Nguồn: Wikipedia
Nguồn: Wikipedia

II

Băng qua thảo nguyên - Lão ẩn sĩ - Quả tim tên mọi - Đêm bão tố - Tây tiến lần nữa - Toán lùa gia súc - Lòng tốt của họ - Lại men theo đường mòn - Cỗ xe đầy xác - San Antonio thuộc Bexar - Quán rượu Mê-xi-cô - Cuộc đánh nhau khác - Nhà thờ bỏ hoang - Xác người trong buồng lễ phục - Tại sông cạn - Tắm mát ở dòng sông.
Nay đến những ngày ăn xin, những ngày trộm cướp. Những ngày rong ruổi ở chốn không người trừ cậu. Cậu bỏ lại đằng sau xứ sở rừng thông và mặt trời ban tối khuất dần trước cậu bên kia vùng trũng bất tận và đêm phủ xuống nơi đây thình lình như sấm nổ và cơn gió lạnh buộc cỏ cây gồng mình chịu rét. Nền trời đêm rợp sao lấp lánh nên chỉ còn lác đác khoảng đen và chúng rơi cả đêm theo các đường cong gắt và liền có như vậy nên chúng mãi không vơi.
Cậu tránh xa đường cái vì sợ gặp chúng dân. Sói nhỏ nơi thảo nguyên tru cả đêm và rạng đông thấy cậu trong một rãnh nông rậm cỏ nơi cậu đã vào để trốn gió. Con la bị ràng đứng bên cậu và ngắm nhìn phía đông nhằm tìm kiếm ánh sáng.
Vầng dương ló rạng là màu của thép. Cái bóng cưỡi la của cậu đổ xuống hàng dặm phía trước mình. Cậu đội trên đầu chiếc mũ cậu kết từ lá cây và chúng đã khô nứt dưới ánh mặt trời và cậu trông như kẻ tả tơi lang bạt từ khu vườn nào đấy nơi hắn từng hù dọa lũ chim.
Đến chiều tà cậu lần theo luồng khói xoắn xiên lên từ giữa rặng đồi thấp và trước đêm buông cậu gọi to bên lối vào nhà của một lão ẩn sĩ náu trong lùm cỏ giống con lười đất. Sống biệt lập, hơi điên, mắt có quầng đỏ như bị nhốt trong hốc giam cùng dây nóng. Nhưng sở hữu vóc người đáng nể. Lão im lặng quan sát còn đứa trẻ khó nhọc xuống khỏi con la. Cơn gió mạnh đang thổi và quần áo rách trên người cậu phần phật bay.
Thấy khói của lão, là lời của đứa trẻ. Đây tin lão sẽ chia một ngụm nước.
Lão ẩn sĩ gãi mái tóc bẩn thỉu và cúi nhìn mặt đất. Lão xoay người và tiến vào căn chòi và đứa trẻ theo sau.
Bên trong tối om và sực mùi đất. Ngọn lửa nhỏ cháy trên sàn bẩn và đồ đạc duy nhất là đống da sống trong một góc chòi. Lão lê bước qua cảnh mờ, đầu lão cúi nhằm tránh trần thấp kết bằng cành cây và bùn dính. Lão trỏ tay xuống một cái xô đứng trên nền đất. Đứa trẻ cúi người và nhặt lên bình bầu đang nổi bên trên và dìm và uống. Nước mằn mặn, nồng nặc lưu huỳnh. Cậu vẫn uống.
Đây được mang nước cho con la già ngoài kia chứ?
Lão già bắt đầu nện lòng bàn tay bằng nắm đấm và đảo mắt nhìn quanh.
Lên mặt vì đem về nước sạch hử. Cứ chỉ nơi lấy được nó.
Mi định cho nó uống bằng gì?
Đứa trẻ nhìn cái xô và cậu nhìn quanh căn chòi mờ tối.
Ta chả muốn uống sau con la, là lời của ẩn sĩ.
Lão không còn xô cũ hay sao?
Không, ẩn sĩ gào lên. Không có. Lão đang lấy gót bàn tay của hai nắm đấm siết chặt nện thùm thụp vào ngực mình.
Đứa trẻ đứng lên và nhìn về phía cửa. Đây sẽ tìm thử, cậu nói. Miệng giếng ở đâu?
Trên đồi, men theo đường mòn.
Tối mù thế này thì thấy được gì.
Đường mòn sâu đấy. Lần theo chân mi. Lần theo con la. Ta không đi được.
Cậu bước ra cơn gió và đưa mắt xung quanh để tìm con la song con la đã biến mất. Xa xa phía bắc sấm chớp lóe lên trong thinh lặng. Cậu men theo lối mòn giữa cỏ cây xào xạc và thấy con la đang đứng bên miệng giếng.
Một cái hố nằm trong cát với nhiều đá đắp quanh. Một tấm da khô dùng làm nắp che và một tảng đá để dằn nó lại. Có một cái xô bằng da sống với cái quai bằng da sống và sợi dây bằng da trơn. Cái xô mang một hòn đá được cột vào cái quai để giúp nó chao nghiêng và chứa nước và cậu hạ nó đến khi sợi dây trên tay bị chùng trong lúc con la dõi nhìn qua vai cậu.
Cậu kéo lên ba xô đầy và giữ nó để con la không đánh đổ chúng và rồi cậu lại phủ nắp che lên miệng giếng và dắt con la trở về đường mòn dẫn tới căn chòi.
Cảm ơn lão vì nước uống, cậu kêu lên.
Lão ẩn sĩ trông u ám bên cánh cửa. Cứ ở lại với ta, lão nói.
Không cần đâu.
Nên ở. Bão sắp đến rồi.
Lão đoán thế?
Ta đoán thế và ta đoán đúng.
Chà.
Có đệm thì mang vào. Có gì thì mang vào.
Cậu tháo đai và quăng xuống yên ngựa và ràng con la cẳng trước cẳng sau và đem túi ngủ vào. Không có ánh sáng trừ ngọn lửa và lão đang ngồi xếp chân bên nó như thợ may.
Đâu cũng được, đâu cũng được, lão nói. Yên ngựa mi đâu?
Đứa trẻ hất cằm để chỉ hướng.
Đừng để nó ngoài kia kẻo bị thó mất. Đất nước này toàn lũ chết đói.
Cậu bước ra và chạy tới con la trong bóng tối. Nó vẫn đang đứng ghé mắt vào ngọn lửa.
Tránh ra, đồ đần, cậu nói. Cậu mang theo yên ngựa và trở vào trong.
Đóng cửa lại ngay kẻo gió cuốn bay mất, là lời của lão.
Cánh cửa là một tảng ghép bằng ván gỗ với bản lề da thuộc. Cậu kéo lê nó trên mặt đất và đóng chặt nó bằng then cài da thuộc.
Ta nghĩ mi lạc đường, lão ẩn sĩ nói.
Đâu phải, đây lại thẳng chỗ nó mà.
Người mau chóng xua tay, là lão già. Không, không, lão nói. Ý ta là mi lạc đường nên mới đến đây. Trước đó bão cát nổi lên sao? Mi đi chệch hướng vào ban đêm ư? Trộm có ngáng đường không?
Đứa trẻ nghiền ngẫm. Có, cậu nói. Bằng cách nào mà đây chệch khỏi đường cái.
Ta biết ngay.
Lão ở ngoài đây bao lâu rồi?
Ở đâu?
Đứa trẻ đang ngồi lên túi ngủ bên kia ngọn lửa đối diện lão già. Nơi này, cậu nói. Trong chỗ này.
Lão già không đáp lại. Lão bất chợt quay ngang đầu và kẹp chiếc mũi bằng ngón cái và ngón trỏ và hỉ ra hai sợi nước mũi lên sàn và chùi ngón tay lên đường chỉ của quần bò mình. Ta đến từ Mississippi. Ta từng buôn nô lệ, không muốn kể ngọn ngành. Kiếm được nhiều tiền. Ta chưa từng để bị bắt. Chỉ là ta phát ngán. Phát ngán lũ mọi. Đợi ta cho mi xem cái này.
Lão xoay thân và lùng sục trong đống da và chìa qua ngọn lửa một thứ nho nhỏ. Đứa trẻ nhận nó từ tay lão. Quả tim của ai đấy, khô róc và thâm đen. Cậu trả nó lại và lão nâng niu nó trong lòng bàn tay như đang cân đo nó.
Có bốn thứ đủ sức hủy diệt trái đất, lão nói. Rừng nữ, rượu nồng, tiền đống, và đàn mọi.
Họ ngồi lặng im. Cơn gió rền rĩ trong đoạn ống bếp lò xuyên qua phần mái bên trên họ nhằm hút khói ra khỏi căn chòi. Sau một lúc lão cất quả tim đi.
Thứ đó khiến ta tốn hai trăm đô-la, lão nói.
Lão trả hai trăm đô-la cho nó?
Đúng rồi, vì họ ra giá như thế cho cái thằng đen chó chết mang thứ ấy trong người.
Lão cựa thân ở góc chòi và đem ra cái ấm đun đồng xỉn cũ, giở nắp lên và nhúng một ngón tay vào trong. Hài cốt của một trong những con thỏ đồng cao ốm vùi trong mỡ lạnh và dày mốc lam nhạt. Lão đậy nắp ấm đun và đặt nó vào ngọn lửa. Chả có gì nhiều nhưng mà ta chia cho, lão nói.
Đây cảm ơn.
Lạc đường trong đêm ư, lão nói. Lão cời lửa, những chiếc ngà mảnh bằng xương ló ra khỏi tro tàn.
Đứa trẻ không trả lời.
Lão già đung đưa mái đầu qua lại. Con đường tội phạm lắm gian nan. Chúa sáng tạo thế gian này, song ngài không làm nó phù hợp cho mọi người, đúng không?
Đây không tin ông ta màng tới cả đây.
Ờ, lão già đáp. Nhưng dựa vào đâu con người nảy ra ý nghĩ ấy. Y đã thấy thế gian nào khiến y thích hơn?
Đây đủ sức nghĩ ra nơi tốt hơn và cách tốt hơn.
Mi có làm được không?
Không.
Không. Thế mới huyền bí. Một kẻ khó lòng hiểu rõ đầu óc bản thân do đầu óc y là bất cứ gì mà y phải dùng để hiểu nó. Y hiểu được dạ mình, nhưng y không muốn làm. Đúng vậy. Tốt hơn là đừng ngó vào đó. Chả phải lòng dạ sinh vật bị trói buộc vào đường lối mà Chúa đã sắp đặt cho nó. Mi có thể tìm thấy tính xấu trong sinh vật nhỏ nhất, nhưng khi Chúa dựng nên con người thì ác quỷ nằm ở khuỷu tay y. Một sinh vật biết làm mọi việc. Sáng tạo một cỗ máy. Và một cỗ máy dùng để sáng tạo cỗ máy. Và cái ác biết tự vận hành cả ngàn năm, không cần ai gìn giữ. Mi tin không?
Đây không biết.
Cứ tin đi.
Khi nồi hổ lốn của lão được hâm ấm lão múc nó ra và họ ăn trong lặng lẽ. Cơn sấm đang hướng về phía nam và không lâu sau tiếng nổ ran khắp trời và bắt đầu khiến các mẩu gỉ rơi theo giọt nước xuống ống bếp lò. Họ cúi rạp người lên đĩa ăn và quẹt lớp mỡ bằng các ngón tay và uống nước từ bình bầu.
Đứa trẻ bước ra và cọ chùi cốc đĩa trong lớp cát và quay lại vỗ những món sắt tây vào nhau như thể xua đuổi bóng ma phục kích bên ngoài trong đêm tối. Mây vũ tích phương xa run rẩy dâng lên trước nền trời toả điện và bị hút đi trong sắc đen lần nữa. Lão ngồi với một tai nghểnh về phía chốn hoang gào rít bên ngoài. Đứa trẻ đóng cửa lại.
Mi không có thuốc lá hử?
Chả có, đứa trẻ nói.
Không được phép hút ư.
Lão có nghĩ trời sẽ mưa?
Có mọi cơ hội. Khả năng cao là sẽ không.
Đứa trẻ ngắm nhìn ngọn lửa. Từ trước đứa trẻ đã gật. Rốt cuộc cậu đứng lên và lắc đầu. Lão ẩn sĩ ngắm nhìn cậu qua ngọn lửa dần tắt. Cứ tiếp tục dọn chỗ ngủ đi, lão nói.
Cậu làm theo. Trải túi ngủ trên lớp bùn nén và cởi ra đôi ủng bốc mùi hôi. Ống dẫn khói rền rĩ và cậu nghe con la giậm guốc và khụt khịt như con chó mộng mơ.
Cậu thức dậy lúc đêm khuya với căn chòi gần như chìm trong bóng tối và lão ẩn sĩ cúi xuống cậu và vẫn ở trong chỗ ngủ.
Lão muốn gì? cậu nói. Tuy nhiên lão ẩn sĩ bò ra đâu đó và ban sáng khi cậu tỉnh giấc căn chòi vắng hoe và cậu lấy đồ của mình và rời đi.
Suốt hôm ấy cậu dõi nhìn về phía nam một làn bụi mỏng. Nó chừng như không hề chuyển động và đã đến tối muộn trước khi cậu có thể thấy nó bay đến chỗ mình. Cậu băng qua một rừng sồi thường xanh và cậu lấy nước bên con rạch và tiếp bước trong hoàng hôn và dựng trại không lửa. Đàn chim đánh thức cậu ở nơi cậu nằm dưới lùm cây ráo khô và bụi bặm.
Đến giữa trưa cậu đang trên thảo nguyên lần nữa và làn bụi phương bắc dãn ra theo viền trái đất. Đến xế chiều người đầu tiên trong toán lùa gia súc hiện ra trong tầm mắt. Đàn thú vạm vỡ hung bạo với cặp sừng to lớn. Đêm đó cậu ngồi trong túp lều của dân chăn thú và ăn đậu và lương khô và nghe về cuộc sống trên đường mòn.
Họ khởi hành từ Abilene, mất bốn mươi ngày, để đi tới khu chợ tại Louisiana. Bị đuổi theo bởi đàn sói, linh cẩu, dân da đỏ. Gia súc rên rỉ quanh họ cả dặm trong màn đêm.
Họ không hỏi cậu điều gì, lũ người với quần áo tả tơi. Vài kẻ con lai, mọi đen tự do, một hai dân da đỏ.
Đây bị trộm quần áo, cậu nói.
Họ gật đầu trước ánh lửa.
Chúng lấy sạch mọi thứ đây có. Đến con dao mà đây chả có nổi.
Có lẽ bây nên gia nhập bọn ta. Bọn ta mất hai người. Trên đường quay về để đi Californy.
Đây đang trên đường tới đằng kia.
Vậy ta đoán bây sẽ phải tự đến Californy rồi.
Chắc vậy. Đây chưa tính tới.
Mấy gã theo bọn ta vướng phải rắc rối với một bầy ở Arkansas. Họ đang trên đường tới Bexar. Định hỗ trợ nhóm người ở Mexico và phía tây.
Dám cá mấy gã ở Bexar uống đến mụ óc rồi.
Dám cá gã Lonnie vơ mọi con đĩ trong thị trấn đấy chứ.
Đường tới Bexar thì bao xa?
Tầm hai ngày.
Xa hơn thế chứ. Nhiều khi là bốn.
Nếu quyết chí thì sẽ tiến xa thế nào?
Cứ thẳng đường tới phía nam bây sẽ gặp con lộ tầm nửa ngày.
Bây định đi Bexar?
Chắc thế.
Gặp Lonnie già dưới đó thì bảo gã tìm giúp ta một đứa. Bảo gã về thằng Oren. Gã sẽ mời bây một cốc nếu gã chưa dốc sạch tiền.
Lúc trời sáng họ ăn bánh ngũ cốc kèm mật rỉ và dân chăn gia súc thắng yên ngựa và lên đường. Khi cậu tìm thấy con la có một túi vải nhỏ cột vào sợi thừng của con thú và bên trong chiếc túi có đầy một tách đậu khô và ít hạt tiêu và con dao Green River với phần cán quấn bằng dây bện. Cậu thắng yên cho con la, tấm lưng con la xây xát và trơ trụi, guốc chân bị nứt. Xương sườn như xương cá. Họ khập khiễng băng qua cánh đồng vô tận.
Cậu đến Bexar vào ban tối của ngày thứ tư và cậu cưỡi con la phờ phạc trên đường dốc thấp và cúi nhìn thị trấn, những ngôi nhà gạch bùn lặng lẽ, hàng cây sồi lá xanh và hàng cây dương bông trắng đánh dấu ven bờ của dòng sông, quảng trường đầy dẫy xe ngựa với tấm phủ vải đay và tòa nhà công cộng trắng xóa và mái vòm nhà thờ kiểu Moor dâng lên khỏi hàng cây và pháo đài và kho thuốc nổ cao bằng đá ở phương xa. Làn gió thoảng lay động tán lá trên mũ cậu, mái tóc rối nhờn của cậu. Mắt cậu đen đúa và mù mờ trên gương mặt uể oải và u ám và mùi thối xộc lên từ bên trong phần cổ ủng. Mặt trời vừa lặn xuống và sang phía tây rợp áng mây đỏ máu mà từ đó bay lên là ưng đen nhỏ vùng sa mạc như lũ trốn chạy khỏi vầng lửa vĩ đại ngay tận cùng trái đất. Cậu nhổ ra nước dãi khô màu trắng và nhấn bàn đạp gỗ bị nứt vào cặp sườn con la và họ tiến bước lảo đảo lần nữa.
Cậu men theo con đường cát chật hẹp và đoạn cậu đi cậu gặp cỗ xe chất đầy xác chết, cái chuông nhỏ văng vẳng nhằm dẫn lối và chiếc đèn lồng lủng lẳng trên cổng vào. Ba kẻ ngồi trên chiếc hộp không khác gì xác chết hay hồn ma trắng bệch tựa vôi và gần giống lân quang trong cảnh xế chiều. Một cặp ngựa kéo xe và chúng vẫn bước trên con đường thoang thoảng khí độc phê-non và ra khỏi tầm mắt. Cậu quay đầu và xem chúng đi. Bàn chân trần của xác chết xô đẩy cứng nhắc bên kia bên nọ.
Đêm đã buông khi cậu tiến vào thị trấn, được bầy chó sủa đón chào, các gương mặt rẽ tấm rèm cửa sổ bên ánh đèn dầu. Tiếng lóc cóc nhè nhẹ của móng guốc con la vọng lại trong con phố nhỏ vắng hoe. Con la ngửi khí trời và phóng xuống ngõ vào sân vuông nơi mà nằm đó dưới ánh sao một miệng giếng, một máng ăn, một giá ràng ngựa. Đứa trẻ chầm chậm bước xuống và lấy cái xô từ mái tường đá và hạ nó vào trong giếng. Tiếng nước tóe vọng lên. Cậu kéo lên cái xô, nước nhỏ giọt trong bóng tối. Cậu nhúng bình bầu và uống và con la rúc mũi vào khuỷu tay. Khi đã xong cậu đặt cái xô trên con phố và ngồi lên mái tường và quan sát con la uống nước từ cái xô.
Cậu vẫn đi qua thị trấn vừa dắt theo con thú. Xung quanh vắng bóng người. Một chốc sau cậu tiến vào quảng trường và cậu nghe được tiếng ghi-ta và một tù và. Ở góc xa của sân vuông có ánh sáng từ một quán rượu và tiếng cười rộn rã và tiếng réo chói tai. Cậu dắt con la vào sân vuông và tới góc xa ngang qua mái cổng dài về phía ánh sáng.
Có một nhóm khiêu vũ trên đường phố và họ vận trang phục sặc sỡ và gọi nhau bằng tiếng Tây Ban Nha. Cậu và con la đứng bên rìa ánh sáng và xem. Người già ngồi dọc theo bức tường quán trọ và trẻ con nô đùa trong bụi đất. Họ đều vận trang phục kì quái, toán nam với mũ chóp phẳng màu sẫm, áo ngủ màu trắng, chiếc quần với dãy nút bên sườn ống chân và toán nữ với gương mặt sơn lòe loẹt và lược đồi mồi cài trên tóc lam đen. Đứa trẻ băng qua đường phố cùng con la và ràng nó và đến gần quán rượu. Một số kẻ đang đứng bên quầy rượu và chúng ngừng nói khi cậu tiến vào. Cậu bước trên sàn nhà đất sét nhẵn bóng qua con chó nằm ngủ liền mở một mắt và nhìn cậu và cậu đứng bên quầy rượu và đặt hai tay lên phiến đá. Chủ quầy gật đầu với cậu. Bây muốn gì, gã nói.
Đây không có tiền nhưng đây cần uống. Đây sẵn lòng dọn xô phóng uế hoặc lau sàn hoặc gì cũng được.
Chủ quầy đưa mắt qua căn phòng về phía nhóm hai người nam đang chơi đô-mi-nô bên chiếc bàn. Ông già, gã nói.
Người già hơn trong nhóm ngẩng đầu lên.
Thằng này nói gì thế.
Lão già nhìn đứa trẻ và quay lại với trò đô-mi-nô.
Chủ quầy rượu nhún vai.
Đứa trẻ quay sang lão già. Lão biết tiếng Mỹ chứ? cậu hỏi.
Lão già ngước đầu khỏi ván chơi của mình. Lão ngắm nghía đứa trẻ kèm vẻ mặt vô cảm.
Bảo hắn rằng đây sẽ làm việc vì cốc rượu. Đây không có tiền.
Lão đẩy cằm mình và phát ra tiếng cục cục bằng lưỡi.
Đứa trẻ đưa mắt sang chủ quầy rượu.
Lão già cuộn bàn tay với ngón cái chĩa lên và ngón út chĩa xuống và ngả đầu ra sau và rót ngụm nước tưởng tượng xuống cổ họng mình. Thằng nhóc này muốn uống, lão nói. Nhưng nó không có tiền trả.
Nhóm người bên quầy rượu liền quan sát.
Chủ quầy nhìn đứa trẻ.
Nó muốn làm việc, là lời của lão già. Chả biết nữa. Lão quay lại với những mẩu gỗ và chơi tiếp mà không nói năng gì nữa.
Thằng nhóc muốn làm việc, là lời của một kẻ trong nhóm người bên quầy rượu.
Chúng bắt đầu cười phá lên.
Chúng bây cười cái gì? là lời của đứa trẻ.
Chúng ngừng. Vài kẻ nhìn cậu, vài kẻ bĩu môi hoặc nhún vai. Cậu trai quay sang chủ quầy rượu. Bây có việc gì để đây làm lụng vì dăm cốc rượu mà đây biết làm không.
Một kẻ trong nhóm người bên quầy rượu cất lời bằng tiếng Tây Ban Nha. Cậu trai trừng mắt về phía chúng. Chúng nháy mắt với nhau, chúng nâng cốc mình lên.
Cậu quay sang chủ quầy lần nữa. Đôi mắt cậu đen và hẹp. Quét sàn, cậu nói.
Chủ quầy chớp mắt.
Đứa trẻ lùi bước và làm hành động quét dọn, một vở kịch câm khiến lũ bợm lặng thầm cười ngặt nghẽo. Quét, cậu nói, trỏ tay về phía sàn nhà.
Không bẩn, là lời của chủ quầy.
Cậu quét lần nữa. Quét dọn, tổ cha mày, cậu nói.
Chủ quầy nhún vai. Gã lại gần phía cuối quầy rượu và xách cây chổi và mang nó trở lại. Cậu trai nhận nó và đi về phía sau căn phòng.
Nơi ấy là đại sảnh thênh thang. Cậu quét ở những góc mà cây trong chậu đứng lặng im giữa bóng tối. Cậu quét quanh những ống nhổ và cậu quét quanh nhóm đang chơi bên chiếc bàn và cậu quét quanh con chó. Cậu quét dọc theo phía trước quầy và khi đến vị trí lũ bợm đứng cậu vươn thẳng và tựa người lên chổi và đưa mắt nhìn chúng. Chúng âm thầm hội ý với nhau và sau rốt một kẻ cầm cốc mình trên quầy rượu và bỏ đi. Những kẻ khác bám theo. Đứa trẻ quét qua chúng về phía cánh cửa.
Nhóm khiêu vũ đã rời, cùng điệu nhạc. Bên kia đường phố ngồi đó người đàn ông trên băng ghế sáng lờ mờ dưới ánh đèn từ cửa quán. Con la đứng ngay nơi cậu ràng nó. Cậu vỗ cây chổi lên bậc thang và trở vào trong và xách cây chổi tới góc phòng mà chủ quầy rượu đã lấy nó. Rồi cậu lại gần quầy rượu và đứng.
Chủ quầy làm lơ cậu.
Đứa trẻ gõ bằng các khớp ngón.
Chủ quầy xoay thân và dùng một tay chống nạnh và bĩu môi.
Giờ thì cho một cốc chứ, là lời của đứa trẻ.
Chủ quầy đứng lên.
Đứa trẻ làm hành động uống mà lão già đã thực hiện và chủ quầy phe phẩy vu vơ cái khăn về phía cậu.
Biến đi, gã nói. Gã làm hành động xua đuổi bằng mu bàn tay.
Gương mặt đứa trẻ tối sầm. Thằng chó này, cậu nói. Cậu chợt lao tới quầy rượu. Sắc mặt của chủ quầy vẫn không đổi. Gã lôi ra từ bên dưới quầy khẩu súng ngắn quân đội kiểu cũ với đá lửa và đẩy ngược búa mổ bằng gót bàn tay mình. Tiếng lách cách của gỗ vang trong bầu tĩnh lặng. Tiếng lộp cộp của cốc thủy tinh ran dọc theo quầy. Rồi tiếng lệt xệt của ghế đẩy ngược bởi toán chơi cạnh bức tường.
Đứa trẻ lặng người. Lão già, cậu nói.
Lão già không đáp lại. Cả quán hoàn toàn lặng im. Đứa trẻ quay sang để tìm lão bằng mắt mình.
Gã phát điên rồi, là lời của lão.
Đứa trẻ quan sát đôi mắt chủ quầy rượu.
Chủ quầy vẫy khẩu súng về phía cánh cửa.
Lão già nói cho cả phòng nghe bằng tiếng Tây Ban Nha. Rồi lão nói với chủ quầy rượu. Rồi lão đội mũ và rời đi.
Gương mặt chủ quầy rượu tái xanh. Khi gã lại gần phía cuối quầy rượu gã đã đặt xuống khẩu súng và gã đang vác búa khui thùng bằng một tay.
Đứa trẻ lùi về phía giữa phòng và chủ quầy rượu lê bước trên sàn nhà thẳng tới cậu như kẻ trên đường giải quyết việc gay go. Gã vung hai lần tới đứa trẻ và đứa trẻ bước hai lần sang phải. Rồi cậu bước lùi. Chủ quầy rượu cứng đơ. Đứa trẻ nhón người qua quầy rượu và cầm lên khẩu súng. Không ai cử động. Cậu lấy miếng đánh lửa cào lên mặt quầy và đổ thuốc súng ra và đặt khẩu súng xuống lần nữa. Rồi cậu chọn một cặp chai nguyên vẹn trên kệ sau lưng mình và vòng qua phía cuối quầy rượu với mỗi chai trong tay.
Chủ quầy đứng ngay giữa phòng. Gã thở hổn hển và gã xoay thân, dõi theo từng chuyển động của đứa trẻ. Khi đứa trẻ tiếp cận gã gã giơ búa khui thùng. Đứa trẻ cúi nhẹ với cặp chai và nhử đòn và rồi đập vỡ cái bên phải vào đầu gã đàn ông. Máu và rượu túa ra và đầu gối gã sụp xuống và đôi mắt gã trợn lên. Đứa trẻ đã buông ra cổ chai và cậu ném cái chai thứ hai sang tay phải theo kiểu của bọn thảo khấu trước khi nó chạm nền nhà và cậu nện trái tay chai thứ hai vào hộp sọ gã và găm mảnh lởm chởm vào mắt gã đoạn gã gục người.
Đứa trẻ đưa mắt nhìn quanh. Một vài gã mang súng ngắn bên thắt lưng song không ai cử động. Đứa trẻ leo qua quầy rượu và lấy một chai khác và rúc nó dưới cánh tay mình và bước ra khỏi cửa. Con chó đã đi mất. Người ngồi trên băng ghế cũng đi mất. Cậu tháo dây ràng cho con la và dắt nó qua quảng trường.
Cậu thức dậy trong gian giữa của nhà thờ bỏ hoang, chớp mắt trước trần vòm và bức tường cao nghiêng ngả mang bích họa đã phai. Nền đất nhà thờ ngập trong phân chim khô róc và chất thải của gia súc và cừu. Bồ câu vỗ cánh xuyên qua trụ cửa lấy sáng đầy bụi và ba con kền kền chực ngã trên xác xương nhọn hoắt của con thú nào đấy chết trong thánh đường.
Đầu cậu nhức dai dẳng và lưỡi cậu sưng vì khát. Cậu ngồi thẳng và nhìn quanh. Cậu đã đặt cái chai bên dưới yên ngựa và cậu thấy nó và giơ nó lên và lắc nó và giật nút bần và uống. Cậu ngồi với đôi mắt khép lại, mồ hôi lấm tấm trên vầng trán. Rồi cậu mở mắt và uống lần nữa. Lũ kền kền bước xuống từng con và rón rén tiến vào buồng lễ phục. Sau một lúc cậu bật dậy và ra ngoài để tìm con la.
Nó không hiện diện trong tầm mắt. Nơi truyền giáo choán tám hoặc mười a-rê đất với rào vây quanh, một khu lân cận hoang vắng nuôi một ít dê và lừa thồ. Trong vách ngăn bùn của vùng khai khẩn có nhà ở của gia đình chiếm đất và vài lửa bếp bốc lên làn khói mỏng dưới ánh mặt trời. Cậu vòng qua bên hông nhà thờ và tiến vào buồng lễ phục. Kền kền tập tễnh bỏ đi qua rơm rạ và thạch cao tựa gà vườn to lớn. Các khung mái vòm trên cao lỗ chỗ khối lông đen trũi đang xê dịch và hít thở và ríu rít. Trong căn phòng là chiếc bàn gỗ với ít lọ bằng đất và dọc theo bức tường sau nằm đó xác thân của vài người, một đứa trẻ. Cậu vẫn tiến qua buồng lễ phục vào nhà thờ lần nữa và lấy yên ngựa. Cậu uống nốt rượu trong chai và cậu vác yên ngựa trên vai và bước ra ngoài.
Mặt trước công trình mang một loạt thánh nhân trong hốc tường và họ đã bị bắn do binh lính Mĩ thử khai hỏa súng trường, hình thể khuyết đôi tai và cặp mũi và lỗ chỗ sắc đen với vết chì bám gỉ trên khối đá. Hai cửa khổng lồ mở toang được khắc chạm và được đóng ô mắc xiêu vẹo trên bản lề và tượng đá tạc hình Mẹ Đồng trinh giữ trong vòng tay một đứa trẻ không đầu. Cậu đứng chớp mắt giữa hơi nóng ban trưa. Rồi cậu thấy dấu chân của con la. Chúng chỉ là vết mờ ngổn ngang trên nền đất và chúng hướng ra ngoài cửa nhà thờ và băng qua lô đất tới cổng bên bức tường phía đông. Cậu vác yên ngựa lên cao hơn trên vai mình và lần theo chúng.
Con chó dưới bóng râm của mái cổng bật dậy và ủ rũ lao vào ánh dương đến khi cậu đã băng qua và rồi lao về. Cậu men theo con lộ xuống ngọn đồi thẳng tới dòng sông, một dáng hình đủ phần tơi tả. Cậu tiến vào rừng cây hồ đào và tượng mộc khuất sâu và con lộ dâng lên và cậu thấy được dòng sông bên dưới. Bọn đen đang rửa xe ngựa chở khách tại sông cạn và cậu xuôi dốc ngọn đồi và đứng bên rìa con nước và sau một lúc cậu gọi to về phía chúng.
Chúng đang ngâm vào nước các vật đen sơn mài và một trong số chúng ngẩng lên và quay sang nhìn cậu. Đàn ngựa khuỵu chân trong dòng chảy.
Gì? là lời gọi của kẻ đen.
Bây có thấy một con la không.
Con la?
Đây mất một con. Đây nghĩ nó đi hướng này.
Kẻ đen lau mặt mình bằng cánh tay. Có gì đó xuôi theo con lộ chừng một tiếng trước. Đây nghĩ nó đi xuống con sông đằng xa kia. Biết đâu chừng nó là con la. Nó không có đuôi hay lông nên không rõ lắm nhưng mà nó có đôi tai dài.
Hai kẻ đen khác nhe răng cười. Đứa trẻ nhìn xuống dòng sông. Cậu nhổ bọt và cất bước dọc theo lối mòn qua lùm liễu rủ và vùng cỏ trũng.
Cậu tìm thấy nó tầm một trăm dặm hướng hạ lưu sông. Nó ướt đẫm tới phần bụng và nó ngước nhìn cậu và rồi gục đầu xuống lần nữa vào bụi cỏ tươi tốt ven sông. Cậu quăng xuống yên ngựa và nhặt lên sợi thừng lết bết và ràng chân con thú và hững hờ đá nó. Nó khẽ nhích thân và tiếp tục gặm cỏ. Cậu với tay lên đỉnh đầu mình song cậu đã đánh rơi chiếc mũ lố bịch đâu đó. Cậu xuôi bước qua hàng cây và đứng nhìn con nước lạnh chảy xiết. Rồi cậu lội ra dòng sông như kẻ nào đấy hoàn toàn ác ôn đáng được rửa tội.
(Hết chương 2)