Trung, biết cập nhật các chuyển biến liên tục và khôn lường của mối quan hệ phức tạp giữa hai siêu cường này, cập nhật từ những điều tưởng là đơn giản và nhỏ nhất. 
* Bài viết được đăng tải trên tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2024.