[Dịch] Thiên Đỉnh Máu - Cormac McCarthy (Chương 3)
Tìm cách để tòng quân - Gặp gỡ Đại úy White - Quan niệm của ông - Doanh trại - Bán con la - Quán rượu ở Laredito - Tín đồ Menno - Bạn...

Nguồn: Wikipedia
III
Tìm cách để tòng quân - Gặp gỡ Đại úy White - Quan niệm của ông - Doanh trại - Bán con la - Quán rượu ở Laredito - Tín đồ Menno - Bạn đồng hành bị giết.
Cậu đang nằm lõa thân dưới tán cây với áo quần tơi tả phủ lấy tứ chi lúc tay cưỡi ngựa khác trên đường xuống sông gò cương và ngừng hẳn.
Cậu quay đầu mình. Xuyên qua lùm liễu cậu thấy được chân của con ngựa. Cậu lăn người nằm sấp.
Gã đàn ông bước xuống và đứng bên con ngựa mình.
Cậu với tay và nắm phần cán quấn dây của con dao.
Chào đằng ấy, là lời của tay cưỡi ngựa.
Cậu không trả lời. Cậu nhích sang bên để thấy rõ hơn qua, nhành cây.
Chào đằng ấy. Đằng ấy đâu rồi?
Bây muốn gì?
Muốn nói chuyện với cậu.
Về việc gì?
Chán quá, bước ra đi. Tôi da trắng và theo đạo Chúa.
Đứa trẻ rướn người qua lùm liễu cố lấy chiếc quần cộc. Thắt lưng đang thòng xuống và cậu giật mạnh nó song chiếc quần cộc vẫn mắc trên cành to.
Trời đất ơi, gã đàn ông nói. Cậu không trốn trên cây đó chứ?
Sao bây không xéo đi và để thằng này yên thân.
Chỉ muốn nói chuyện với cậu thôi. Chả có ý định quấy rầy gì cả.
Bây mới quấy rầy xong.
Có phải cậu là người phang vào đầu thằng Mễ tối qua? Đây không phải cảnh sát.
Ai muốn biết?
Đại úy White. Ngài ấy muốn gọi người đó vào quân đội.
Quân đội?
Đúng vậy.
Quân đội nào?
Đạo quân dưới quyền Đại úy White. Chúng tôi sắp đánh đuổi bọn Mễ.
Hết chiến tranh rồi.
Ngài ấy nói chưa hết. Cậu đang ở đâu?
Cậu bật dậy và lôi quần cộc xuống khỏi nơi cậu đã máng nó và vận nó vào. Cậu mang đôi ủng và nhét con dao vào ống ủng phải và rời khỏi lùm liễu khi đang vận áo.
Gã đàn ông đang ngồi trong đám cỏ với cặp chân bắt tréo. Gã mang y phục da hoẵng và gã đội mũ quả dưa bằng lụa đen mờ và gã hút điếu xì gà Mễ cỡ nhỏ nằm ở khóe răng. Khi gã thấy thứ bò ra khỏi lùm liễu gã lắc đầu ngao ngán.
Gặp chuyện tồi tệ hay sao thế con trai? gã nói.
Chẳng qua đây mắc phải vận xui.
Cậu sẵn sàng lên đường tới Mê-xi-cô?
Thì có mất mát gì đâu.
Cơ hội để cậu chứng tỏ bản thân trên đời đấy. Tốt nhất cậu nên hành động ngay kẻo người khác trước cả cậu làm hết ráo.
Bây được cấp cho cái gì?
Mọi người đều hưởng một con ngựa và đạn được. Còn cậu thì bọn tôi sẽ tìm giúp vài bộ quần áo.
Đây làm gì có súng trường.
Thì tìm cho cậu một khẩu.
Còn tiền bạc?
Khổ cậu quá, cậu cần gì tiền bạc. Cậu có quyền giữ mọi thứ mình chiếm được mà. Ta sắp lên đường tới đất Mễ. Chiến lợi phẩm. Chả phải người nhà binh sẽ thành địa chủ to hay sao. Nay cậu có nhiêu mẩu đất rồi?
Đây chả biết gì về chuyện lính lác.
Gã đưa mắt nhìn cậu. Gã lấy điếu xì-gà chưa cháy khỏi hàm răng mình và ngoái đầu và nhổ bọt và lại đưa nó về chỗ cũ. Cậu là dân ở đâu? gã nói.
Tennessee.
Tennessee. Vậy tôi dám khẳng định cậu biết bắn súng rồi.
Đứa trẻ ngồi xổm trong đám cỏ. Cậu nhìn con ngựa của gã đàn ông. Con ngựa được trang bị tấm da thuộc khắc chạm với hoa văn bạc gia công. Nó có vết lang trắng trên mặt và bốn vết lang ở chân và nó đang gặm đầy miệng cỏ tươi. Bây là dân ở đâu, là lời của đứa trẻ.
Tôi sống ở Texas từ năm ba mươi tám. Nếu không chạm mặt Đại úy White thì tôi chả biết đời mình sẽ thế nào. Hồi xưa tôi thảm hại hơn cậu nhiều và ngài ấy xuất hiện và đã hồi sinh tôi như Lazarus. Giúp tôi bước trên con đường chính trực. Tôi từng ham thích nốc rượu và chơi điếm tới khi địa ngục không chứa chấp nữa. Ngài ấy đã thấy gì đó trong tôi đáng cứu rỗi và tôi thấy nó trong cậu. Cậu nghĩ sao?
Đây không biết.
Cứ đi theo tôi và gặp đại úy nhé.
Cậu trai đưa tay giật lên bụi cỏ. Cậu nhìn con ngựa lần nữa. Chậc, cậu nói. Có lẽ cũng chẳng mất mát gì.
Họ tiến qua thị trấn với gã tuyển quân rạng ngời trên con ngựa chân lang và phía sau gã đứa trẻ trên con la như loài gì đó gã đã bắt được. Họ tiến qua các ngõ chật chội nơi những chòi bằng liếp bị hun trong hơi nóng. Cỏ và lê gai mọc trên phần mái và lũ dê lởn vởn trên chúng và đâu đó trong cõi bùn nhếch nhác ấy là tiếng chuông báo tử nhỏ khẽ ngân lên. Họ rẽ vào Phố Commerce qua Quảng trường Chính cùng vô số xe ngựa và họ băng qua một quảng trường nữa nơi nhiều chú bé đang bán nho và sung bên xe thồ kéo nhỏ.
Vài con chó trơ xương lỉnh đi trước mặt họ. Họ tiến qua Quảng trường Quân đội và họ băng qua con phố nhỏ nơi cậu trai và con la đã uống nước đêm qua và có đám đàn bà con gái bên miệng giếng và nhiều hình dạng bình đất bọc bằng mây đan đứng rải rác. Họ đi qua một căn nhà nhỏ nơi phụ nữ bên trong đang khóc thét và xe tang nhỏ đậu bên cửa vào với lũ ngựa ung dung và bất động giữa hơi nóng và bầy ruồi.
Viên đại úy đóng quân trong nhà khách tại quảng trường nơi có hàng cây gỗ và một vọng lâu lục nhỏ cùng băng ghế. Cổng sắt ngay mặt tiền nhà khách rộng mở thành lối đi với mảnh sân bên mặt hậu. Bức tường được quét vôi và phối cùng những ô gạch hoa lộng lẫy. Người của viên đại úy vận ủng khắc với gót cao gõ liên hồi trên ô gạch và trên cầu thang dẫn lên từ mảnh sân tới dãy phòng bên trên. Trong mảnh sân có cây cảnh tốt tươi vươn mình và chúng được tắm mát và đang thoát hơi. Người của viên đại úy sải bước dọc theo ban công dài và gõ mạnh cửa phòng phía cuối. Một giọng gọi họ vào trong.
Ngồi bên bàn giấy đan bằng sợi mây đang viết thư, là viên đại úy. Họ đứng sẵn sàng, người của viên đại úy với mũ đen trên tay. Viên đại úy viết tiếp mà không ngước nhìn. Bên ngoài đứa trẻ nghe được một người nữ nói tiếng Tây Ban Nha. Ngoài âm thanh ấy chỉ có tiếng sột soạt của cây bút trong tay viên đại úy.
Khi ông xong việc ông đặt xuống cây bút và ngước lên. Ông nhìn gã lính và rồi ông nhìn đứa trẻ và rồi ông cúi đầu để đọc những dòng mình đã viết. Ông gật với bản thân và phủ lên lá thư bằng cát từ chiếc hộp mã não nhỏ và gấp nó lại. Rút ra một que diêm từ chiếc hộp trên bàn giấy ông đốt nó và đưa nó lại gần thỏi sáp đến khi vết đỏ be bé loang trên mặt giấy. Ông vẫy que diêm, thổi phù vào mặt giấy và đóng dấu bằng chiếc nhẫn đang đeo. Rồi ông dựng lá thư giữa hai quyển sách và ngả lưng vào ghế và lại ngước nhìn đứa trẻ. Ông gật đầu. Ngồi đi, ông nói.
Họ yên vị trong một vật từa tựa băng ghế lưng cao làm từ loại gỗ sẫm màu. Người của viên đại úy mang một khẩu ổ quay lớn bên thắt lưng và đoạn gã ngồi gã chỉnh dây thắt lưng để cây súng nằm giữa hai bắp đùi. Gã đặt cái mũ lên nó và ngả lưng. Đứa trẻ xếp đôi ủng rách bươm chiếc này sau chiếc kia và ngồi thẳng.
Viên đại úy đẩy lui ghế mình và nhổm dậy và đi vòng sang phía trước bàn giấy. Ông ấy đứng đó săm soi một phút và rồi ông nhón thân lên bàn và ngồi với đôi ủng đung đưa. Ông đã bạc tóc và bạc râu mép dày rợp nhưng ông không lớn tuổi. Vậy con chính là người đó, ông nói.
Người nào? là lời của đứa trẻ.
Người nào ạ, người của viên đại úy nói.
Con nhiêu tuổi rồi?
Mười chín.
Viên đại úy gật đầu. Ông đang xem qua đứa trẻ. Con đụng phải chuyện gì?
Hả?
Nói dạ, là lời của gã tuyển quân.
Dạ?
Chú nói con đụng phải chuyện gì.
Đứa trẻ đưa mắt sang gã ngồi cạnh mình. Cậu nhìn xuống bản thân và cậu lại nhìn viên đại úy. Đây bị mắc bẫy của lũ cướp, cậu nói.
Lũ cướp ư, là lời của viên đại uý.
Chôm sạch mọi thứ đây có. Chôm cả đồng hồ và mọi thứ.
Con vẫn có súng không?
Giờ thì chẳng còn nữa.
Con ở đâu lúc bị cướp.
Đây không rõ. Nơi ấy chả có tên gọi. Chỉ là một vùng hẻo lánh.
Con khởi hành từ đâu?
Đây khởi hành từ Naca, Naca…
Nacogdoches?
Ừ.
Dạ.
Dạ.
Chúng có nhiêu người?
Đứa trẻ đăm đăm nhìn viên đại úy.
Băng cướp. Chúng có nhiêu người.
Độ bảy tám, đây đoán thế. Đây bị khúc gỗ phang vào đầu.
Viên đại úy nheo một mắt về phía cậu. Chúng là người Mễ?
Vài kẻ. Mễ và mọi đen. Có một hai thằng da trắng trong bọn. Chúng dắt theo bầy gia súc chúng cướp được. Thứ duy nhất chúng chừa lại là con dao cũ rích đây nhét trong ủng.
Viên đại úy gật đầu. Ông ấy đan tay mình giữa hai đầu gối. Con nghĩ sao về hiệp ước? ông nói.
Đứa trẻ nhìn cái gã trên băng ghế bên cạnh mình. Gã đã nhắm hai mắt. Cậu đưa mắt xuống ngón cái mình. Đây chả biết gì về nó, cậu nói.
Chú e rằng trường hợp này cũng đúng với nhiều người Mĩ, là lời của viên đại uý. Con là dân ở đâu?
Tennessee.
Con từng gia nhập Quân tình nguyện Monterrey?
Dạ không.
Lực lượng anh dũng nhất trước mưa đạn chú tin mình từng được chứng kiến. Chú cho rằng số người Tennessee đổ máu và hi sinh trên miền bắc nước Mễ còn nhiều hơn bất cứ tiểu bang khác. Con biết điều đó không?
Dạ không.
Họ bị bán đứng. Chiến đấu và bỏ mạng ở cái chốn sa mạc ấy và rồi họ bị chính đất nước mình bán đứng.
Đứa trẻ ngồi lặng im.
Viên đại úy ngả tới trước. Bọn chú đã chiến đấu vì nơi ấy. Mất bạn bè và đồng đội dưới đó. Và rồi có Chúa mới biết nếu bọn chú không trao trả nơi ấy. Trả cho một bọn man di mà thậm chí đám người bênh vực chúng cũng sẽ thừa nhận là chẳng biết gì trên đất Chúa về danh dự hay công lý hay ý nghĩa của chính thể cộng hòa. Đám người hèn nhát đến mức chúng quy phục hàng trăm năm trước bộ lạc của lũ hung hãn loã thân. Bỏ mặc hoa lợi và gia súc. Khu mỏ đóng cửa. Làng mạc hoang phế. Còn cái lũ nghịch đạo thì mặc sức tung hoành khắp nơi trên lưng ngựa cướp bóc và giết chóc. Không một ai dám chống lại chúng. Lũ người gì thế này? Lũ A-pát-chê còn chẳng bắn chúng. Con biết chứ? Lũ ấy dùng đá giết chúng. Viên đại uý lắc đầu. Ông dường như ảo não trước điều mình phải kể.
Con có biết rằng lúc Đại tá Doniphan chiếm Thành phố Chihuahua ông ấy đã gây cả ngàn thương vong lên kẻ thù và chỉ mất một người và đó chẳng qua là tự sát? Bằng đạo quân phi chính qui gọi ông ấy là Bill, bán lõa thân, và hành quân đến chiến trường từ bang Missouri?
Dạ không.
Viên đại uý ngả lưng và khoanh tay mình. Cái lũ chúng ta đang đối phó, ông nói, là một loài thoái hoá. Một loài lai tạp, hơn mọi đen được một chút. Và có khi chẳng hơn gì. Đất Mễ làm gì có chính phủ. Đất Mễ làm quái gì có Chúa Trời. Không bao giờ có. Chúng ta đang phải đối phó với cái lũ rõ ràng bất lực trong việc cầm quyền. Và con biết chuyện gì sẽ xảy ra với lũ không biết cầm quyền chứ? Đúng rồi đấy. Người khác sẽ vào cầm quyền giúp lũ ấy.
Hiện nay đã có chừng mười bốn ngàn dân Pháp khai hoang ở bang Sonora. Họ đang được cấp đất để định cư. Họ được cấp nông cụ và gia súc. Dân Mễ được khai sáng khuyến khích điều này. Paredes đã kêu gọi li khai khỏi chính quyền Mễ. Họ thà chịu ách cai trị của lũ ăn bám hơn lũ cướp hay lũ đần. Đại tá Carrasco đang cầu viện người Mĩ can thiệp. Và ông ấy sẽ được đáp ứng điều đó.
Ngay lúc này họ đang tập hợp ở Washington một hội đồng để đến đây và vẽ ranh giới giữa đất ta và đất Mễ. Chú không nghĩ là còn nghi vấn gì về chuyện Sonora sau rốt sẽ biến thành lãnh thổ Hợp Chúng quốc. Guaymas thành hải cảng Mĩ. Người Mĩ sẽ có đường tới California mà không cần băng qua xứ cộng hòa giáp ranh u muội và cuối cùng dân ta sẽ được bảo vệ khỏi bầy cắt cổ khét tiếng hiện rải trên mọi con lộ họ buộc phải đi qua.
Viên đại uý đang dõi nhìn đứa trẻ. Đứa trẻ trông bứt rứt. Này con, là lời của viên đại uý. Chúng ta sắp trở thành lực lượng giải phóng miền đất tăm tối và hỗn mang. Đúng thế. Chúng ta sẽ dẫn đầu cuộc tiến công. Chúng ta có sự hỗ trợ ngầm từ Thống đốc Burnett bang California.
Ông ngả tới trước và đặt đôi tay trên đầu gối mình. Và chúng ta sẽ là người chia phần chiến lợi. Sẽ có những mẩu đất cho mọi người thuộc đại đội của chú. Đồng cỏ xanh tươi. Những mẩu đẹp nhất trần đời. Một nơi giàu khoáng sản, giàu vàng bạc mà chú khẳng định là vượt xa trí tưởng điên rồ nhất. Con vẫn là trai trẻ mà.
Nhưng mà chú không hiểu sai con. Hoạ hoằn chú mới hiểu sai người khác. Chú nghĩ con muốn lưu dấu bản thân trên thế gian này. Chú có nhầm không?
Dạ không.
Không. Và chú chẳng nghĩ con thuộc dạng phó mặc vùng đất người Mĩ đã chiến đấu và hi sinh cho thế lực ngoại bang. Và hãy nhớ lời chú. Trừ khi người Mĩ hành động, người như con và chú mà hết lòng vì đất nước họ trong khi những lão ru rú ở Washington lại ngoảnh mặt làm ngơ, trừ khi ta hành động, đất Mễ – và ý chú là toàn bộ đất nước ấy – một mai sẽ giương cờ bọn Âu. Bất chấp Học thuyết Monroe.
Giọng viên đại uý đã trở nên dịu êm và căng thẳng. Ông ấy nghiêng đầu sang bên và săm soi đứa trẻ bằng vẻ hiền từ. Đứa trẻ chà tay lên đầu gối chiếc quần bò mình. Cậu liếc sang gã đàn ông cạnh mình song gã dường như đã say giấc.
Còn yên ngựa thì sao? cậu nói.
Yên ngựa?
Dạ.
Con không có yên ngựa?
Dạ không.
Chú tưởng con có ngựa chứ.
Con la.
Ra vậy.
Đây còn cái xác già của con la nhưng cũng chả còn bao nhiêu. Chả còn gì nhiều trong cái xác con la. Gã bảo đây sẽ được con ngựa và khẩu súng.
Trung sĩ Trammel nói thế?
Tôi chưa hứa gì về chuyện yên ngựa, là lời của trung sĩ.
Bọn chú sẽ tìm giúp con yên ngựa.
Tôi có bảo rằng ta sẽ tìm cho cậu ấy ít quần áo, thưa Đại uý.
Phải rồi. Ta có lẽ là quân phi chính qui nhưng sao mà để giống bọn rợ được, đúng không?
Dạ không.
Ta cũng không còn ngựa qua huấn luyện, là lời của trung sĩ.
Thì huấn luyện một con.
Thằng cha giỏi huấn luyện không còn trong biên chế nữa.
Tôi biết rồi. Vậy tìm người khác.
Dạ rõ. Biết đâu người này biết huấn luyện ngựa. Cậu có bao giờ huấn luyện ngựa chưa? Dạ chưa.
Tôi thì không cần dạ. Dạ rõ.
Trung sĩ, viên đại uý nói, lần lần rời khỏi bàn giấy. Dạ. Cho người này gia nhập.
—
Doanh trại nằm ở thượng lưu sông bên rìa thị trấn. Một túp lều được vá víu từ vải bạt xe ngựa cũ, vài căn chòi rơm rạ và cách xa chúng một ràn gia súc mang hình dạng tương tự con số tám cũng từ rơm rạ nơi vài con ngựa tơ loang lổ đứng khó chịu dưới ánh mặt trời.
Hạ sĩ, là lời gọi của trung sĩ.
Gã mất tăm rồi.
Gã xuống ngựa và sải bước về phía lều trại và vén cửa lều. Đứa trẻ ngồi trên con la. Ba người đang nằm dưới bóng cây và họ chú tâm nhìn cậu. Chào đằng ấy, một người lên tiếng.
Chào.
Cậu là lính mới?
Chắc vậy.
Đại uý dặn khi nào mới được rời khỏi xó này?
Ông ấy không dặn gì.
Gã trung sĩ bước ra khỏi lều. Gã đâu rồi? gã nói.
Tới thị trấn rồi.
Tới thị trấn à, là lời của trung sĩ. Lại đây.
Người nam bật dậy khỏi nền đất và thong dong lại gần lều trại và đứng với đôi tay để sau thắt lưng mình.
Người này không có quần áo, là lời của trung sĩ.
Người nam gật đầu.
Đại uý đưa cậu ấy chiếc áo và ít tiền để vá ủng. Ta cần tìm thú cưỡi cho cậu ấy và ta cần tìm yên ngựa nữa.
Yên ngựa.
Biết đâu tiền bán con la đó là đủ mua mấy thứ kia.
Người nam đưa mắt về phía con la và quay đi và nheo mắt nhìn trung sĩ. Gã nghiêng thân và nhổ bọt. Con la đó chẳng đáng mười đô-la.
Được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.
Đám kia lại giết thêm bò.
Thôi đừng nói tôi nghe.
Tôi chả làm gì được cả.
Tôi không báo đại úy đâu. Kẻo ngài ấy móc mắt đám đó tới khi chúng đứt ra và rơi xuống đất.
Người nam nhổ bọt lần nữa. Chậc, sự thật nghiệt ngã là vậy.
Cứ lo cho người này đã. Tôi phải đi.
Chậc.
Không ai bị bệnh tật đúng không?
Không.
Tạ ơn Chúa.
Gã trèo lên yên và khẽ chạm vào cổ con ngựa bằng sợi cương. Gã ngoái lại nhìn và lắc đầu ngao ngán.
Lúc xế chiều đứa trẻ và hai tân binh khác tiến vào thị trấn. Cậu tắm rửa và cạo râu và cậu vận quần dài nhung kẻ màu lam và áo vải bông mà viên đại uý đã đưa cho cậu và ngoại trừ đôi ủng cậu trông giống người mới tinh. Bằng hữu cậu cưỡi ngựa nhỏ lông màu mà bốn mươi ngày trước từng là thú hoang ở chốn bình nguyên và chúng quay phắt thân và phi nước kiệu và gõ hàm răng như rùa.
Đợi đến lúc được cưỡi mấy con này đi, là lời của gã binh nhất. Chẳng sung sướng gì đâu.
Bầy ngựa này hiền lắm, là lời của người khác.
Vẫn còn một hai con trong kia chắc sẽ thành ngựa cưỡi cho cậu.
Đứa trẻ cúi đầu nhìn họ từ trên con la. Họ cưỡi ngựa hai bên như đoàn hộ tống và con la đi nước kiệu với cái đầu ngẩng lên, đôi mắt láo liên đầy lo sợ. Chúng sẽ khiến bây ngã cắm đầu xuống đất đấy, là lời của gã binh nhất.
Họ đi qua một quảng trường đầy dẫy xe ngựa và kho chứa.
Cùng dân nhập cư và dân Texas và dân Mễ và cùng nô lệ và dân da đỏ Li-pan và phái đoàn Ca-ranh-ca-qua cao lớn và khắc khổ, mặt chúng nhuốm lam và tay chúng nắm chặt phần cán cây giáo sáu phuốt, gần thảy lũ man rợ loã thân với lớp da tô vẽ và nét cuồng máu thịt nhìn như bóng hình quái đản ngay cả trong đại quân tưởng tượng ấy. Nhóm tân binh cưỡi trên con thú được gò cương và họ đi ngang tòa án và dọc bờ tường cao của trại giam với kính vỡ găm trong lớp gạch trên cùng. Tại Quảng trường Chính một ban đã tụ hợp và đang chỉnh nhạc cụ mình. Toán cưỡi thú rẽ vào Phố Salinas qua nhà giải trí nhỏ và quán cà phê và tại con phố này có nhóm người Mễ gồm dân đóng yên cương và dân buôn bán và dân chăm gà chọi và dân chữa ủng và dân may ủng ở những chuồng hay tiệm nhỏ đắp bằng bùn. Gã binh nhất là người Texas và biết đôi chút tiếng Tây Ban Nha và gã định đem con la đi bán. Cậu trai khác là người Missouri. Họ mang sắc khí vui tươi, sạch sẽ và chải chuối, áo quần tinh tươm. Từng người thấy trước cái đêm đắm mình trong rượu, có thể trong tình. Biết bao chàng trai trở về lạnh đơ và lìa đời chỉ sau những đêm ấy và những mưu ấy.
Họ bán con la được trang bị đầy đủ vì yên ngựa kiểu Texas, khung gỗ cùng lớp bọc da sống, không mới tinh nhưng lành lặn. Vì bộ dây cương hàm ngựa mới tinh. Vì tấm chăn len dệt từ Saltillo còn bụi bám dù mới hay không. Và cuối cùng vì miếng vàng hai đô-la rưỡi. Gã Texas nhìn đồng xu be bé trong bàn tay đứa trẻ và đòi tăng thêm vậy mà thợ đóng yên cương lắc đầu và giơ lên đôi tay vẻ rất mực quả quyết.
Còn đôi ủng thì sao? là lời của đứa trẻ.
Còn đôi ủng nữa, là lời của gã Texas.
Đôi ủng?
Ừ. Gã làm hành động khâu vá.
Thợ đóng yên cương cúi nhìn đôi ủng. Hắn cụp các ngón tay thành điệu bộ nôn nóng và đứa trẻ cởi đôi ủng mình và đứng với chân trần trên nền bụi.
Khi mọi sự đã xong họ đứng giữa con phố và ghé mắt nhìn nhau. Đứa trẻ vác đồ cưỡi ngựa mới tinh trên vai mình.
Gã binh nhất nhìn cậu trai Missouri. Bây còn tiền không, Earl?
Chẳng còn xu teng nào.
Đây cũng thế nốt. Có khi ta nên nhấc mông quay về cái huyệt khổ đau kia.
Đứa trẻ xê dịch cái vật nặng ấy trên vai mình. Vậy ta lấy xu đại bàng này đi uống rượu, cậu nói.
—
Từ trước bóng hoàng hôn đã phủ khắp Laredito. Đàn dơi bay khỏi tổ của chúng trong tòa án và tháp canh và lượn lờ quanh phố. Bầu không ngập ngụa mùi than cháy. Trẻ con và bầy chó ngồi xổm bên vũng bùn và lũ gà chọi vỗ cánh và ở yên trong nhành cây quả. Họ nhàn tản, chiến hữu ấy, dọc theo bức tường gạch bùn trọi trơ. Khúc âm của ban nhạc vọng lên yếu ớt từ sân vuông. Họ băng qua xe chở nước trên con phố và họ băng qua khoảng hổng trên bức tường nơi gần ánh sáng của ngọn lửa rèn nho nhỏ một ông lão đang nện vào miếng kim loại. Họ đi tới khung cửa qua một thiếu nữ mang nét đẹp quyện cùng bụi hoa gần đó.
Cuối cùng họ cũng đi tới một cửa gỗ. Nó được gắn vào một vật lớn hơn là cửa hay cổng và thảy đều phải bước qua phần bậu gồ lên nơi cả ngàn đôi ủng đã bào mòn lớp gỗ, nơi kẻ ngốc trong cả trăm người đã vấp chân hay ngã nhào hay lảo đảo vẻ say khướt lại gần con phố. Họ băng qua một nhà lều trong mảnh sân bên giàn nho che nắng thuở xưa nơi bầy gà nhỏ gật gật dưới bóng chiều tà giữa đám dây leo xoắn vặn và cằn cỗi và họ bước vào quán rượu nơi đèn dầu được thắp sáng và họ khom lưng dưới thanh xà thấp nhằm tiếp cận quầy và đứng ngay đó một hai ba.
Có một lão tín đồ Menno bất ổn tại nơi ấy và lão quay sang để săm soi họ. Một lão ốm nhom vận gi-lê da thuộc, cái mũ vành thẳng màu đen nằm gọn trên đầu, vành râu mép mỏng. Nhóm tân binh gọi những cốc uýt-xki và uống cạn và gọi thêm. Có trò chơi đoán bài ba lá trên bàn kê sát tường và có đĩ điếm ở bàn khác đang liếc nhìn nhóm lính. Nhóm tân binh đứng vai kề vai dọc theo quầy rượu với ngón cái móc vào thắt lưng và quan sát căn phòng. Họ chuyện trò với nhau về cuộc viễn chinh bằng tông giọng lớn và lão tín đồ Menno lắc đầu buồn bã và nhấp rượu và lầm bầm.
Họ sẽ chặn bọn mi ở con sông, lão nói.
Gã binh nhất nhìn qua chiến hữu mình. Lão đang nói ta ư?
Ở con sông. Báo trước. Họ sẽ tống giam bọn mi.
Ai dám?
Quân đội Hợp chúng quốc. Đại tướng Worth.
Thách họ dám làm.
Mong họ làm đi.
Gã đưa mắt nhìn chiến hữu mình. Gã ngả người tới tín đồ Menno. Nói thế là có ý gì, lão già?
Bọn mi lấn qua con sông đó với bầy cướp viễn chinh thì đừng mong trở về.
Làm gì mà mong trở về. Bọn ta sắp lên đường tới Sonona.
Bị sao thế, lão già?
Tín đồ Menno dõi nhìn bóng tối bao phủ trước mặt họ đoạn nó phản xạ về phía lão trong tấm gương bên kia quầy rượu. Lão quay sang họ. Mắt lão ngấn lệ, lão nói rề rà. Thịnh nộ của Chúa còn đang say giấc. Nó được chôn giấu hàng triệu năm trước khi nhân loại xuất hiện và chỉ nhân loại mới có quyền năng khiến nó thức tỉnh. Cõi chết vẫn quạnh hiu. Nghe đây. Bọn mi đem chiến tranh do kẻ điên tạo nên tới xứ người. Bọn mi sẽ đánh thức nhiều thứ hơn bầy chó dữ.
Song họ quát mắng lão và chửi rủa lão đến khi lão vừa rời khỏi quầy rượu vừa lẩm bẩm, và làm thế nào khác được?
Mọi sự kết thúc. Trong hỗn loạn và chửi rủa và đổ máu. Họ uống tiếp và ngọn gió bay qua phố xá và những vì sao đã từng vời vợi lẩn khuất ở đằng tây và nhóm nam này ngã lên kẻ khác và lời nói được thốt ra mà không cách nào chữa lại được và lúc rạng đông đứa trẻ và gã binh nhất khuỵu gối bên cậu trai Missouri có tên Earl và họ gọi tên cậu ấy nhưng cậu không trả lời. Cậu ấy nằm nghiêng trên nền bụi của sân vuông. Đám nam đã rời, đám đĩ đã rời. Một lão quét sàn đất sét bên trong quầy rượu. Cậu trai nằm với hộp sọ vỡ trong vũng máu loang, không ai biết kẻ nào làm. Người thứ ba ở bên họ trong sân vuông.
Đó là tín đồ Menno. Một làn gió ấm thổi ngang qua và phía đông sáng lên mờ mờ. Lũ gà trong tổ giữa đám dây leo đã bắt đầu lay động và gáy vang.
Trong quán rượu thì chẳng sướng vui như trên nẻo đường tới nó, là lời của tín đồ Menno. Lão vẫn đang cầm chiếc mũ trên tay và nay lão lại đội nó lên mái đầu và xoay thân và bước ra cổng.
(Hết chương 3)

Sáng tác
/sang-tac
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất