[Dịch] Thiên Đỉnh Máu - Cormac McCarthy (Chương 5)
Lưu lạc ở Miền trũng Mapimi - Sproule - Cây xác em bé - Cảnh một sự thảm sát - Kền kền - Người bị giết ở nhà thờ - Thâu đêm cùng xác...

Nguồn: Wikipedia
V
Lưu lạc ở Miền trũng Mapimi - Sproule - Cây xác em bé - Cảnh một sự thảm sát - Kền kền - Người bị giết ở nhà thờ - Thâu đêm cùng xác chết - Bầy sói - Nhóm giặt rửa bên sông cạn - Tiến về phía tây - Hư ảnh - Chạm trán cướp - Dơi quỉ tấn công - Đào giếng - Giao lộ ở vùng hoang - Xe thồ - Sproule bỏ mạng - Bị bắt - Cái đầu viên đại uý - Nhóm sống sót - Tới Chihuahua - Thành phố - Nhà giam - Toadvine.
Cùng bóng đêm một người sực tỉnh thật thần kì trong bãi xác mới và lẻn đi dưới ánh trăng. Nền đất cậu từng nằm ướt sũng máu và nước tiểu từ bàng quang rỗng của bầy thú và cậu bước ra nhớp nhúa và hôi hám như đứa con khó ngửi của người mẹ do chiến tranh hiện thân. Bọn rợ đã lên chỗ cao hơn và cậu có thể nhìn thấy lửa chúng đốt và nghe thấy chúng hát ca, bài cầu kinh lạ kì và ai oán trên kia nơi chúng đã đem thịt la quay chín. Cậu tìm lối qua lớp người tái nhợt và bị chém, qua lớp người nằm thượt và bầy ngựa trẹo chân, và cậu đếm sao trên trời và cất bước về phía nam. Cảnh đêm phô bày muôn hình vạn dạng nơi kia trong bụi cây và cậu chú tâm nhìn nền đất phía trước. Ánh sao và trăng khuyết in bóng mờ cậu lang thang lên góc tối miền hoang mạc và dọc theo rặng núi bầy sói tru lên và đi lên phía bắc lại gần bãi sát sinh. Cậu bước thâu đêm và vẫn nhìn thấy đám lửa sau lưng mình.
Cùng nắng sáng cậu tìm lối tới những vùng đá nhô cách đáy thung lũng một dặm. Cậu đang trèo ở nơi rải rác và ngổn ngang đá tảng khi cậu nghe một giọng cất lên đâu đó trong cõi mênh mông. Cậu hướng mắt về phía bình nguyên nhưng không thấy bóng người. Khi giọng nói lại cất lên cậu quay sang và ngồi nghỉ và mấy chốc cậu nhìn thấy một thứ men theo triền thoải, áo rách của người đàn ông bò lại gần cậu qua dốc đá vụn. Gã bước đi cẩn thận, ngoái nhìn phía sau lưng. Cậu nhận ra rằng không gì bám gót.
Gã khoác tấm chăn trên vai mình và ống tay áo bị rách và nhuốm máu và gã đỡ cánh tay đó sát người bằng tay còn lại. Tên gã là Sproule.
Tám người đã thoát thân. Ngựa gã đã trúng vài mũi tên và nó đã sụp thân bên dưới gã trong màn đêm và những người khác đã đi tiếp, trong đó có viên đại uý.
Họ ngồi bên nhau giữa đất đá và nhìn ngắm ánh ngày dài ra ở bình nguyên bên dưới.
Bây không còn đồ đạc gì hay sao? Sproule nói.
Đứa trẻ nhổ bọt và lắc đầu. Cậu nhìn Sproule.
Cánh tay bị nặng không?
Gã kéo nó lại gần cậu. Chưa là gì, gã nói.
Họ ngồi đưa mắt trông ra những dải cát và đá và gió.
Bọn da đỏ ấy thuộc tộc nào?
Đây không biết.
Sproule ho khù khụ vào nắm tay mình. Gã kéo cánh tay ứa máu lại gần người. Ai ngờ chúng đáng sợ đến thế với cả dân Cơ Đốc, gã nói.
Họ nằm nghỉ dưới bóng râm của mỏm đá cho đến quá trưa, đào bới một nơi trong đất dung nham xám để ngủ, và họ lên đường vào buổi chiều xuôi về thung lũng rồi lần theo dấu vết chiến tranh và họ rất bé và họ đi rất chậm giữa vẻ bao la của quang cảnh ấy.
Khi trời tối họ lại bò lên phía đá rìa và Sproule chỉ ra một vết sẫm màu trên bề mặt vách đá cằn cỗi. Nó trông như vết đen do ngọn lửa thuở xưa. Đứa trẻ lấy tay chắn mắt mình. Trong hẻm núi tường đá dạng vỏ sò uốn lượn trong cái nóng như những đường xếp nếp.
Có khi mạch thấm nằm trên đó, là lời của Sproule.
Đường lên đó dài lắm.
Vậy nếu bây thấy nguồn nước nào gần hơn thì đi.
Đứa trẻ nhìn gã và họ lên đường.
Nơi ấy trên cao có một con lạch và lối họ đi bề bộn đá sạt lở và đá tổ ong và loài cây lưỡi lê toát vẻ chết người. Cây bụi đen nhỏ điểm màu ô-liu lụi tàn dưới ánh nắng. Họ chực ngã trên đáy sét nứt rạn của một đường nước cạn khô. Họ nghỉ chân và đi tiếp.
Mạch thấm nằm tận trên cao trong các địa tầng, nước ngầm rỏ giọt xuôi theo lớp đá đen trơn và hoa mặt khỉ và hoa thần chết chơ vơ trong một mảnh vườn con con hiểm trở. Dòng nước chảy về đáy hẻm núi không nhiều hơn một giọt và họ lần lượt chúm môi tựa vào hòn đá như kẻ sùng đạo ở một ngôi đền.
Họ bước qua màn đêm trong cái hang hẹp phía trên nơi này, một hòm thánh vật xưa chứa đá lửa và đá sỏi phân tán đó đây trên thạch địa với xâu vỏ sò và xương sạch bóng và mớ than củi cho lửa hồng cổ đại. Họ đắp chung chăn trong cái lạnh và Sproule khẽ ho trong bóng tối và họ tỉnh giấc đôi lần để leo xuống và uống nước bên hòn đá. Họ rời đi khi mặt trời gần mọc và rạng đông lại tìm ra họ ở bình nguyên.
Họ lần theo nền đất mang dấu chân của bọn cuồng chiến và buổi chiều họ gặp phải con la đã gục thân và bị xiên và bỏ mặc đến chết và rồi họ gặp một con nữa. Lối đi hẹp dần qua đất đá và không lâu sau họ lại gần lùm cây treo đầy xác em bé.
Họ dừng bước cạnh nhau, vật vờ trong cái nóng. Những nạn nhân ấy, bảy tám bé con, bị chọc thủng hàm dưới và bị treo cổ như thế trên cành gãy của cây đậu gai đặng trơ trơ không mắt nhìn bầu trời lồ lộ. Trọc nhẵn và tái nhợt và trương sình, hình hài ấu trùng của một thứ không lời nào tả được. Hai người bơ vơ tập tễnh ngang qua, họ ngoái lại nhìn. Không gì lay động. Buổi chiều họ đi tới một ngôi làng ở bình nguyên nơi khói vẫn bay lên từ tàn tích và tất thảy đều đã chết. Ở đằng xa nó trông như lò nung đen dần sụp đổ. Họ vừa đứng ngoài rìa một hồi lâu vừa lắng nghe bầu tĩnh lặng trước khi tiến vào.
Họ chậm rãi đi qua phố bùn nho nhỏ. Nơi ấy có dê và cừu bị giết ở chuồng nuôi và heo chết trong bùn lầy. Họ băng qua những căn nhà bùn xập xệ nơi người người bị giết nằm theo mọi tư thế chết bên ô cửa và sàn nhà, loã thể và tấy sưng và kì lạ. Họ tìm thấy đĩa thức ăn vơi một nửa và con mèo bước ra và ngồi trong ánh nắng và quan sát họ vẻ thờ ơ và bầy ruồi vo ve khắp nơi trong bầu không nóng bức.
Ở cuối con phố họ dừng bên một quảng trường với băng ghế và cây xanh nơi kền kền chui rúc trong tổ đen hôi thối. Một con ngựa chết nằm giữa sân vuông và dăm con gà đang mổ trong bãi thức ăn loang bên ô cửa. Cột cháy thành than còn âm ỉ nơi mái nhà đã đổ sụp và một con la đang đứng trước cửa mở nơi nhà thờ.
Họ ngồi trên băng ghế và Sproule áp cánh tay vào ngực và lắc lư qua lại và chớp mắt trong ánh mặt trời.
Giờ bây muốn làm gì? là lời của đứa trẻ.
Tìm nước uống.
Ngoài việc đó.
Đây không biết.
Có muốn thử quay về không?
Về Texas?
Giờ còn nơi nào nữa.
Đi không nổi đâu.
Bây nói bừa thôi.
Nói bừa cái gì.
Gã lại ho không ngớt. Gã ôm ngực mình bằng bàn tay lành lặn và ngồi như thể đang lấy hơi.
Bây sao thế, bị cảm ư?
Đây mắc lao phổi.
Lao phổi?
Gã gật đầu. Đây tới nơi này là để chữa bệnh.
Đứa trẻ nhìn gã. Gã lắc đầu và đứng lên và bước qua quảng trường về phía nhà thờ. Nơi ấy có kền kền đang ngồi bệt giữa các dầm chìa xưa bằng gỗ khảm và cậu nhặt lên viên đá và liệng nó vào chúng song chúng vẫn trơ trơ.
Những cái bóng đã dài ra trong quảng trường và những làn khói xoắn đang bay trong con phố sét nẻ. Bầy chim ăn xác đậu quanh góc cao những ngôi nhà rồi dang rộng đôi cánh tỏ vẻ hô hào như giám mục lông đen bé nhỏ. Đứa trẻ quay về băng ghế và nhấc một bàn chân và gác lên đầu gối. Sproule vẫn ngồi như thế, đang đỡ cánh tay mình.
Cái thứ chó đẻ này phiền quá, gã nói.
Đứa trẻ nhổ bọt và nhìn con phố. Tối nay ta nên ở lại nơi này.
Bây có chắc sẽ không sao chứ?
Còn ai nữa?
Lỡ như bọn da đỏ tính quay lại?
Chúng quay lại làm gì?
Thì lỡ như chúng muốn thế?
Chúng chẳng quay lại đâu.
Gã đỡ cánh tay mình.
Ước gì bây có con dao, đứa trẻ nói.
Ước gì bây có mới đúng.
Có con dao là có thịt ăn rồi.
Đây không đói.
Ta nên lùng sục mấy căn nhà này xem còn gì không.
Bây đi đi.
Ta cần tìm chỗ ngủ.
Sproule nhìn cậu. Đây chả cần đi đâu, gã nói.
Chậc. Tuỳ bây thôi.
Sproule ho và nhổ bọt. Định như thế mà, gã nói.
Đứa trẻ quay đi và lần theo con phố.
Ô cửa thấp thấp và cậu phải cúi thân để luồn qua thanh rầm đỡ, đặt chân vào căn buồng mát dịu và bằng đất. Nơi ấy không có gia cụ trừ ổ rơm để nằm ngủ, chắc là một thùng gỗ chứa thức ăn. Cậu ghé sang nhà nọ rồi nhà kia. Trong một buồng phần khung máy dệt nhỏ ngả màu đen và cháy âm ỉ. Một buồng khác có một người, thịt hoá thành than khô căng, mắt chín trong hốc của chúng. Có một chỗ hõm trên vách bùn với hình thánh nhân vận đồ búp bê, gương mặt gỗ thô ráp được sơn màu sặc sỡ. Những ảnh minh hoạ được cắt từ quyển ghi chép và được dán lên vách, một bức hình nhỏ về một nữ hoàng, một thẻ bài giếp-xi in hình Bốn Cốc thánh. Có những cọng tiêu đen khô và một ít bình bầu. Một chai thuỷ tinh chứa cỏ dại. Ở bên ngoài một lô đất cằn cỗi với hàng rào phúc quế và lò tròn bằng sét đổ sụp xuống nơi sữa đông đen rung chuyển bên nguồn sáng phía trong.
Cậu tìm thấy một lọ bằng đất chứa đậu và dăm cái tô-ti-la khô và cậu mang chúng đến một ngôi nhà cuối phố nơi than hồng của phần mái vẫn đang cháy âm ỉ và cậu hâm thức ăn trong tro tàn và đánh chén, ngồi xổm ở đó như đào binh lùng sục tàn tích của thành phố mà y đã từng rời xa.
Khi cậu trở về sân vuông Sproule đã biến mất. Tứ bề nằm trong bóng tối. Cậu đi cắt qua sân vuông và bước lên bậc thang đá dẫn lên cửa nhà thờ và tiến vào. Sproule đang đứng ngay tiền sảnh. Ánh sáng thành trụ dài rọi từ cửa sổ cao bên bờ tường phía tây. Không có dãy ghế trong nhà thờ và sàn lát đá chất vun người bị lột da đầu và loã thân và xác người ăn dở của độ bốn mươi mạng đã dựng rào trong nhà của Đức Chúa nhằm chống lại quân nghịch đạo. Bọn rợ đã chặt ra lỗ thông mái và bắn họ từ trên cao và sàn lát đá đầy dẫy mũi tên nơi chúng đã bẻ lọi người họ hòng tước đi áo quần khỏi xác. Bàn thờ đã bị lật đổ và đền tạm bị cướp phá và Chúa Mễ vĩ đại yên giấc bị lôi khỏi chiếc cốc vàng. Tranh vẽ thánh nhân cổ đại lồng khung mắc xiêu vẹo trên bức tường như thể động đất đã ập đến và Chúa Cơ Đốc chết trong quan tài kính nằm vỡ nát ở nơi cung thánh.
Người bị giết nằm trong bể máu chung của họ. Nó đã đông lại thành một dạng pút-đinh vương vãi khắp nơi cùng dấu chân loài sói hay loài chó và cong theo đường mép nó đã hoá khô và nứt thành gốm màu đỏ tía. Máu loang thành những cái lưỡi đen trên sàn và máu trét lên đá lát và chảy vào tiền sảnh nơi lớp đá bị lõm từ bàn chân những tín đồ và cha ông trước mặt họ và nó đã len lỏi xuống bậc thang và rỏ giọt từ phiến đá giữa những dấu hằn đỏ thẫm của loài bới xác.
Sproule quay sang và nhìn đứa trẻ như thể gã đã biết ý mình song đứa trẻ lắc đầu. Đàn ruồi bay qua người bị lột da và hộp sọ mất tóc của người chết và đám ruồi đi trên cầu mắt co lại của họ.
Đi nào, là lời của đứa trẻ.
Họ bước qua sân vuông dưới tia sáng cuối cùng và men theo con phố hẹp. Bên ô cửa nằm đó xác đứa trẻ với hai con kền kền đậu ở trên. Sproule dùng tay lành lặn xua đuổi kền kền và chúng co thân và rít lên và vỗ cánh vụng về nhưng chúng không bay đi.
Họ lên đường khi trời tỏ với tia sáng đầu tiên còn bầy sói lẻn khỏi ô cửa và tan biến trong làn sương nơi phố xá. Họ đi theo con lộ phía tây nam mà bọn rợ đã đến. Dòng suối nho nhỏ đầy cát, cụm cây dương, ba con dê trắng. Họ lội qua sông cạn nơi đàn bà nằm chết bên đống đồ giặt rửa.
Họ cam chịu cả ngày trên một nơi đóng đầy cặn xỉ đang bốc khói, thi thoảng đi qua hình thể trương sình của xác la hay ngựa. Đến tối họ đã uống veo nước họ mang bên mình. Họ ngủ trên mặt cát và tỉnh dậy trong cái mát khi mờ sáng và đi tiếp và họ thả bước trên miền nham thạch đến khi muốn quị ngã. Buổi chiều họ tình cờ thấy một cỗ xe thồ trên đường đất, cần kéo chổng lên, hai bánh lớn được đẽo từ khoanh gỗ của thân cây dương và được ghim vào trục bằng đầu mộng. Họ trườn lại bóng râm bên dưới nó và ngủ đến khi trời tối và đi tiếp.
Lớp vỏ mặt trăng từng hiện trên trời cả hôm đã biến mất và họ lần theo dấu vết qua miền hoang mạc bằng ánh sao, cụm Tua Rua ngay trên đầu và rất bé nhỏ và Gấu Lớn thả bộ trên rặng núi nằm ở phương bắc.
Cánh tay này hôi quá, là lời của Sproule.
Hả?
Đây bảo cánh tay này hôi quá.
Có muốn đây xem thử không?
Để làm gì? Bây thì làm được gì.
Chậc. Tuỳ bây thôi.
Định như thế mà, gã nói.
Họ đi tiếp. Hai lần trong đêm họ nghe thấy rắn độc bé con nơi đồng cỏ sột soạt trong lùm cây và họ đâm sợ hãi. Cùng rạng đông họ đang trèo giữa nhiều đá phiến sét và đá sẫm màu bên dưới vách nếp nghiêng tối nơi những toà tháp đứng vững như ngôn sứ ba-dan và họ đi bên vệ đường qua thập giá gỗ nhỏ cắm trên những vồng đá nơi khách đường xa đã bỏ mạng. Con lộ quanh co giữa những ngọn đồi, và hai người bơ vơ cố sức đi trên đoạn khúc khuỷu, sạm đen dưới ánh nắng, mắt họ sưng rát và dải sơn quang phổ phóng ra ở nhiều góc. Trèo ngang qua phúc quế và đào gai nơi khối đá run rẩy và lườn lượn trong ánh mặt trời, đá và nước không có và vết hằn trên cát và họ vẫn lùng tìm thứ màu lá cây sẽ cho hay về nước nhưng không gì có nước. Họ ăn bốc món pi-nôn từ trong túi và đi tiếp. Qua cái nóng ban trưa và vào ánh hoàng hôn nơi thằn lằn rạp thân với chiếc cằm da áp vào lớp đá mát dịu và chống lại thế gian kèm nụ cười phớt qua và đôi mắt như tấm đá rạn.
Họ lên tới ngọn núi lúc tà dương và họ nhìn thấy được hàng dặm. Một vùng hồ bao la trải bên dưới họ cùng dãy núi lam xa xôi đứng trong khoảng nước yên gió trời và bóng con diều hâu vút bay và cây xanh lung linh trong cái nóng và một thành phố xa xôi trắng xoá trên sắc lam và rặng đồi râm mát. Họ ngồi quan sát. Họ nhìn thấy mặt trời chìm xuống mép gồ ghề của mặt đất đằng tây và họ nhìn thấy nó lóe lên phía sau rặng núi và họ thấy mặt hồ tối lại và bóng hình thành phố biến tan trên nơi ấy. Họ nằm ngủ nơi đất đá ngửa mặt như người chết và buổi sáng khi họ tỉnh dậy thì không còn thành phố và cây xanh và hồ nước chỉ còn một bình nguyên hoang sơ đầy bụi.
Sproule rên rỉ và gục người nơi đất đá. Đứa trẻ nhìn gã. Có nhiều vết rộp da dọc theo môi dưới gã và xuyên lớp áo tả tơi cánh tay gã tấy sưng và thứ gì hôi thối đã rỉ qua vết máu đậm hơn. Cậu ngoảnh đi và nhìn ra phía thung lũng.
Đằng xa có người đang tới, cậu nói.
Sproule không đáp lại. Đứa trẻ nhìn gã. Đây nói thật, cậu nói.
Da đỏ, là lời của Sproule. Đúng không?
Không biết nữa. Xa quá nên chẳng rõ.
Bây định làm gì?
Đây không biết.
Hồ nước đâu rồi?
Không biết kể sao.
Hai ta đều thấy mà.
Muốn gì thì thấy đó thôi.
Sao giờ lại không thấy? Đây biết rõ mình muốn chứ.
Đứa trẻ hướng mắt về phía bình nguyên bên dưới.
Liệu chúng là da đỏ? là lời của Sproule.
Rất có thể.
Ở đâu nấp được?
Đứa trẻ khạc nhổ và lau miệng bằng mu bàn tay. Một con thằn lằn chui ra khỏi bên dưới một tảng đá và cúi thân vểnh khuỷu tay nhỏ bên vũng sùi bọt và uống hết và vừa quay về tảng đá vừa lưu lại trên cát chỉ một vệt mờ biến mất gần như tức khắc.
Họ đợi cả hôm. Đứa trẻ đi những chuyến xuôi về hẻm núi nhằm tìm nguồn nước nhưng cậu tìm không ra. Không gì lay động trong chốn luyện ngục hoang vu trừ bầy chim ăn thịt. Đến chớm chiều họ thấy được băng cưỡi ngựa trên đoạn khúc khuỷu đang đi lên mặt núi bên dưới. Chúng là người Mễ.
Sproule đang ngồi với cẳng chân duỗi thẳng đằng trước. E là đôi ủng cũ này bền hơn đây, gã nói. Gã ngước lên. Đi đi, gã nói. Tự cứu lấy mình. Gã xua tay.
Họ ngả lưng dưới một gờ đá trong bóng râm chật hẹp. Đứa trẻ không trả lời. Chưa đầy một tiếng họ nghe được tiếng sồn sột của móng guốc nơi đất đá và tiếng leng keng của đồ vật. Con đầu tiên vòng qua đỉnh đá và đi xuyên qua khe núi là giống ngựa hồng lớn vóc và nó đeo yên của viên đại uý nhưng nó không chở viên đại uý. Hai người lánh nạn đứng bên vệ đường. Băng cưỡi ngựa trông rừng rực và xanh xao bước ra khỏi ánh nắng và cho ngựa dừng bước như thể chúng nhẹ tênh. Trong đó có bảy kẻ, tám kẻ. Chúng mang mũ rộng vành và áo vét da thuộc và chúng vắt ngang súng hoa cải gần núm yên và đoạn chúng đi ngang thì kẻ cầm đầu gật nghiêm chào họ trên con ngựa viên đại uý và chạm vành nón mình và chúng đi tiếp.
Sproule và đứa trẻ dõi nhìn chúng. Đứa trẻ gọi to và Sproule đã bắt đầu tập tễnh chạy theo sau bầy ngựa.
Băng cưỡi ngựa bắt đầu khom thân và nghiêng ngả như kẻ say. Đầu chúng thả lỏng. Tiếng chúng cười ha hả rền vang giữa đất đá và chúng cho thú cưỡi quay sang và cho dừng bước và săm soi hai người lưu lạc kèm nụ cười toe toét.
Bây muốn gì? là lời hô của kẻ cầm đầu.
Băng cưỡi ngựa cười khúc khích và vỗ lên nhau. Chúng đã thúc ngựa đi tới và bắt đầu loanh quanh vơ vẩn. Kẻ cầm đầu ngoái sang hai người bộ hành.
Đang kiếm da đỏ à?
Qua lời này dăm kẻ rời ngựa và ôm nhau và sụt sùi vẻ trơ tráo. Kẻ cầm đầu nhìn sang chúng và toét miệng cười, răng hắn trắng và to, phù hợp cho kiếm ăn.
Lũ điên, là lời của Sproule. Đúng là lũ điên.
Đứa trẻ ngước nhìn kẻ cầm đầu. Một ngụm nước thì sao? cậu nói.
Kẻ cầm đầu nghiêm lại, trưng bộ mặt căng thẳng. Nước? hắn nói.
Đây không có nước, là lời của Sproule.
Nhưng mà bạn ơi, sao lại không? Khô cằn thế này cơ mà.
Hắn với tay ra sau mà không ngoái lại và một bình nước bằng da được chuyền sang từng kẻ cưỡi ngựa rồi tới tay hắn. Hắn lắc nó và đưa nó xuống. Đứa trẻ giật ra nút chai và uống và đứng thở mạnh và lại uống. Kẻ cầm đầu với xuống và vỗ lên cái bình. Đủ rồi, hắn nói.
Cậu vẫn cứ uống. Cậu không thể nhìn thấy gương mặt kẻ cưỡi ngựa tối dần. Hắn vung một chân mang ủng ra sau khỏi bàn đạp và đá bình nước trên tay đứa trẻ rồi để cậu đứng một hồi bất động trong cử chỉ vẫy gọi với bình nước bay lên và xoay vòng giữa không trung và nhiều giọt nước lấp lánh quanh nó trong ánh mặt trời trước khi nó đập vào đất đá. Sproule chạy theo nó và giật nó lên khỏi nơi nước đổ và bắt đầu uống, quan sát qua mép bình. Băng cưỡi ngựa và đứa trẻ nhìn nhau. Sproule lại ngồi hổn hển và khù khụ.
Đứa trẻ đặt chân qua đất đá và lấy bình nước trên tay gã. Kẻ cầm đầu thúc ngựa đi tới và rút ra cây kiếm từ dưới chân hắn và nghiêng tới trước luồn mặt kiếm vào dưới sợi dây và nâng nó lên. Mũi kiếm cách gương mặt đứa trẻ độ ba in-chơ và sợi dây bình nước vắt ngang mặt kiếm. Đứa trẻ đã ngưng và băng cưỡi ngựa khẽ nâng bình nước khỏi tay cậu và để nó trượt xuôi theo lưỡi kiếm và đến bên hông hắn. Hắn quay sang đồng bọn và cười mỉm và chúng lại bắt đầu hò reo và thụi nhau như loài vượn.
Hắn đưa nút chai lên khỏi nơi nó thõng xuống nhờ một mảnh da và nhấn vào chỗ cũ bằng gót bàn tay. Hắn quăng bình nước cho một kẻ ở sau lưng và cúi nhìn hai khách đường xa. Sao không trốn? hắn nói.
Trốn khỏi bây?
Trốn khỏi ta.
Bọn đây khát.
Khát lắm à?
Họ không trả lời. Hắn đang vỗ vỗ mặt kiếm lên mỏm yên ngựa và hắn có vẻ đang nhào nặn ngôn từ trong tâm trí. Hắn khẽ ngả người tới họ. Khi bầy cừu non lạc trong núi, hắn nói. Thường sẽ có tiếng kêu. Có lúc đi tới là cừu mẹ. Có lúc là sói dữ. Hắn mỉm cười với họ và giơ cây kiếm và tra lại vào nơi nó được rút ra và cho ngựa quay phắt thân và phi nước kiệu qua bầy đàn phía sau mình và bọn chúng trèo lên và theo bước và mấy chốc chúng đã mất tăm.
Sproule ngồi bất động. Đứa trẻ nhìn gã nhưng gã liền ngoảnh đi. Gã bị thương trên một thù quốc xa quê và mặc dù đôi mắt gã chú tâm nhìn các viên đá lạ vậy mà nỗi trống vắng muôn trùng dường như đã nuốt trôi linh hồn gã.
Họ xuống núi, bước qua đất đá với bàn tay chìa ra phía trước và cái bóng họ vẹo cong trên địa hình đứt gãy như loài sinh vật lùng tìm dáng hình cho chính nó. Họ tới đáy thung lũng lúc hoàng hôn và đi qua miền đất màu lam và dịu mát, non núi đằng tây tạo nên đường gồ ghề của tấm đá dựng thẳng trên mặt đất và cỏ dại khô xiên lệch và xoắn vặn theo cơn gió nổi từ hư không.
Họ dấn thân vào bóng tối và họ ngủ như chó trong cát bụi và đã ngủ như thế khi một thứ đen sì vỗ cánh bay khỏi nền đất ban đêm và đậu trên ngực Sproule. Xương ngón mảnh dẻ giữ đôi cánh da giúp nó vững bước khi nó đang lại gần gã. Nếp nhăn trên gương mặt bẹt, nhỏ bé và đáng sợ, môi trần xếch lên thành nụ cười gớm ghiếc và răng ngả lam nhạt dưới ánh sao trời. Nó nghiêng tới gã. Nó rạch trên cổ gã hai vết hẹp và xếp cánh trên người gã và bắt đầu uống máu.
Làm nhẹ thôi. Gã tỉnh, đưa lên bàn tay. Gã thét và con dơi máu vung cánh và ngồi yên trên ngực gã và lấy lại thăng bằng và kêu rít rít và gõ tách tách hàm răng của nó.
Đứa trẻ đã dậy và đã chộp hòn đá nhưng con dơi vụt bay và mắt tăm trong bóng tối. Sprole quào lên cổ mình và gã lẩm bẩm cuồng loạn và khi gã thấy đứa trẻ đang đứng đó cúi nhìn mình gã chìa ra cho cậu bàn tay rướm máu như thể buộc tội và rồi áp chúng lên tai và thốt ra điều dường như chính gã cũng không nghe, tiếng thét đầy phẫn nộ như muốn thêm sự ngắt quãng vào nhịp đập của thế gian. Song đứa trẻ chỉ nhổ vào khoảng tối tăm nằm giữa họ. Đây biết bây thuộc dạng nào, cậu nói. Cái sai của bây là bây sai từ trong ra ngoài.
—
Vào buổi sáng họ tạt qua lòng suối cạn khô và đứa trẻ đi tới nhằm tìm cái ao hay cái lỗ nhưng không có gì cả. Cậu bới một nơi trong lòng suối và xắn tay đào bằng khúc xương và sau khi cậu đào được tầm hai phít xuyên lớp cát thì cát trở nên ẩm ướt và rồi thêm một ít và lượng nước thấm qua bắt đầu lấp đầy đường rãnh cậu bới bằng ngón tay. Cậu cởi ra chiếc áo và vùi nó vào trong cát và quan sát nó sẫm dần và cậu dõi nhìn nước dâng chầm chậm qua lớp vải nhăn đến khi đầy tầm một cốc và rồi cậu gục đầu vào cái hố và uống. Rồi cậu ngồi quan sát nó dâng đầy lần nữa. Cậu làm thế suốt một tiếng hơn. Rồi cậu vận áo và quay về xuôi lòng suối.
Sproule không muốn cởi ra chiếc áo. Gã thử hớp nước và gã ngậm đầy cát.
Sao bây không cho mượn áo, gã nói.
Đứa trẻ đang ngồi xổm trong bãi sỏi khô nơi lòng suối. Tự lấy áo mình mà làm, cậu nói.
Gã cởi ra chiếc áo. Nó dính vào lớp da và mủ vàng chảy khắp. Cánh tay gã sưng to thành cỡ bắp đùi gã và nó đổi màu gớm ghiếc và loài sâu nhỏ ngo ngoe trong vết thương hở. Gã nhét áo mình vào cái lỗ và ngả thân và uống nước.
Vào buổi chiều họ đến một giao lộ, còn tên gọi nào nữa. Vết xe ngựa phai mờ đến từ phía bắc và cắt qua đường họ đi và chạy dài tới phía nam. Họ đứng nhìn lướt qua cảnh vật nhằm tìm lối đi trong cõi hiu quạnh ấy. Sproule ngồi ở nơi vết hằn cắt ngang và nhìn từ cái hang lớn trong hộp sọ gã nơi mắt gã nằm. Gã nói gã sẽ không đứng dậy.
Đằng xa có hồ nước, là lời của đứa trẻ.
Gã không chịu nhìn.
Nó long lanh đằng xa. Bờ hồ được phủ sương muối. Đứa trẻ chú tâm nhìn nó và chú tâm nhìn con lộ. Một hồi sau cậu hất đầu về phía nam. Chắc chắn lối này có nhiều người qua lại.
Không sao đâu, là lời của Sproule. Bây cứ đi đi.
Tuỳ bây thôi.
Sproule quan sát cậu lên đường. Một hồi sau gã đứng lên và theo bước.
Họ đã đi được tầm hai dặm khi họ dừng lại nghỉ chân. Sproule ngồi duỗi cẳng và đặt tay lên đùi mình và đứa trẻ ngồi xổm cách xa gã một chút. Chơm chớp và xồm xoàm và dơ dáy trong quần áo tả tơi.
Bây thấy nó giống tiếng sấm không? là lời của Sproule.
Đứa trẻ ngẩng đầu mình.
Nghe kìa.
Đứa trẻ nhìn lên bầu trời, lam nhạt, quang đãng trừ nơi mặt trời sáng rực như lỗ tròn màu trắng.
Đây thấy nó len vào lòng đất nữa này, là lời của Sproule.
Này thì có là gì.
Nghe đi.
Đứa trẻ bật dậy và nhìn quanh. Ở phía bắc một di chuyển nhỏ của làn bụi. Cậu quan sát nó. Nó không dâng lên và cũng không bay mất.
Nó là chiếc xe thồ, lết tới loạng quạng trên đồng bằng, một con la nhỏ đang kéo. Tay đánh xe có khi đang ngủ. Khi nhìn thấy hai người lánh nạn đứng trên đường mòn phía trước hắn dừng con la và bắt đầu giật cương bắt nó quành lại và hắn đã làm nó quay thân nhưng rồi đứa trẻ đã níu lấy bộ dây đầu bằng da thô và ghì con thú đến khi nó đứng yên. Sproule lảo đảo lại gần. Từ phía sau xe thồ hai đứa bé ngó ra. Chúng tái nhợt vì lớp bụi, tóc trắng hếu và mặt gầy gò, chúng từa tựa thần lùn tí hon khom người ở đó. Vừa trông thấy đứa trẻ đằng trước mình tay đánh xe rụt thân và bên hắn một người phụ nữ luôn mồm đến chói tai và bắt đầu trỏ từ chân trời nọ sang chân trời kia nhưng cậu tự ý trèo lên sàn xe và Sproule lê bước theo sau và họ nằm trừng mắt nhìn lên tấm vải bạt nóng còn hai đứa lưu lạc nép mình vào một góc và nhìn bằng mắt tím thâm như chuột đồng và xe thồ lại quay về phía nam và lên đường với tiếng rầm và tiếng cạch vang lên.
Có một bình nước bằng đất sét treo bằng mảnh da vào khung mui và đứa trẻ đem nó xuống và uống nó và đưa nó cho Sproule. Rồi cậu đem nó về và nốc hết cả. Họ nằm ở sàn xe giữa đống da cũ và bãi muối và một hồi sau họ khép mắt thiu thiu.
Trời đã tối khi họ tiến vào thị trấn. Xe thồ đụng vào đâu đó khiến họ choàng tỉnh. Đứa trẻ ngẩng dậy và nhìn ra. Ánh sao trên con phố bùn. Xe ngựa trống trơn. Con la khịt khịt và giẫm giẫm mang đai kéo trên thân. Một hồi sau hắn đi ra từ bóng đen và dẫn họ men theo con ngõ vào một lô đất và hắn lùi con la đến khi xe thồ cặp song song bờ tường và rồi tháo đai khỏi con la và dắt nó rời đi.
Cậu lại nằm trong sàn xe lệch. Trời lạnh giá vào ban đêm và cậu nằm co gối dưới tấm da xộc mùi nấm mốc và nước tiểu và cậu thao thức cả đêm và cả đêm bầy chó sủa và lúc rạng đông gà trống gáy và cậu nghe thấy tiếng ngựa đi trên đường.
Dưới ánh sáng xám đầu tiên lũ ruồi bắt đầu lại gần người cậu. Chúng đậu lên gương mặt và đánh thức cậu và cậu phủi chúng bay đi. Một hồi sau cậu ngồi dậy.
Họ ở trong mảnh sân cằn cỗi có tường bùn bao quanh và có một ngôi nhà bằng phên và đất sét. Lũ gà đi loanh quanh và kêu cục cục và cào bới đất. Một thằng bé ra khỏi nhà và kéo quần xuống và rặn trong sân và bật người dậy và lại đi vào. Đứa trẻ nhìn Sproule. Gã đang nằm áp mặt lên ván gỗ xe thồ. Gã được tấm chăn phủ lên một phần và ruồi đang bò lại gần gã. Đứa trẻ vươn tới lay người gã. Gã lạnh toát và cứng đơ. Đàn ruồi bay đi, rồi chúng quay lại.
Đứa trẻ vừa đứng bên xe thồ vừa đái khi đoàn lính cưỡi ngựa tiến vào mảnh đất. Chúng bắt cậu và trói hai tay cậu ra sau và chúng nhìn xe thồ và bàn tán cùng nhau và rồi chúng dẫn cậu ra con phố.
Cậu bị dẫn tới toà nhà gạch bùn và bị ném vào căn buồng trống. Cậu ngồi bệt trên sàn trong khi thằng nhóc mắt dại với khẩu hoả mai cũ đang canh chừng cậu. Một hồi sau chúng đến và lại dẫn cậu ra.
Chúng dẫn cậu đi qua con phố bùn hẹp và cậu nghe được điệu nhạc như bản kèn lệnh ngày càng ngân vang. Đứa nhỏ đầu tiên sánh bước bên cậu và sau đó là một kẻ già và cuối cùng là đám dân da nâu trong làng thảy đều vận đồ vải bông trắng như người phục vụ cho một tổ chức, đàn bà khoác rê-bô-dô màu tối, vài mụ để bầu ngực mình lộ ra, mặt chúng bôi màu thổ chu, phì phèo xì-gà cỡ nhỏ. Lượng người tăng bội và lính canh vác súng kíp trên vai cau mặt và quát đám dân nhốn nháo và đi tiếp dọc theo tường cao gạch bùn của nhà thờ và tiến vào quảng trường.
Có phiên chợ đang diễn ra. Một gánh diễn thần dược, một gánh xiếc nguyên thuỷ. Chúng đi ngang những chiếc cũi bằng gỗ liễu bền nhốt đầy rắn độc, với loài rắn lục to kềnh đến từ vĩ độ gần phía nam hay thằn lằn da cườm với mõm đen ướt nọc độc. Một kẻ già hủi ốm nhom giơ lên bàn tay đầy sán dây từ một cái lọ cho mọi người thấy và phán rằng thần dược mình sẽ diệt hết và chúng bị ép tứ phương bởi bọn bào chế lỗ mãng và bởi bọn bán hàng và bọn ăn xin đến khi rốt cuộc thảy đều tới trước bệ gỗ nơi mà đặt trên đó là bình thuỷ tinh chứa mét-ca trong suốt. Trong cái bình này với lọn tóc lêu bêu và cặp mắt trợn ngược trong gương mặt nhợt nằm đó một cái đầu người.
Chúng lôi cậu tới trước kèm tiếng quát và chỉ trỏ. Nhìn, nhìn, chúng kêu. Cậu đứng nhìn cái hũ và chúng giục cậu nhìn kĩ nó và chúng lắc nó sao cho cái đầu sẽ đối mặt cậu. Đó là Đại uý White. Vừa mới gây chiến với quân nghịch đạo. Đứa trẻ nhìn đôi mắt chìm ngập mù loà của người cố chỉ huy. Cậu nhìn dân làng và đám lính, mắt chúng đổ dồn vào cậu, và cậu nhổ bọt và lau miệng. Đây chả dính gì với lão, cậu nói.
—
Chúng tống cậu vào một bãi quây cũ rào bằng đá cùng ba kẻ lánh nạn tơi tả từ cuộc viễn chinh. Họ ngồi ngẩn ngơ và chớp mắt trước bờ tường hay đi quanh cái khu ấy trên dấu chân đã khô của la và ngựa và nôn hay rặn còn lũ nhóc con la ó từ nơi rào đá.
Cậu làm quen với một thằng nhỏ gầy gò đến từ Georgia. Đây bệnh nặng như chó, thằng ấy nói. Đây đã sợ mình sẽ chết và rồi đây sợ mình không chết.
Đây đã thấy một tên cưỡi con ngựa của viên đại uý ở cái xứ này, đứa trẻ kể thằng nhỏ nghe.
Ờ, là lời của thằng nhỏ Georgia. Chúng giết ông ấy và Clark và một người nữa mà đây không còn dịp biết tên. Cả nhóm vào thị trấn và ngày tiếp theo chúng tống mọi người vào ngục tối và cũng chính thằng chó đằng kia cùng bọn lính gác cười giỡn và uống rượu và đánh bài, hắn và tên chỉ huy, để tính xem ai lấy được con ngựa của đại uý và ai lấy súng ngắn của ông. Chắc bây đã nhìn thấy cái đầu đại uý.
Đây thấy rồi.
Đúng là thứ kinh khủng nhất đây từng thấy.
Ai đó phải đem nó đi nhấn nước từ lâu rồi. Chúng nên chọn đây mới phải. Vì đã theo một tên đần như lão.
Khi buổi ngày dần trôi họ lượn qua tường nọ tường kia nhằm tránh xa cái nắng. Thằng nhỏ Georgia kể cậu nghe về chiến hữu bị đem bày trên miếng gỗ lạnh người và đã chết trong khu chợ. Viên đại uý mất đầu trong vũng lầy bị heo ăn phân nửa. Thằng nhỏ dùng gót chân kéo lê trên lớp bụi và vùi nó vào một nơi. Chúng định đưa ta tới Thành phố Chihuahua, thằng nhỏ nói.
Sao bây biết?
Thì chúng nói thế. Đây đâu biết.
Ai nói thế?
Tay lái tàu đằng kia. Gã biết vài thứ tiếng.
Đứa trẻ săm soi người vừa được nhắc tới. Cậu lắc đầu và khạc nhổ.
Cả ngày lũ nhóc con ngồi trên bờ tường và quan sát họ theo lượt và chỉ trỏ và um lên. Chúng đi quanh rào đá và muốn đái lên người đang ngủ trong bóng râm nhưng tù nhân vẫn đề phòng. Vài đứa ban đầu ném đá song đứa trẻ nhặt một hòn cỡ như quả trứng trên nền bụi và dùng nó ném gục đứa nhóc trên bờ tường mà không có âm thanh gì ngoài tiếng bộp trầm khi nó va trúng ở đằng xa.
Giờ mà bây lại làm trò đó, là lời của thằng nhỏ Georgia.
Đứa trẻ nhìn thằng nhỏ.
Chúng sẽ xách tới vài món và chẳng biết thế nào đâu nhé.
Đứa trẻ nhổ bọt. Chúng chẳng có bước vào và ăn uống gì đâu.
Họ cũng thế. Một người phụ nữ đưa họ những tô đậu và tô-ti-la sém trên đĩa gốm chưa nung. Bà ấy trông bối rối và mỉm cười với họ và lén mang cho họ đồ ngọt dưới chiếc khăn quàng và có thịt dưới đáy cái tô đến từ bàn ăn của chính bà ấy.
Ba ngày sau trên lưng những con la nhỏ bị chàm họ khởi hành tới thủ đô từng được nhắc đến.
—
Năm ngày họ đi qua hoang mạc và non núi và qua bản làng đầy bụi nơi cư dân ngó ra để trông thấy họ. Đoàn hộ tống vận nhiều loại áo quần sờn vải, nhóm tù nhân với áo quần tả tơi. Họ được cấp cho tấm chăn và ngồi xổm bên đám lửa hoang mạc ban đêm sạm đen và ốm yếu và khoác lên những dấu xước này họ trông như tôi mọi cùng khổ của Chúa Trời. Không tên lính nào nói tiếng Anh và chúng ra lệnh bằng cách gầm gừ và chỉ trỏ. Chúng mang vũ khí hạng xoàng và chúng cũng sợ bọn da đỏ. Chúng cuộn thuốc lá bằng vỏ ngô và chúng ngồi bên đám lửa trong thinh lặng và lắng nghe khung cảnh ban đêm. Lời chúng nói là của phù thuỷ hoặc tệ hơn và chúng luôn cố xác định từ trong bóng tối tiếng nói hay tiếng kêu giữa những tiếng kêu không phải của loài thú. Người ta hay bảo con lang cỏ là phù thuỷ. Lắm phen phù thuỷ là lang cỏ.
Rồi bọn da đỏ nữa. Lắm phen chúng là lang cỏ.
Rồi con kia là gì?
Chẳng gì cả.
Là con cú. Chỉ thế thôi.
Có thể lắm.
Khi họ đi qua khe hở trong lòng núi và trông xuống thành phố tên trung sĩ dẫn đầu chuyến đi ra lệnh dừng ngựa và nói với kẻ sau lưng mình và để đáp lại kẻ ấy rời ngựa và lấy nhiều sợi da sống từ cái túi yên và lại gần nhóm tù nhân và yêu cầu họ bắt tréo cổ tay và giữ như thế, chỉ cách làm bằng chính tay hắn. Hắn trói từng người một theo cách ấy và rồi họ đi tiếp.
Họ tiến vào thành phố trong cái cảnh hàng người hai bên ném quăng đồ lòng, bị dồn như gia súc qua con phố lát sỏi cùng tiếng hét bám theo sau gọi đám lính rồi chúng mỉm cười đáp lại và gật đầu giữa những đoá hoa và cốc dâng biếu, lùa những kẻ săn của tả tơi qua quảng trường nơi nước tung toé trong một đài phun và bọn nhàn rỗi ngả lưng vào băng ghế đẽo từ đá đốm trắng và qua dinh thống đốc và qua nhà thờ lớn nơi kền kền ngồi bệt dọc theo trụ ngạch đầy bụi và giữa những hốc mặt tiền chạm khắc sát bên Đức Chúa và các tông đồ, lũ chim phô ra bộ lễ phục đen đúa tỏ vẻ nhân từ đến quái lạ còn quanh chúng phất phơ theo gió là da đầu khô của bọn da đỏ bị tàn sát buộc vào dây, tóc dài xơ cứng đung đưa như sợi tơ của sinh vật biển nào đó và da người khô lộp bộp vào lớp đá.
Họ đi qua đám già xin bố thí bên cửa nhà thờ chìa ra bàn tay nhăn nhíu và đám ăn mày tàn tật vận áo rách trưng ra mắt buồn và trẻ con ngủ trong bóng tối với lũ ruồi bước trên gương mặt còn yên giấc. Xu xỉn màu trong đĩa gõ, mắt teo nhỏ của kẻ mù. Dân viết lách thu mình bên bậc thang cùng lông chim và lọ mực và tô cát và bọn người hủi rên rỉ xuyên con phố và chó trụi lông dường như còn rặt xương và đám bán ta-ma-lê dạo và những mụ già với bộ mặt đen đúa mòn mỏi y hệt đất đang ngồi bệt trong máng thoát nước ngó chừng lửa than nơi những miếng thịt không tên xì xèo và văng toé. Trẻ mồ côi tứ tán nổi giận như bọn lùn và bọn khờ và bợm rượu chảy dãi và vung người quanh các khu chợ nhỏ của thủ đô và nhóm tù nhân đi qua xác máu me trong quầy thịt và mùi sáp nơi giá treo ruột đen kịt do đàn ruồi và cảnh róc thịt thành nhiều tảng màu đỏ nay càng lúc càng ngả đen và hộp sọ sạch mỡ và trần trụi của bò và cừu với mắt lam mờ trừng trợn vẻ hoang dại và cơ thể cứng đơ của nai và lợn lòi và vịt và cút và chim vẹt, mọi loài hoang dã đến từ miền lân cận bị treo ngược đầu trên nhiều cái móc.
Họ bị ép xuống la và bị ép đi qua đám đông và xuống bậc thang cũ bằng đá và qua ngạch cửa mòn như xà bông và qua cửa phá vây bằng sắt vào căn hầm lạnh bằng đá từ lâu đã là ngục giam rồi chiếm chỗ mình giữa những bóng ma của lão tử đạo và lão ái quốc khi cánh cổng đóng rầm lại sau lưng.
Khi mắt họ đã thôi mù loà họ dần nhìn ra những bóng dáng cúi thân dọc theo bờ tường. Cựa mình trong giường rơm như chuột làm tổ bị quấy phá. Tiếng ngáy khẽ vang. Ở bên ngoài lạch cạch tiếng xe kéo và vọng lên lộp cộp tiếng vó ngựa trên đường phố và qua lớp đá vẳng lên loong coong tiếng búa gõ từ một hiệu rèn ở phần khác của hầm ngục tối. Đứa trẻ nhìn xung quanh. Đoạn cháy đen của bấc đèn sáp nằm đó nằm đây trong những vũng nhớt nhao trên sàn đá và những sợi dãi khô bám dính lên bờ tường. Vài cái tên được cào ở nơi ánh sáng tìm thấy chúng. Cậu ngồi bệt dụi mắt. Ai đó trong chiếc quần lót đi ngang cậu về phía cái xô và đứng đái. Rồi gã này xoay thân và lại gần cậu. Gã cao và xoã tóc mình xuống vai. Gã lê bước qua đống rơm và đứng cúi nhìn cậu. Mày không biết tao là ai nhỉ? gã nói.
Đứa trẻ nhổ bọt và nheo mắt nhìn gã. Tao biết chứ, cậu nói. Có là mảnh da trong xưởng thuộc tao vẫn biết.
(hết chương 5)

Sáng tác
/sang-tac
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này