[Dịch] Thiên Đỉnh Máu - Cormac McCarthy (Chương 9)
Ổ mai phục - Xác da đỏ Apache - Đất trũng - Hồ thạch cao - Cơn lốc - Bầy ngựa mù tuyết - Da đỏ Delaware trở về - Thị thực di chúc -...

IX
Ổ mai phục - Xác da đỏ Apache - Đất trũng - Hồ thạch cao - Cơn lốc - Bầy ngựa mù tuyết - Da đỏ Delaware trở về - Thị thực di chúc - Xe ngựa bỏ hoang - Mỏ đồng – Bọn chiếm cứ - Con ngựa bị rắn đớp - Pháp quan bàn về dấu tích địa lí - Xác thằng nhỏ - Về thị sai và sự dìu dắt lầm lạc của quá khứ - Toán săn bò rừng.
Chúng đang vượt qua bờ tây của vùng hồ cạn trơ khi Glanton dừng ngựa. Hắn xoay thân và đặt tay lên đuôi gỗ yên ngựa và nhìn thẳng mặt trời phía đông vừa dâng trên núi non trọc trụi phớt vài điểm đen. Nơi đáy hồ bằng nhẵn vẹn nguyên không một dấu vết và núi non trên quần đảo màu lam đứng sững giữa trời như những ngôi đền lơ lửng.
Toadvine và đứa trẻ dừng ngựa và trông ra cảnh hoang tàn ấy cùng những người khác. Trên mặt hồ một dòng biển lạnh trào lên và nguồn nước vơi cạn ngàn năm qua nay gợn bạc trong làn gió sớm.
Nghe như tiếng chó săn, là lời của Toadvine.
Tao thấy như tiếng ngỗng kêu.
Bất chợt Bathcat và một kẻ Delaware quay ngựa và quất roi và hét toáng và nhóm người nhìn sang và lởn vởn và vạch đường xuống lòng hồ tới hàng cây bụi mọc thưa gần bờ. Nhiều người nhảy vọt khỏi ngựa và vội ràng chúng bằng vòng dây làm sẵn. Đến khi bầy thú được ràng chân và họ nằm rạp sau bụi sồi lùn sẵn sàng vũ khí đám kị binh hiện hình ở phía xa lòng hồ, một bức phù điêu mỏng về mã cung thủ run mình và bẻ hướng trong cái nóng hừng hực. Chúng băng qua trước nắng ngày và từng kẻ tan biến và lại hiện hình và chúng ngả đen dưới nắng ngày và từ vùng biển phai nhoà chúng phi tới như ảo ảnh cháy đen với cẳng chân bầy ngựa khua lên bọt nước vô thực và chúng ẩn trong nắng ngày và ẩn trong hồ nước và chúng đồng loạt long lanh và xiên xẹo và lại tản ra và chúng nhập vào trời đất thành những hoá thân kinh khiếp và dần làm một và xuất hiện trông như chúng trên nền trời rạng đông là đám kị binh hoả ngục dàn ngang khổng lồ và lộn ngược và cẳng chân bầy ngựa thuôn dài đến kinh ngạc giậm lên lớp mây ti mỏng và đám phản chiến binh gào rú lửng lơ toát vẻ uy mãnh và hão huyền và tiếng hét man dại vang khắp lòng hồ phẳng khô như tiếng hét của linh hồn đâm sợi mành lỗi kết đan vạn vật rồi tràn xuống thế gian trải dài bên dưới.
Chúng nó tấn công kìa, Glanton toáng lên, và vừa dứt câu chúng làm thế, giương cung sẵn sàng bắn. Những mũi tên phóng lên trời xanh với nắng ngày ở đuôi tên và rồi chợt tăng tốc và vút qua kèm tiếng huýt yếu dần như đàn vịt hoang bay lượn. Khẩu súng trường đầu tiên khai hoả.
Đứa trẻ nằm sấp cầm cây súng Walker bằng hai tay và cẩn thận bóp cò thật chậm như thể cậu từng làm vậy trong giấc mơ. Lũ chiến binh chạy qua trong quãng một trăm phít, gồm bốn mươi, năm mươi kẻ, và phóng lên bờ hồ và bắt đầu vỡ tan trong lớp nhiệt dày đặc và tản ra âm thầm và biến mất.
Nhóm người nấp sau bụi sồi lùn đang nằm nạp đạn. Một con ngựa tơ nằm thở đều trên mặt cát và những con trúng tên đang đứng với vẻ cam chịu lạ thường. Tate và Bác sĩ Irving lui về bên chúng. Những người khác nằm xem vùng hồ cạn trơ.
Họ bước ra, Toadvine và Glanton và pháp quan. Họ nhặt khẩu hoả mai rãnh xoắn nòng cụt bọc bằng da sống và báng súng gắn đầy kiểu đinh tán bằng đồng. Pháp quan nhìn về phía bắc dọc theo bờ hồ cạn trơ nơi lũ nghịch đạo tháo lui. Y đưa khẩu súng cho Toadvine và họ đi tiếp.
Người chết nằm trên con rạch cát. Hắn chỉ mang đôi ủng da và chiếc quần lửng rộng kiểu Mễ. Đôi ủng có mũi nhọn như giày bốt thấp và đế bằng da trâu và cổ cao buộc dây xăn xuống bắp đùi. Lớp cát nơi con rạch đậm màu máu. Họ đứng trong cái nóng im gió bên rìa hồ cạn trơ và Glanton lấy chân mang ủng hích hắn sang bên. Gương mặt sơn vẽ hiện ra, cát bám vào cầu mắt, cát bám vào lớp mỡ ung thối trây khắp thân. Ta có thể nhìn thấy lỗ đạn mà súng trường của Toadvine bắn trúng phía trên hạ sườn. Tóc hắn dài và đen và xỉn màu vì bụi và rận bò khắp nơi. Có những vết trắng bôi trên hai bờ má và những chữ V bôi trên sống mũi và hình đỏ sẫm bôi dưới đôi mắt và trên cằm. Hắn đã già và từng chịu nhát giáo đâm thành sẹo phía trên xương chậu và nhát kiếm xưa chém qua má trái thẳng lên khoé mắt. Những vết thương này nổi bật thêm nhờ hình xăm chạy dài, có khi mờ dần qua năm tháng, thế nhưng không liên hệ gì đến miền hoang mạc xung quanh.
Pháp quan quì gối với dao trên tay và cắt rời mảnh dây chiếc túi da cọp hắn đang đeo và trút hết đồ ra nền cát. Trong túi có mảnh che mắt làm bằng lông chim, một tràng hạt trái cây, vài viên đá lửa, một nắm đạn chì. Ngoài ra còn một hòn sỏi cũng chính là đá điên lấy từ bên trong loài dã thú và thấy nó pháp quan kiểm tra và bỏ túi. Những món đồ khác thì y lấy bàn tay trải rộng như thể có gì cần được đọc. Rồi y cầm dao rạch toạc quần hắn. Buộc gần hạ bộ thâm đen là cái xắc da nhỏ và thấy nó pháp quan cắt rời và bỏ vào túi áo vét-tông. Sau rốt y tóm những lọn tóc đen trên nền cát và kéo chúng lên và cắt ra da đầu. Rồi họ đứng lên và trở về, để mặc hắn đưa cặp mắt ráo khô nhìn kĩ đường mặt trời đi kéo theo tai hoạ.
Họ rong ngựa cả ngày trên miền hoang nhợt màu mọc thưa bụi mặn và cỏ kê. Lúc chiều tà họ nối đuôi nhau trên một vùng trũng đanh vang tiếng móng ngựa làm chúng bước ren rén và đảo mắt như thú nơi rạp xiếc và về đêm khi nằm trên nền đất ấy từng người nghe, ai cũng nghe, tiếng nổ trầm đục của đá rơi xuống đằng xa bên dưới ở nơi u tối giữa lòng thế gian.
Ngày tiếp theo họ băng qua hồ thạch cao mịn đến nỗi không con ngựa tơ nào vương lại dấu vết. Đoàn kị binh mang lớp muội xương trây quanh cặp mắt và vài người bôi đen mắt ngựa từ lâu. Ánh nắng nơi lòng hồ phản chiếu làm cháy hai bên cằm họ và bóng người bóng ngựa trên lớp bột trắng mịn đều mang sắc chàm tinh khiết. Ở miền hoang mạc phía bắc xa xôi vòi rồng bụi nổi lên chao đảo và khoan vào lòng đất và có người từng nghe về toán hành hương bổng giữa trời như thầy tu Hồi giáo trong luồng xoáy vô tri kia rồi nhào xuống gãy xương và đổ máu trên cát bụi và nằm đó như để dõi theo chính thứ từng vùi dập họ nay lao tới như ẩn quỉ say khướt và lại tan thành nguyên tố làm nó nảy sinh. Thoát khỏi cơn gió lốc không một tiếng nói và người hành hương nằm với xương gãy sẽ khóc than và trong đớn đau sẽ phẫn nộ, nhưng trước điều gì? Và nếu lớp vỏ khô đen của y một mai được toán lãng du tìm ra giữa cát bụi thì ai hiểu rõ căn cớ khiến cho y tàn đời?

Đêm đó họ ngồi bên củi lửa như hồn ma đầy bụi trên râu tóc và y phục, vẻ sướng vui, phụng thờ lửa. Ngọn lửa tàn và những hòn than nhỏ lăn xuống bình nguyên và thâu đêm cát bụi luồn trong bóng tối như rận bò không ngơi. Giữa màn đêm ngựa gào inh ỏi và rạng đông tìm thấy những con mù tuyết hoá điên cần bị bắn chết. Lúc lên đường gã Mễ họ gọi là McGill nay cưỡi con ngựa thứ ba sau ba ngày. Lần ấy ở vùng hồ cạn trơ gã không thể bôi đen mắt con ngựa tơ từng cưỡi mà không rọ mõm như chó và nay gã cưỡi con ngựa còn điên dại hơn và chỉ còn ba con ở trong đàn.
Chiều hôm ấy hai kẻ Delaware từng mất một ngày rời Janos nay trở về nơi họ nghỉ trưa bên giếng khoáng sản. Chúng dắt theo con ngựa của cựu binh, cái yên vẫn còn đó. Glanton lại gần nơi con thú đứng và nhặt sợi cương lết thết và dắt nó về phía củi lửa nơi hắn rút cây súng trường ra khỏi bao và đưa cho David Brown rồi ném đồ riêng của cựu binh vào củi lửa. Hắn cởi đai yên ngựa và tháo quân cụ khác và chất chúng vào ngọn lửa, chăn đắp, yên ngựa, mọi thứ, lớp lông da nhờn toả nồng nặc làn khói xám.
Rồi họ đi tiếp. Họ trên đường bắc tiến và hai ngày qua lũ Delaware xem khói toả trên đỉnh núi xa xôi rồi khói dừng và tắt hẳn. Đến chân đồi họ bắt gặp cỗ xe kiểu Pháp cũ bám bụi với sáu con ngựa mang đai kéo đang gặm cỏ khô giữa nơi cằn cỗi.
Một người được cắt cử tới cỗ xe và bầy ngựa giật đầu và ngoặt thân và phi nước kiệu. Đoàn kị binh lùa chúng quanh vùng trũng đến khi chúng chạy vòng tròn như bầy ngựa giấy cuốn theo cơn gió và cỗ xe gãy một bánh xào xạo theo sau. Kẻ đen bước ra vẫy mũ và bảo họ thôi và hắn lại gần nơi bầy ngựa mang ách đứng run sợ rồi chìa ra chiếc mũ và trò chuyện với chúng đến khi hắn với được sợi cương lê trên nền đất.
Glanton đi ngang qua hắn và mở cửa xe. Bên trong cỗ xe được chắp lại bằng nhiều mảnh gỗ mới và có người đàn ông nhoài ra gục đầu xuống. Ở trong còn người đàn ông khác và cậu bé và họ với vũ khí gần bên thiệt mạng xộc mùi hôi đuổi kền kền rời cỗ xe đầy ruột. Glanton cầm súng ống và đạn dược và đưa ra ngoài. Hai người trèo vào khoang chứa và cắt dây thừng và tấm vải bạt rách tươm và họ đá đổ cái rương hành lí và chiếc hộp da cũ chứa tài liệu và nạy mở chúng. Glanton lấy dao cắt dây buộc trên chiếc hộp tài liệu và hất chiếc hộp rơi xuống cát. Thư từ cho bất cứ đâu trừ nơi đây bắt đầu bay là và dạt về thung lũng. Có một vài bao dán nhãn chứa đầy quặng và hắn đổ hết ra nền đất và đá vào đống quặng và nhìn xung quanh. Hắn lại nhìn vào trong xe rồi nhổ bọt và quay sang và xem qua bầy ngựa. Chúng là giống ngựa Mĩ thân to nhưng sức đã hao mòn. Hắn ra lệnh cắt đai kéo ra khỏi hai con ngựa trong bầy rồi hắn xua kẻ đen tránh xa con dẫn đầu và vẫy mũ đuổi chúng. Chúng lao xuống đáy thung lũng, sai trật và cựa động trong bộ dây cương, cỗ xe chao lắc trên nhíp vải và người chết thò ra ngoài cánh cửa đang va đập. Trên đường tây tiến ở bình nguyên chúng phai mờ dần ban đầu là âm thanh kế đến là bóng hình chúng tan biến trên nền cát toả nhiệt đến khi chúng không khác gì hạt bụi trong cõi ảo giác hoang vu rồi mất dạng hoàn toàn. Đoàn kị binh đi tiếp.
Cả buổi chiều họ nối đuôi nhau tiến vào miền núi. Con chim cắt trống nhỏ lông xám bay quanh họ như thể tìm cờ hiệu rồi nó dang đôi cánh mỏng tránh xa bình nguyên bên dưới. Họ ngang qua thành phố sa thạch khi trời ngả hoàng hôn, qua tường luỹ và pháo đài và tháp canh phong hoá và kho lương bằng đá trong nắng chiều và trong bóng đổ. Họ ngang qua đá bùn vôi và đồ gốm và vết nứt trên đá phiến đồng và họ đi qua một hõm nước rậm cây và tới doi đất trông ra hõm chảo chơ vơ nơi có tàn tích bỏ hoang của Santa Rita del Cobre.
Tại đây họ dựng trại không nước và không lửa. Họ cử người đi trinh sát và Glanton bước ra con dốc và ngồi dưới ánh hoàng hôn dõi nhìn bóng tối bao trùm nơi vực thẳm để xem có chăng một nguồn sáng hiện ra ở đằng đó. Toán trinh sát trở về trong bóng tối và buổi sáng trời còn tối khi nhóm người lên ngựa khởi hành.
Họ tiến vào hõm chảo trong cảnh mịt mờ lúc rạng đông, nối đuôi nhau trên con đường đá phiến bên những dãy nhà gạch bùn cũ hoang phế mấy năm qua khi đám Apache cắt đoàn xe ngựa từ Chihuahua và để nơi này bị vây hãm. Dân Mễ đói ăn đã cuốc bộ đường dài về phía nam nhưng cũng hoài công vô ích. Dân Mĩ ngang qua cặn xỉ và gạch vụn và những hình thù đen bên miệng hầm và họ ngang qua xưởng rèn đầy quặng xung quanh và cỗ xe hư mòn và xe quặng trắng xương dưới ánh mặt trời và khung đen bằng sắt của máy bỏ hoang. Họ băng qua con rạch đá và ngang qua chốn điêu tàn ấy đến con dốc thoải nơi có đồn luỹ Tây Ban Nha đã cũ, một công trình lớn hình tam giác xây bằng bùn đất với tháp tròn ở ba góc. Cửa vào duy nhất ở bờ tường phía đông và khi tiếp cận họ nhìn thấy được đang bốc lên là làn khói họ từng ngửi phải trong bầu không buổi sáng.

Glanton đập cửa bằng cây chuỳ bọc da sống như kẻ lãng du ở nhà trọ. Ánh sáng xanh lơ bao phủ miền đồi và những đỉnh núi cao nhất phía bắc sừng sững trong nắng ngày còn hõm chảo thì chìm hết trong bóng tối. Tiếng hắn đập cửa kêu vang khắp những bờ đá thô nứt và dội ngược về. Nhóm người cho dừng ngựa. Glanton đá một phát vào cánh cửa.
Ai da trắng bước ra đây, hắn kêu.
Ai ngoài đó thế? có kẻ lên tiếng.
Glanton nhổ bọt.
Ai thế? chúng kêu.
Mở cửa, là lời của Glanton.
Họ đợi. Dây xích được kéo cành cạch trên lớp gỗ. Cánh cửa cao cọt kẹt hướng vào trong và đứng trước họ là một gã giương súng trường sẵn sàng bắn. Glanton hích gối vào con ngựa và nó ngẩng đầu dọc theo cánh cửa và đẩy nó mở và họ tiến qua.
Trong cảnh âm u nơi đồn luỹ họ rời ngựa và ràng chúng. Đôi ba cỗ xe thồ đậu xung quanh, vài cỗ mất bánh do đám lãng du lấy cắp. Chiếc đèn lồng cháy sáng ở một trong những căn phòng và vài người đứng bên cửa. Glanton băng qua mảnh sân tam giác. Đám người tránh sang một bên. Tưởng bây là thổ dân, chúng mở lời.
Đó là bốn kẻ sót lại trong nhóm bảy người từng khăn gói lên miền núi nhằm khai thác kim loại quí. Chúng cố thủ ba ngày trong đồn luỹ, từ hoang mạc phía nam chạy tới đây do bị bầy rợ truy bắt. Một kẻ bị bắn ngay ngực dưới và hắn nằm dựa tường ở trong phòng. Irving bước vào và nhìn hắn.
Có làm gì cho hắn chưa? gã nói.
Chưa làm gì hết.
Bây muốn đây làm gì cho hắn?
Không ai nhờ bây.
Thế lại hay, là lời của Irving. Bởi vì còn làm được gì nữa.
Gã nhin chúng. Chúng dơ bẩn và tả tơi và hơi dại. Về đêm chúng từng thử đi cướp phá ngược dòng con rạch vì ít gỗ và ít nước và chúng đã xẻ thịt con la chết nay nằm rỗng ruột và bốc mùi ở góc xa của mảnh đất. Thứ đầu tiên chúng xin là uýt-ki và thứ tiếp theo là thuốc lá. Chúng chỉ còn hai con thú và một con bị rắn đớp ở hoang mạc và nay ở trong đồn luỹ con vật này mang cái đầu sưng vù và gớm ghiếc như huyễn tưởng về loài ngựa xuất phát từ bi kịch Athens. Nó bị đớp ngay mũi và hai con mắt lòi ra khỏi cái đầu vô dạng chịu nỗi đau kinh khiếp và nó tập tễnh kêu than về phía bầy ngựa co cụm của nhóm người rồi chĩa cái mũi dài biến dạng lắc lư và chảy dãi kèm hơi thở khò khè do cổ họng bị nghẽn. Lớp da toác dọc trên sống mũi và xương ánh lên trắng hồng và cặp tai nhỏ trông như mảnh giấy xoắn lại thành hai bên của ổ bột đầy lông. Bầy ngựa Mĩ bắt đầu lờn vờn và rời nhau dọc bờ tường khi nó lại gần và nó mù quáng đuổi theo. Ở nơi ấy rộn lên tiếng đạp và tiếng đá và bầy ngựa chạy vòng quanh trong đồn luỹ. Con ngựa đực nhỏ lốm đốm thuộc về một kẻ Delaware nay tách khỏi bầy và hai lần húc nó và rồi quay sang và cắn vào cổ. Từ cổ họng con ngựa điên bật ra một tiếng thu hút người lại gần cửa.
Sao không bắn chết nó? là lời của Irving.
Chết sớm sợ thịt nó hư, chúng nói.
Irving nhổ bọt. Rắn đớp thế kia mà vẫn muốn ăn sao?
Chúng quay sang nhìn nhau. Chúng không biết.
Irving lắc đầu và bước ra ngoài. Glanton và pháp quan nhìn bọn chiếm cứ và bọn chiếm cứ nhìn xuống sàn. Vài thanh dầm chực đổ trong phòng và sàn ngập bùn và gạch bể. Ở nơi công sự đổ nát nắng ngày đang rọi xiên và Glanton nhìn thấy cái đứa thu mình trong góc là một thằng nhỏ Mễ hoặc con lai tầm mười hai tuổi. Nó chỉ mang chiếc quần và cặp xăng đan may tạm bằng da chưa thuộc. Nó trừng mắt nhìn Glanton kèm cái vẻ kinh sợ xấc láo.
Đứa nhỏ này là ai? là lời của pháp quan.
Chúng nhún vai, chúng ngoảnh đi.
Glanton nhổ bọt và lắc đầu.
Họ cắt cử người gác trên tầng thượng và tháo yên bầy ngựa và dắt chúng ra gặm cỏ và pháp quan bắt một con thú thồ hàng và lấy hết đồ ra khỏi túi yên và đi khám phá nơi công sự. Buổi chiều ở trong đồn luỹ y ngồi cầm búa đập vỡ nhiều mẫu quặng, khối tràng thạch giàu đồng ô-xít đỏ và những miếng vàng tự nhiên mà qua hình thái hữu cơ của chúng dường như y hiểu ra điều mới về nguồn gốc của địa cầu, ứng khẩu bài giảng về địa lí cho một nhóm nhỏ đang gật đầu và khạc nhổ. Vài người dẫn thánh kinh hòng phá rối việc y sắp xếp các niên đại xa rời sự hỗn mang xưa cổ và lời giả định bội giáo. Pháp quan mỉm cười.
Sách vở nói dối, y nói.
Chúa Trời không nói dối.
Đúng, là lời của pháp quan. Ông ta không như thế. Và lời của ông ta đây này.
Y giơ lên một khối đá.
Y nói thông qua đá và cây, cốt tuỷ của vạn vật.
Bọn chiếm cứ áo quần tơi tả gật gù với nhau và lập tức cho rằng mọi suy xét của y, người có học này, đều rất là chính xác, và điều này được pháp quan ủng hộ đến khi chúng cải đạo hẳn sang dòng tu mới qua đó y cười nhạo chúng là những kẻ khờ.
Tối hôm đó dưới ánh sao phần lớn người trong nhóm nằm nghỉ trên nền đất sét khô ở đồn luỹ. Trước khi cơn mưa buổi sáng xua họ đi, rúc thân vào các buồng ngủ bằng bùn u tối dọc bờ tường phía nam. Trong căn phòng nơi đồn luỹ họ nhóm lửa trên sàn từ trước và luồng khói dâng qua mái phòng đổ nát và Glanton và pháp quan và những người phò tá ngồi quanh ánh bập bùng và châm tẩu thuốc còn bọn chiếm cứ vừa đứng sang một phía vừa nhai thuốc lá cho không và nhổ bọt lên tường. Cái đứa con lai đưa cặp mắt sẫm màu dõi nhìn họ. Ở phía tây giữa miền đồi thấp tối đen họ nghe được tiếng sói tru mà bọn chiếm cứ còn hồ nghi và toán thợ săn cười mỉm với nhau. Một buổi đêm náo loạn tiếng ăng ẳng của lang cỏ và tiếng kêu của loài cú nên tiếng tru của con sói già ấy chính là âm thanh họ biết rõ nó phát ra từ đâu, một con sói đơn độc, có khi xam xám nơi chóp mũi, treo thõng như con rối trên mặt trăng với cái mõm dài đang mấp máy.
Về đêm trời trở lạnh và có mưa dông và chẳng bao lâu mọi loài thú hoang xứ ấy dần câm lặng. Một con ngựa chĩa gương mặt dài ướt đẫm vào trong cửa và Glanton ngước nhìn và nói với nó và nó hất đầu và cong môi và rút về cơn mưa và đêm tối.
Bọn chiếm cứ xem cảnh này cũng như xem mọi sự bằng cặp mắt láo liên và một kẻ trong bọn khẳng định về sau mình sẽ chẳng bao giờ nuôi ngựa. Glanton nhổ vào ngọn lửa và nhìn cái kẻ rách tươm ngồi ở nơi không phải là lưng ngựa và hắn lắc đầu trước sự điên rồ kì quái thể hiện qua bộ điệu và hình thức. Cơn mưa ngớt hạt và giữa cảnh phẳng lặng tiếng sấm dài rền to trên đỉnh đầu và kêu vang giữa đất đá và cơn mưa càng lúc càng nặng hạt đến khi nó xối vào lỗ hổng tối đen trên mái phòng và bốc hơi và xì xèo nơi củi lửa. Một người bật dậy và lôi các đầu xà mục nát rồi chất chúng vào ngọn lửa. Luồng khói toả dọc theo rầm mái cong oằn trên đầu họ và đất sét lỏng trên mái cỏ dần nhểu xuống. Bên ngoài đồn luỹ ngập những lớp nước văng toé trong gió giật và ánh lửa từ ô cửa hắt ra thành một dải mờ trên mặt biển nông nơi bầy ngựa đứng dọc theo như khán giả bên đường đang đợi chờ biến cố. Thi thoảng một người sẽ đứng lên và và bước ra và cái bóng của y đổ giữa bầy thú và chúng ngẩng lên cúi xuống cái đầu ướt đẫm và giậm móng guốc rồi lại đứng chờ dưới cơn mưa.
Những người canh gác nay tiến vào phòng và đứng toả hơi trước củi lửa. Kẻ đen đứng thập thò nơi ô cửa. Ai đó đã báo rằng pháp quan đang loã thân trên bờ tường, khổng lồ và tái nhợt trước sự thiên khải của tia chớp, sải bước trên đó và ngâm thơ bằng một kiểu xưa giàu chất sử thi. Glanton thầm nhìn ngọn lửa và những người đắp chăn nằm yên ở nơi khô ráo quanh sàn và chẳng bao lâu họ chìm vào giấc ngủ.
Sáng sớm trời đã tạnh mưa. Nước đọng thành vũng trên mảnh sân và con ngựa bị rắn đớp nằm chết với cái đầu biến dạng duỗi trên bùn đất và những con khác xúm vào góc đông bắc dưới tháp canh và quay mặt vào tường. Những đỉnh núi phương bắc phủ tuyết trắng tinh dưới nắng ngày mới dâng và khi Toadvine bước ra ngoài thì mặt trời vừa chạm bờ tường cao của đồn luỹ và giữa bầu im lặng ấm áp pháp quan đứng xỉa răng bằng cái gai như thể mới ăn xong.
Chào buổi sáng, pháp quan mở lời.
Chào buổi sáng, Toadvine đáp.
Nhìn quang đãng đó chứ.
Quang đãng nãy giờ rồi, Toadvine đáp.
Pháp quan ngoái đầu và nhìn về phía pháo đài cô-ban tinh khiết trong cảnh ngày sáng rỡ. Con chim ưng lượn qua khe núi với ánh mặt trời rực trắng trên đỉnh đầu và lông đuôi.
Quả là thế, là lời của pháp quan. Quả là thế.
Bọn chiếm cứ bước ra và vừa đứng quanh khu quân sự vừa chớp mắt như chim. Chúng đã bàn về việc gia nhập nhóm người và khi Glanton tiến tới mảnh sân dắt theo con ngựa thì kẻ đại diện cho chúng bước tới đưa ra lời quyết định. Glanton chẳng buồn nhìn gã. Hắn tiến vào doanh trại và lấy yên ngựa và đồ dùng. Cùng lúc đó có người tìm ra thằng nhỏ.
Nó nằm sấp mặt loã thân trong buồng ngủ. Ngổn ngang quanh nền đất sét là rất nhiều xương cốt từ thuở xưa. Như thể nó y hệt những đứa kia đã vô tình đặt chân vào hang ổ của một loài độc ác. Bọn chiếm cứ lại gần và đứng quanh cái xác trong thinh lặng. Chẳng bao lâu chúng tán hươu tán vượn về công lao và đức hạnh của thằng nhỏ nằm chết.
Trong đồn lũy toán săn da đầu lên ngựa và bắt chúng quay sang cánh cổng rộng mở đằng đông gửi tia nắng đón chào và gọi họ lên đường. Họ vừa tiến ra thì những kẻ ngụ cư bạc phận liền kéo thằng nhỏ và để nó nằm trên bãi bùn. Cổ nó gãy từ trước và đầu nó buông thõng lắc lư một cách kì lạ lúc chúng cho nó xuống đất. Những ngọn đồi xa mỏ đá nay phản chiếu xám mờ trên những vũng nước mưa ở mảnh sân và con la bị ăn mất thân sau nằm trong bùn đất như thứ gì đó trong bản in đa sắc về cuộc chiến kinh hoàng. Trong doanh trại không cửa kẻ bị bắn lúc thì hát thánh ca lúc thì rủa Chúa Trời. Bọn chiếm đất đứng quanh xác thằng nhỏ với quân cụ mục nát như đám người rách tươm làm cận vệ. Trước đó Glanton cho chúng nửa pao thuốc súng trường và vài viên đá lửa và một thỏi chì nho nhỏ và khi nhóm người tiến ra thì số ít ngoảnh nhìn chúng, ba kẻ đứng đấy không một biểu cảm trên gương mặt. Không một ai vẫy tay từ biệt. Kẻ chờ chết bên tro lửa đang hát và trên đường đi họ nghe thấy giai điệu về tuổi thơ của mình và vẫn nghe được khi họ trèo lên rãnh nước và ngang qua hàng cây bách xù còn ẩm sau cơn mưa. Kẻ chờ chết cố tình hát thật to và đoàn kị binh trên đường về nội địa dường như đi chậm dần nhằm nghe hắn hát vì chính họ cũng mang những phẩm chất này.
—
Hôm ấy họ rong ngựa qua những đồi thấp khô cằn lác đác bụi thường xanh. Nơi nơi trên đồng cỏ miền cao có nai tung mình và chạy tản và toán thợ săn ngồi trên yên bắn vài con và moi ruột và vác chúng và đến xế chiều họ dắt theo đám tuỳ tùng gồm sáu con sói đủ kích cỡ và màu lông bước lon ton thành hàng ở phía sau và nhìn qua vai nhau để chắc rằng mỗi con nên bước cho đúng. Lúc hoàng hôn họ dừng chân và nhóm lửa và nướng thịt nai. Màn đêm vây kín xung quanh họ và bầu trời vắng những vì sao. Nhìn sang phía bắc họ thấy được nhiều ngọn lửa khác rực đỏ và ảm đạm dọc theo những chóp núi vô hình. Họ ăn xong và đi tiếp, rời củi lửa trên nền đất phía sau, và lúc họ đi ngựa vào miền núi dường như ngọn lửa này đang đổi thay vị trí, lúc nơi đây, lúc nơi nọ, lùi xa dần, xê dịch khó tả dọc theo mạn sườn họ. Như lửa ma trơi muộn màng ở con lộ phía sau mà ai ai cũng thấy và không ai nói gì. Vì ý muốn lọc lừa trong sự vật ngời sáng sẽ biểu lộ như thế khi ta ngồi ngẫm lại và do đó bằng quỷ thuật của phần bất biến thuộc chặng đường hoàn tất sẽ đẩy con người vào vận mệnh giả dối.

Đêm ấy khi rong ngựa trên núi mặt bàn họ trông thấy đang tiến lại gần từa tựa họ là đám cưỡi ngựa rời xa bóng tối nhờ từng đợt loé sáng của cơn sét không mưa ở phía bắc. Glanton cho ngựa đứng im và nhóm người phía sau cũng dừng lại. Đám cưỡi ngựa âm thầm tiến tới. Đi được một trăm i-át chúng dừng lại và tất cả ngồi im thầm suy đoán khi cuộc gặp diễn ra.
Ai thế? Glanton kêu lên.
Bạn, là bạn.
Mỗi bên đang đếm người của bên còn lại.
Từ đâu tới thế? đám người lạ kêu lên.
Các anh tính đi đâu? pháp quan kêu lên.
Chúng là thợ săn bò rừng ở phía bắc, cùng những con ngựa thồ đầy thịt khô. Chúng vận đồ da được may bằng dây chằng của dã thú và chúng dừng theo kiểu của người hiếm khi rời ngựa. Chúng mang cây giáo săn bò rừng ở bình nguyên và vũ khí này đính đầy tua lông và vải màu và vài kẻ đeo cung tên và vài kẻ đeo súng kíp cũ với nút lua tua nhét vào nòng. Miếng thịt khô được gói bằng da sống và ngoài vũ khí chúng không có gì toát vẻ văn minh hệt như loài rợ thô kệch trên miền đất ấy.
Hai bên hoà đàm vẫn ngồi trên lưng ngựa và đám săn bò rừng châm điếu thuốc nhỏ và bảo rằng chúng đang trên đường tới khu chợ ở Mesilla. Lẽ ra dân Mĩ đã đổi lấy vài miếng thịt nhưng họ không có gì tương xứng và ý muốn trao đổi vẫn còn xa lạ với họ. Và thế là hai toán tách nhau trên bình nguyên khuya khoắt, từng toán đi sang lối mà toán kia đã tới, và như tất thảy người lãng du họ không ngừng tiến theo chiều ngược lại trên chặng đường mà người khác đã trải qua.
(hết chương 9)

Sáng tác
/sang-tac
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất