Phần năm
Chúng ta đã thành công. Chúng ta đã tạo ra nó. Chúng ta hồi sinh nó từ bóng đêm của thời gian. Chỉ mình chúng ta. Bàn tay chúng ta. Trí óc chúng ta. Chỉ của chúng ta mà thôi.
Chúng ta không biết mình đang nói gì nữa. Đầu óc chúng ta quay cuồng. Chúng ta ngắm nhìn ánh sáng mình tạo ra. Dù chúng ta có nói gì đêm nay thì cũng sẽ được tha thứ...
Đêm nay, sau không biết bao nhiêu ngày và bao nhiêu thử nghiệm, chúng ta đã hoàn thành việc tạo ra một thứ kì lạ từ những tàn tích của Thời Bất Khả Luận, một cái hộp thủy tinh được thiết kế để phát ra năng lượng của bầu trời với sức mạnh lớn hơn tất cả những gì chúng ta đã đạt được trước đó. Và khi chúng ta đặt dây kim loại vào cái hộp này, khi chúng ta đóng mạch – mảnh dây phát sáng! Nó bừng lên, chuyển sang màu đỏ, và một vòng tròn ánh sáng hắt lên tảng đá trước mặt chúng ta.
Chúng ta đứng đó, vùi đầu vào hai bàn tay. Chúng ta không hiểu nổi thứ mình đã tạo ra. Chúng ta không hề chập đá lửa cũng không đốt lửa. Thế mà vẫn có ánh sáng, ánh sáng không biết đến từ đâu, ánh sáng từ tâm kim loại.
Chúng ta thổi tắt nến. Bóng tối nuốt chửng lấy chúng ta. Quanh chúng ta không còn gì cả ngoài bóng đêm và một sợi lửa mỏng, như một kẽ hở trên tường nhà giam. Chúng ta duỗi tay về phía sợi dây và có thể thấy những ngón tay mình trong ánh sáng đỏ mờ. Chúng ta không thể thấy hay cảm nhận cơ thể mình, và trong khoảnh khắc đó, không gì khác tồn tại ngoài hai bàn tay chúng ta trên sợi dây phát sáng trong một vực thẳm đen tối.
Rồi chúng ta nghĩ về ý nghĩa của thứ nằm trước mặt mình. Chúng ta có thể thắp sáng đường hầm này và Thành Phố và tất cả Thành Phố trên thế giới chỉ với kim loại và dây dẫn. Chúng ta có thể mang ánh sáng mới đến với anh em mình, một ánh sáng sạch hơn và sáng hơn bất kì ánh sáng nào họ từng biết. Con người có thể khiến năng lượng của bầu trời phục tùng ý muốn của họ. Không còn giới hạn cho những bí ẩn và sức mạnh của thiên nhiên và chỉ cần mở lời hỏi, nó có thể ban cho chúng ta bất cứ gì.
Rồi chúng ta biết mình phải làm gì. Phát hiện của chúng ta quá lớn lao nên chúng ta không thể tiêu phí thời gian vào việc quét đường được. Chúng ta không được giữ bí mật này cho riêng mình hay chôn vùi nó dưới lòng đất. Chúng ta phải trưng bày nó trước mắt mọi người. Chúng ta cần thời gian, chúng ta cần những phòng làm việc ở Nhà của Học Giả, chúng ta muốn giúp đỡ các anh em Học Giả và giúp kết nối kiến thức của họ với kiến thức của chúng ta. Có quá nhiều việc cần làm trước mắt cho tất cả chúng ta, cho tất cả Học Giả trên thế giới.
Một tháng nữa Hội Đồng Học Giả Thế Giới sẽ họp ở Thành Phố chúng ta. Đây là một Hội Đồng quan trọng, với những người thông thái nhất được chọn từ mọi vùng đất, họp mỗi năm một lần ở những Thành Phố khác nhau trên trái đất. Chúng ta sẽ đi đến Hội Đồng này và sẽ đặt trước mặt họ cái hộp thủy tinh với năng lượng của bầu trời này, như một món quà. Chúng ta sẽ thú nhận mọi việc với họ. Họ sẽ thấy, sẽ hiểu và tha thứ. Vì món quà của chúng ta quan trọng hơn sự vi phạm của chúng ta. Họ sẽ giải thích với Hội Đồng Nghề Nghiệp và chúng ta sẽ được phân công về Nhà của Học Giả. Điều này chưa từng xảy ra, cũng giống như món quà của chúng ta chưa từng được ban tặng cho con người vậy.
Chúng ta phải chờ đợi. Chúng ta phải canh gác đường hầm sát sao hơn bao giờ hết. Vì nếu có ai ngoài các Học Giả phát hiện ra bí mật của chúng ta thì họ sẽ không hiểu nó hay tin lời chúng ta. Họ sẽ không thấy gì khác ngoài tội làm việc một mình của chúng ta và họ sẽ hủy hoại chúng ta và ánh sáng của chúng ta. Chúng ta không quan tâm đến thân thể mình, nhưng còn ánh sáng của chúng ta thì...
Không, chúng ta quan tâm chứ. Lần đầu tiên trong đời chúng ta quan tâm đến thân thể mình. Vì dây kim loại này cũng giống như một phần cơ thể chúng ta, một mạch máu rút ra từ bên trong chúng ta, phát sáng với máu chúng ta. Chúng ta tự hào về sợi kim loại này, hay về đôi bàn tay đã tạo ra nó, liệu có tồn tại một vạch phân chia hai lựa chọn này không?
Chúng ta vươn hai cánh tay ra. Lần đầu tiên trong đời chúng ta biết hai cánh tay mình mạnh mẽ thế nào. Và một suy nghĩ kì lạ đến với chúng ta: chúng ta tự hỏi, lần đầu trong đời, mình trông ra sao. Con người không bao giờ nhìn thấy khuôn mặt chính mình và không bao giờ hỏi các anh em về việc đó, vì quan tâm đến khuôn mặt hay cơ thể của bản thân là một việc xấu xa. Nhưng đêm nay, vì một lí do chúng ta không thể hiểu thấu, chúng ta ước gì có thể biết bản thân mình trông thế nào.

Phần sáu
Chúng ta đã không viết trong ba mươi ngày. Trong ba ngươi ngày chúng ta đã không ở đây, trong đường hầm. Chúng ta đã bị bắt. Nó xảy ra vào cái đêm chúng ta viết lần trước. Đêm đó chúng ta quên canh chừng cát trong bình thủy tinh thông báo cho chúng ta biết ba tiếng đã trôi qua và đến giờ quay lại Rạp Hát Thành Phố. Khi chúng ta nhớ ra thì cát đã tuôn hết từ lúc nào.
Chúng ta vội vã đến Rạp Hát. Nhưng cái lều lớn đứng đó xám xịt và im lặng dưới bầu trời. Những con đường Thành Phố hiện ra trước mắt chúng ta, tối tăm và hoang vắng. Nếu chúng ta quay lại trốn trong đường hầm thì chúng ta sẽ bị tìm ra và ánh sáng của chúng ta cũng vậy. Vậy nên chúng ta đi bộ về Nhà của Phu Quét Đường.
Khi Hội Đồng Nhà chất vấn chúng ta, chúng ta nhìn những khuôn mặt trong Hội Đồng, nhưng không tìm ra một mảy may tò mò, giận dữ hay nhân từ trong những khuôn mặt ấy. Khi người lớn tuổi nhất hỏi chúng ta: “Người đã ở đâu?” chúng ta nghĩ về cái hộp thủy tinh và ánh sáng của chúng ta, và quên đi mọi thứ khác. Và chúng ta trả lời:
“Chúng ta sẽ không cho người biết.”
Người lớn tuổi nhất không chất vấn gì thêm. Họ quay sang hai người trẻ hơn và nói với giọng buồn chán:
“Mang anh em Bình Đẳng 7-2521 đến Điện Giam Cải Tạo. Quất roi họ cho đến khi họ chịu mở miệng.”
Chúng ta bị giải đến Phòng Đá bên dưới Điện Giam Cải Tạo. Căn phòng này không có cửa sổ và trống trơn ngoại trừ một cây cột sắt. Hai người đàn ông đứng bên cây cột, chỉ mặc trên người độc một tấm tạp dề da và khuôn mặt họ khuất dưới mũ trùm đầu da. Những người áp giải chúng ta rời đi, để chúng ta lại với hai Thẩm Phán đứng ở góc phòng. Hai Thẩm Phán là hai người đàn ông lùn xủn, ốm, xanh xao và lưng còng. Họ ra hiệu cho hai người che mặt khỏe mạnh.
Hai người này xé toạc quần áo trên người chúng ta, đẩy chúng ta quì xuống và trói hai tay chúng ta vào cái cột sắt. Nhát roi đầu tiên tạo cảm giác như xương sống chúng ta bị cắt làm đôi. Nhát thứ hai chặn nhát thứ nhất lại, và trong một giây chúng ta không cảm thấy gì, rồi cơn đau ập đến trong cổ họng và lửa cháy lan trong hai lá phổi không còn chút không khí của chúng ta. Nhưng chúng ta không kêu khóc.
Cây roi vụt qua lại như một ngọn gió ngân nga. Chúng ta cố đếm số nhát roi nhưng rồi không đếm xuể. Chúng ta biết rằng những nhát roi đang vụt trên lưng mình. Chỉ có điều chúng ta không còn cảm nhận được lưng mình nữa. Một cái vỉ cháy phừng phừng nhảy nhót trước mắt chúng ta, và chúng ta không nghĩ đến gì khác ngoài cái vỉ đó, một cái vỉ, một cái vỉ với những mắt lưới vuông đỏ, và rồi chúng ta biết rằng mình đang nhìn những mắt lưới vuông của cái vỉ sắt trên cửa, và trên những bức tường cũng có những khoảng đá vuông, và những hình vuông mà cây roi đang vẽ ra trên lưng chúng ta, vụt qua vụt lại cắt vào da thịt chúng ta.
Rồi chúng ta thấy một nắm đấm trước mặt. Nó nốc ngược hàm chúng ta và chúng ta trông thấy bọt đỏ sùi ra từ mép mình trên những ngón tay khô héo, và vị Thẩm Phán hỏi:
“Người đã ở đâu?”
Nhưng chúng ta giật mạnh đầu ra xa, giấu mặt sau hai bàn tay rã rời vì bị trói và cắn chặt môi.
Cây roi lại bay vun vút. Chúng ta tự hỏi ai là người đang rải tro than cháy dở lên sàn, vì chúng ta thấy những giọt đỏ lóng lánh trên những tảng đá quanh mình.
Rồi chúng ta không biết gì nữa, trừ hai giọng nói gầm gừ liên tục, nối tiếp nhau, dù chúng ta biết rằng chúng vang lên cách nhau nhiều phút:
“Người đã ở đâu người đã ở đâu người đã ở đâu người đã ở đâu?...”
Và môi chúng ta động đậy, nhưng một âm thanh nhỏ nhoi trôi ngược lại vào cổ họng chúng ta, và âm thanh đó chỉ là:
“Ánh sáng... Ánh sáng... Ánh sáng...”
Rồi chúng ta bất tỉnh.
Khi chúng ta mở mắt ra, chúng ta đang nằm sấp trên sàn gạch của một phòng giam. Chúng ta nhìn hai bàn tay nằm cách xa trên những hòn gạch, thử cử động chúng, và biết rằng đó là tay chúng ta. Nhưng chúng ta không thể cử động cơ thể mình. Rồi chúng ta mỉm cười, vì chúng ta đã nghĩ đến ánh sáng và đã không phản bội nó.
Chúng ta nằm trong buồng giam nhiều ngày. Cửa mở hai lần mỗi ngày, một lần để người mang bánh mì và nước vào cho chúng ta, và một lần cho các Thẩm Phán. Nhiều Thẩm Phán ghé vào buồng giam của chúng ta, ban đầu là những người tầm thường nhất rồi đến những Thẩm Phán được trọng vọng nhất của Thành Phố. Họ đứng trước chúng ta trong bộ áo choàng trắng, và họ hỏi:
“Người đã sẵn sàng mở miệng chưa?”
Nhưng chúng ta lắc đầu, nằm đó trên sàn trước mặt họ. Và họ rời đi.
Chúng ta đếm từng ngày trôi qua. Rồi, đêm nay, chúng ta biết rằng mình phải bỏ trốn. Vì ngày mai Hội Đồng Học Giả Thế Giới sẽ họp ở Thành Phố của chúng ta.
Việc trốn thoát khỏi Điện Giam Cải Tạo là rất dễ dàng. Những ổ khóa trên cửa thì cũ kĩ, lại không có lính gác xung quanh. Không có lí do gì để cần đến lính gác cả, vì con người chưa bao giờ cả gan thách thức các Hội Đồng đến mức bỏ trốn khỏi nơi mà họ được ra lệnh phải ở lại. Cơ thể chúng ta khỏe mạnh và chúng ta nhanh chóng lấy lại sức. Chúng ta hích mạnh cánh cửa và nó hé mở. Chúng ta lẩn mình qua những hành lang tăm tối, qua những con phố tăm tối và leo xuống đường hầm của chúng ta.
Chúng ta thắp nến và thấy rằng chỗ bí mật của mình chưa bị phát hiện và không có thứ gì bị xáo trộn. Và cái hộp thủy tinh nằm trước mặt chúng ta trên cái lò lạnh lẽo, y như khi chúng ta rời khỏi. Những vết sẹo trên lưng chúng ta giờ đây thì có ý nghĩa gì chứ!
Ngày mai, trong ánh sáng ban ngày, chúng ta sẽ mang cái hộp đi, để ngỏ đường hầm và đi qua những con phố đến Nhà của Học Giả. Chúng ta sẽ đặt trước mặt họ món quà quí giá nhất từng được ban tặng cho con người. Chúng ta sẽ cho họ biết sự thật. Chúng ta sẽ trao cho họ những trang đã viết ra, như một lời thú tội. Chúng ta sẽ nắm lấy tay họ, và chúng ta sẽ cùng nhau làm việc, với sức mạnh của bầu trời, vì sự vinh quang của nhân loại. Phúc lành cho người, các anh em! Ngày mai người sẽ chào đón chúng ta vào lại trong vòng tay và chúng ta sẽ không còn là một kẻ bị ruồng bỏ. Ngày mai chúng ta sẽ lại là một với người. Ngày mai...

Phần bảy
Trong rừng tăm tối. Những chiếc lá xào xạc trên đầu chúng ta, đen sẫm lại trong ánh sáng vàng vọt cuối cùng của bầu trời. Rêu mềm mại và ấm áp. Chúng ta sẽ ngủ trên thảm rêu này nhiều đêm, cho đến khi bọn dã thú trong rừng đến xé xác chúng ta. Giờ thì chúng ta không có giường nào ngoài tấm thảm rêu, và không tương lai gì ngoài những con dã thú.  
Giờ thì chúng ta cảm thấy già nua nhưng chỉ sáng nay thôi chúng ta vẫn trẻ trung, khi chúng ta mang cái hộp thủy tinh đi qua những con đường trong Thành Phố đến Nhà của Học Giả. Không ai chặn chúng ta lại, vì không ai xung quanh đến từ Điện Giam Cải Tạo và những người khác thì không biết đến sự tình. Không ai chặn chúng ta ở cổng. Chúng ta đi qua những hành lang trống vắng vào đại sảnh, nơi Hội Đồng Học Giả Thế Giới ngồi họp trang nghiêm.
Chúng ta không nhìn thấy gì khi bước vào, chỉ thấy bầu trời qua những cửa sổ lớn, xanh trong sáng chói. Rồi chúng ta nhìn thấy những Học Giả ngồi quanh một cái bàn dài; họ trông như những đám mây không hình dạng tụm lại thành đống trên bầu trời vĩ đại vậy. Có những người tên tuổi nổi tiếng chúng ta biết đến, và những người khác từ các vùng đất xa xôi chúng ta chưa từng nghe qua tên. Chúng ta nhìn thấy một bức tranh lớn trên tường phía trên đầu họ, ghi hình hai mươi con người lẫy lừng đã sáng chế ra nến.
Mọi cái đầu trong Hội Đồng quay nhìn khi chúng ta tiến vào. Những nhân vật vĩ đại thông thái của trái đất không biết chúng ta là thế nào và họ nhìn chúng ta ngạc nhiên và tò mò, như thể chúng ta là một phép màu vậy. Đúng là áo choàng của chúng ta rách rưới và dấy bẩn bởi những vệt nâu từng là máu. Chúng ta giơ cánh tay phải lên và nói:
“Lời chào trân trọng dành cho người, những anh em danh dự của Hội Đồng Học Giả Thế Giới!”
Rồi Tập Thể 0-0009, người lớn tuổi nhất và thông thái nhất của Hội Đồng cất tiếng hỏi:
“Người anh em, người là ai? Vì người trông không giống như một Học Giả.”
“Tên chúng ta là Bình Đẳng 7-2521,” chúng ta trả lời, “và chúng ta là một Phu Quét Đường của Thành Phố này.”
Khi ấy, giống như có một cơn gió lớn vừa lùa vào đại sảnh, tất cả Học Giả cùng lên tiếng một lúc, ai cũng tức giận và sợ hãi.
“Một Phu Quét Đường! Một Phu Quét Đường đi thẳng vào gặp Hội Đồng Học Giả Thế Giới! Thật không thể tin được mà! Thật là một việc trái mọi qui tắc và luật lệ mà!”
Nhưng chúng ta biết cách ngăn họ lại.
“Các anh em!” chúng ta nói. “Chúng ta hay vi phạm của chúng ta không có gì quan trọng. Chỉ có các anh em loài người là quan trọng thôi. Xin đừng bận lòng nghĩ đến chúng ta, vì chúng ta không là gì cả, nhưng xin hãy lắng nghe chúng ta, vì chúng ta mang đến một món quà mà con người chưa từng được ban tặng. Hãy lắng nghe chúng ta, vì chúng ta nắm trong tay tương lai của nhân loại.”
Khi đó họ lắng nghe.
Chúng ta đặt cái hộp thủy tinh lên bàn trước mặt họ. Chúng ta nói về nó, về quá trình tìm kiếm lâu dài, về đường hầm, và về cuộc đào thoát khỏi Điện Giam Cải Tạo. Trong đại sảnh ấy không một bàn tay hay một cặp mắt nào cử động khi chúng ta trình bày. Rồi chúng ta đặt dây kim loại vào cái hộp, và họ đều chồm về phía trước và ngồi im, quan sát. Và chúng ta đứng yên, mắt dán vào dây kim loại. Và từ từ, từ từ như một dòng máu rỉ ra, một ánh lửa đỏ run rẩy bên trong sợi dây. Rồi sợi dây phát sáng.
Những người trong Hội Đồng bị một phen kinh hãi. Họ nhảy dựng lên, họ chạy khỏi bàn, và họ đứng áp sát vào tường, tụm lại với nhau, tìm kiếm hơi ấm từ cơ thể của nhau để tiếp thêm dũng khí.
Chúng ta nhìn họ, cười lớn và nói:
“Đừng sợ gì cả, các anh em. Trong các dây này là một năng lượng lớn, nhưng năng lượng này đã được thuần hóa. Nó là của người. Chúng ta trao nó cho người.”
Thế nhưng họ vẫn không động đậy.
“Chúng ta trao cho người năng lượng của bầu trời!” chúng ta kêu lên. “Chúng ta trao cho người chìa khóa của trái đất! Hãy nhận nó và để chúng ta trở thành một trong số người, kẻ hèn mọn nhất. Hãy cùng nhau làm việc và khai thác năng lượng này và để nó trợ giúp công việc nhọc nhằn của con người. Hãy vứt nến và đuốc đi. Hãy nhận chìm các thành phố trong ánh sáng. Hãy mang một thứ ánh sáng mới đến với con người!”
Nhưng họ nhìn chúng ta, và bỗng nhiên chúng ta thấy sợ. Vì mắt họ bất động, híp lại và đầy hiểm ác.
“Các anh em!” chúng ta kêu lên. “Người không có gì nói với chúng ta sao?”
Rồi Tập Thể 0-0009 tiến lên phía trước. Họ tiến lại bàn và những người khác theo sau.
“Có,” Tập Thể 0-0009 nói, “chúng ta có rất nhiều điều muốn nói với người.”
Giọng họ kéo theo một sự im lặng bao trùm đại sảnh và cả nhịp đập trái tim chúng ta.
“Có,” Tập Thể 0-0009 nói, “chúng ta có rất nhiều điều muốn nói với một kẻ đê tiện đã phá vỡ mọi luật lệ và huênh hoang kể về sự ô nhục ấy!”
“Làm sao người dám nghĩ rằng đầu óc người thông tuệ hơn đầu óc của các anh em người? Và nếu các Hội Đồng đã ban lệnh cho người làm Phu Quét Đường, làm sao người dám nghĩ rằng người có thể làm những việc hữu ích hơn là quét đường chứ?”
“Làm sao người dám chứ, đồ cặn bã,” Học Hữu 9-3452 nói, “tự cho mình là một và với suy nghĩ của một cá nhân chứ không phải của một số đông?”
“Người sẽ bị thiêu sống,” Dân Chủ 4-6998 nói.
“Không, họ sẽ bị quất roi,” Nhất Trí 7-3304 nói, “cho đến khi không còn lại gì dưới ngọn roi.”
“Không,” Tập Thể 0-0009 nói, “chúng ta không thể quyết định việc này, các anh em. Tội này chưa ai từng phạm phải và chúng ta không thể phán xét được. Bất kì Hội Đồng nhỏ nào cũng không thể. Chúng ta sẽ trao sinh vật này cho chính Hội Đồng Thế Giới và tuân theo nguyện vọng của họ.”
Chúng ta nhìn họ, van xin:
“Các anh em! Người nói đúng. Hãy để nguyện vọng của Hội Đồng trừng phạt thân thể chúng ta. Chúng ta không quan tâm. Nhưng còn ánh sáng? Người sẽ làm gì với ánh sáng này?”
Tập Thể 0-0009 nhìn chúng ta và mỉm cười.
“Vậy ra người nghĩ rằng người đã tìm ra một năng lượng mới,” Tập Thể 0-0009 nói. “Các anh em người có nghĩ vậy không?”
“Không,” họ đáp.
“Điều không được mọi người nhất trí là không thể đúng được,” Tập Thể 0-0009 nói.
“Người đã tiến hành công việc này một mình sao?” Quốc Tế 1-5537 hỏi.
“Nhiều người trong các Nhà của Học Giả đã có những ý tưởng kì quái trong quá khứ,” Đoàn Kết 8-1164 nói, “nhưng khi đại đa số các anh em Học Giả bỏ phiếu chống lại chúng, họ đã từ bỏ ý tưởng của mình, như đúng ra tất cả nên làm.”
“Cái hộp này vô dụng mà,” Đồng Minh 6-7349 nói.
“Nếu đúng như những gì họ giải thích,” Hòa Hợp 9-2642 nói, “thì vật này sẽ hủy hoại Bộ Nến. Nến là một ân huệ lớn cho loài người, được tán thành bởi mọi người. Vì vậy nó không thể bị hủy diệt chỉ vì ý tưởng chợt nảy ra của một cá nhân.”
“Nó sẽ gây hại lớn cho những Kế Hoạch của Hội Đồng Thế Giới,” Nhất Trí 2-9913 nói, “mà không có các Kế Hoạch của Hội Đồng Thế Giới thì mặt trời không mọc được. Mất năm mươi năm để đạt được sự nhất trí của tất cả Hội Đồng về đề tài Nến, để quyết định số lượng cần thiết, và để điều chỉnh các Kế Hoạch nhằm sản xuất nến thay vì đuốc. Việc này ảnh hưởng đến hàng ngàn người làm việc ở biết bao nhiêu Quốc Gia. Chúng ta không thể thay đổi các Kế Hoạch sớm như vậy được.”
“Và nếu thứ này có thể làm nhẹ gánh công việc cho con người,” Đồng Dạng 5-0306 nói, “thì nó thật là một thứ xấu xa ghê gớm, vì con người không có lí do gì để tồn tại ngoài việc lao động khổ cực vì những người khác.”
Rồi Tập Thể 0-0009 đứng dậy và chỉ tay vào cái hộp của chúng ta.
“Vật này,” họ nói, “phải bị phá hủy.”
Và tất cả những người các kêu lên một lượt:
“Nó phải bị phá hủy!”
Chúng ta nhào đến chỗ cái bàn.
Chúng ta chộp lấy cái hộp, xô họ sang một bên và chạy ra cửa sổ. Chúng ta quay lại nhìn họ lần cuối và một cơn phẫn nộ mà con người đáng ra không nên biết đến khiến giọng chúng ta tắc nghẹn trong cổ họng.
“Lũ ngu ngốc!” chúng ta kêu lên: “Lũ ngu ngốc! Lũ ngu ngốc đáng nguyền rủa!”
Chúng ta vung nắm đấm xuyên qua ô cửa sổ và nhảy vọt ra ngoài giữa một trận mưa thủy tinh loảng xoảng.
Chúng ta ngã nhưng không bao giờ rời tay khỏi cái hộp. Rồi chúng ta chạy. Chúng ta cắm đầu chạy, và người qua đường và những ngôi nhà lướt qua chúng ta như một dòng nước lũ không hình dạng. Và con đường trước mặt chúng ta dường như không bằng phẳng, như thể đang nhảy chồm lên đón lấy chúng ta, và chúng ta chờ đợi mặt đất vươn lên táp vào mặt chúng ta. Nhưng chúng ta vẫn chạy. Chúng ta không biết đang đi đâu. Chúng ta chỉ biết mình phải chạy, chạy đến tận cùng thế giới, cho đến cuối cuộc đời.
Rồi chúng ta bỗng nhận ra chúng ta đã dừng lại và đang nằm trên mặt đất mềm mại. Những thân cây cao hơn bất kì cái cây nào chúng ta từng thấy qua đứng sừng sững trước mặt chúng ta trong im lặng. Rồi chúng ta biết. Chúng ta đang ở trong Vị Tri Sâm. Chúng ta không hề nghĩ đến việc tới đây, nhưng hai chân chúng ta có trí khôn riêng và chúng đã mang chúng ta đến Vị Tri Sâm dù chúng ta không chủ ý.
Cái hộp thủy tinh nằm bên cạnh chúng ta. Chúng ta biết sẽ không có người đuổi theo, vì họ không bao giờ đặt chân vào Vị Tri Sâm. Chúng ta không phải sợ họ. Khu rừng sẽ đào thải những nạn nhân của nó. Điều này cũng không khiến chúng ta sợ hãi. Chúng ta chỉ ước đi thật xa, xa khỏi Thành Phố và cả bầu không khí tiếp cận với không khí của Thành Phố. Thế nên chúng ta bước tiếp, cái hộp trong tay, trái tim trống rỗng.
Chúng ta tận số rồi. Không biết còn lại được bao nhiêu ngày nhưng chúng ta sẽ trải qua một mình. Và chúng ta đã nghe về sự hủ bại trong đơn độc. Chúng ta đã tự tách mình khỏi chân lí, chính là các anh em con người, và không còn đường cho chúng ta quay lại, không còn sự cứu chuộc nào.
Chúng ta biết những điều này nhưng không bận tâm. Chúng ta không bận tâm đến bất cứ gì trên trái đất. Chúng ta mệt mỏi rồi.
Duy chỉ có cái hộp thủy tinh trong tay chúng ta như một trái tim đang đập mang lại cho chúng ta sức mạnh. Chúng ta đã tự lừa dối mình. Chúng ta đã không tạo ra cái hộp này vì lợi ích của các anh em. Chúng ta tạo ra nó vì chính nó. Đối với chúng ta, nó vượt trên tất cả anh em và chân lí của nó vượt trên mọi chân lí của họ. Tại sao lại nghĩ về điều này? Chúng ta không còn mấy ngày để sống. Chúng ta đang hướng về phía những nanh vuốt chực chờ mình đâu đó giữa những thân cây to lớn lặng thinh. Sau lưng chúng ta không còn gì để hối tiếc cả.
Rồi một cơn đau nhói ập đến, cơn đau đầu tiên và duy nhất. Chúng ta nghĩ đến Kim Nhân. Chúng ta nghĩ đến Kim Nhân, người mà chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại. Rồi cơn đau qua đi. Vậy là tốt nhất. Chúng ta là một Kẻ Bị Nguyền Rủa. Tốt nhất là Kim Nhân quên đi tên chúng ta và cả cái cơ thể mang cái tên đó.

Phần tám
Đó là một ngày đầy bất ngờ, cái ngày đầu tiên chúng ta trong rừng.
Chúng ta tỉnh dậy khi một vệt nắng chiếu ngang mặt. Chúng ta muốn nhảy chồm lên, như cách chúng ta vẫn nhảy chồm lên mỗi buổi sáng trong suốt cuộc đời, nhưng bỗng nhớ ra rằng không có tiếng chuông nào ngân vang mà cũng không có chuông nào cả. Chúng ta nằm ngửa, giang tay ra nhìn lên trời. Những chiếc lá có viền bạc run rẩy và gợn sóng như một dòng sông xanh lục và lửa mặt trời dập dờn trên cao.
Chúng ta không muốn cử động. Chúng ta chợt nghĩ rằng mình có thể nằm như vậy bao lâu tùy thích, và chúng ta bật cười vì suy nghĩ đó. Chúng ta cũng có thể ngồi dậy, hay chạy, hay nhảy, hay nằm xuống lại. Chúng ta vẫn đang cho rằng đây là những suy nghĩ ngốc nghếch thì cơ thể chúng ta đã thình lình bật dậy trước khi chúng ta kịp hay biết. Cánh tay chúng ta tự động vươn ra, và cơ thể chúng ta quay mòng mòng, cho đến khi nó tạo ra một cơn gió xào xạc xuyên qua những chiếc lá của những bụi rậm. Rồi hai bàn tay chúng ta tóm lấy một nhánh cây và đu người lên cao, không có đích nhắm nào trong đầu mà chỉ đơn giản là tò mò muốn biết sức mạnh cơ thể mình. Nhánh cây gãy tách và chúng ta rơi xuống thảm rêu mềm mại như gối ôm. Cơ thể chúng ta, không còn chút tự chủ, lăn lộn trên thảm rêu, lá khô bám vào áo choàng, vào tóc, vào mặt chúng ta. Và chúng ta chợt nghe thấy mình đang cười, cười lớn, cười như thể trong chúng ta không còn chút sức lực nào sót lại ngoài tiếng cười vậy.
Rồi chúng ta nhặt cái hộp thủy tinh lên và tiến vào sâu trong rừng. Chúng ta cứ thế đi tiếp, xuyên qua những nhánh cây, như thể đang bơi trong một biển lá, với những bụi cây là những con sóng trồi lên sụt xuống rồi lại trồi lên quanh chúng ta, tung bọt nước xanh lục lên cao tận những đỉnh cây. Những thân cây rẽ ra trước mặt chúng ta, mời gọi tiến về phía trước. Khu rừng có vẻ như chào đón chúng ta. Chúng ta đi tiếp, không suy nghĩ, không lo âu, không cảm thấy gì khác ngoại trừ giai điệu của cơ thể mình.
Chúng ta dừng lại khi thấy đói. Chúng ta thấy những con chim trên nhánh cây, bay lượn theo dấu chân chúng ta. Chúng ta nhặt một hòn đá và ném nó như một mũi tên về phía một con chim. Nó rơi xuống trước mặt chúng ta. Chúng ta nhóm lửa, nướng con chim, ăn nó, và cảm thấy chưa từng ăn bữa nào ngon lành đến vậy. Và chúng ta chợt nghĩ rằng có một sự thỏa mãn lớn lao trong thức ăn mà chúng ta cần và đạt được bằng chính bàn tay mình. Và chúng ta ước mình sẽ sớm đói lại để có thể trải nghiệm lần nữa niềm tự hào kì lạ mới mẻ trong việc ăn uống này.
Rồi chúng ta đi tiếp. Và chúng ta đến chỗ một con suối trông như một vệt thủy tinh giữa những hàng cây. Nó nằm tĩnh lặng đến mức chúng ta không thấy nước mà chỉ thấy một vết cắt trên mặt đất nơi mà những cái cây mọc chĩa ngược xuống và bầu trời thì nằm dưới đáy. Chúng ta quì gối cạnh dòng suối và cúi xuống uống nước. Và rồi chúng ta chựng lại. Vì, trên nền trời xanh, chúng ta vừa thấy khuôn mặt mình lần đầu tiên.
Chúng ta ngồi yên nín thở. Vì khuôn mặt và cơ thể chúng ta thật đẹp đẽ. Khuôn mặt chúng ta không giống khuôn mặt các anh em, vì chúng ta không cảm thấy đáng thương khi nhìn nó. Cơ thể chúng ta không giống với cơ thể các anh em, vì tay chân chúng ta thẳng, thanh mảnh, săn chắc và khỏe mạnh. Và chúng ta nghĩ rằng mình có thể tin tưởng cái sinh thể đang nhìn chúng ta từ dòng suối, và rằng chúng ta không có gì phải sợ sinh thể này cả.
Chúng ta đi tiếp cho đến khi mặt trời lặn. Khi bóng tối tụ lại giữa những thân cây, chúng ta dừng chân trong một cái hốc giữa những rễ cây, nơi chúng ta sẽ ngủ đêm nay. Và bỗng nhiên, lần đầu tiên trong suốt cả ngày, chúng ta nhớ ra rằng mình là một Kẻ Bị Nguyền Rủa. Chúng ta nhớ ra và cười lớn.
Chúng ta viết những dòng này trên mảnh giấy chúng ta đã giấu trong áo choàng cùng với những trang ghi chép chúng ta đã mang đến Hội Đồng Học Giả Thế Giới nhưng không có dịp trao cho họ. Chúng ta có rất nhiều điều cần nói với bản thân và hi vọng rằng chúng ta sẽ tìm ra từ ngữ cho chúng trong những ngày sắp tới. Lúc này thì chúng ta không thể nói vì chúng ta vẫn chưa thấu hiểu được.

Phần chín
Chúng ta đã không viết trong nhiều ngày. Chúng ta không muốn nói. Vì chúng ta không cần đến từ ngữ để ghi nhớ những gì đã xảy ra với chúng ta.
Đó là ngày thứ hai trong rừng khi chúng ta nghe thấy tiếng bước chân sau lưng. Chúng ta nấp mình trong bụi rậm và chờ đợi. Những bước chân tiến lại gần hơn. Và chúng ta thoáng thấy phần vạt của một chiếc áo rộng màu trắng giữa những thân cây và một tia vàng.
Chúng ta nhảy chồm ra, lao về phía họ, và chúng ta đứng đó nhìn Kim Nhân.
Họ thấy chúng ta, và hai bàn tay họ co lại thành nắm đấm, và hai nắm đấm kéo cánh tay họ xuống như thể họ muốn hai cánh tay giữ họ lại, trong khi cơ thể họ lắc lư. Và họ không thốt nên lời.
Chúng ta không dám đến quá gần họ. Chúng ta hỏi, giọng run run:
“Làm thế nào mà người ở đây, Kim Nhân?”
Nhưng họ chỉ thì thầm:
“Chúng ta đã tìm thấy người...”
“Làm thế nào mà người lại ở trong rừng?” chúng ta hỏi.
Họ ngẩng đầu lên, và trong giọng nói họ là một niềm kiêu hãnh lớn lao; họ đáp:
“Chúng ta đã theo chân người.”
Đến lượt chúng ta không thốt nên lời, và họ nói:
“Chúng ta nghe được rằng người đã đi đến Vị Tri Sâm, vì cả Thành Phố đang bàn tán về việc đó. Vậy nên vào ngày chúng ta nghe tin, chúng ta bỏ trốn khỏi Nhà của Nông Dân vào ban đêm. Chúng ta tìm thấy vết chân người trên vùng đồng bằng không ai bước qua. Chúng ta lần theo những vết chân này và vào khu rừng và chúng ta lần theo lối mòn nơi những nhánh cây bị cơ thể người bẻ gãy.”
Áo dài trắng của họ rách rưới và những nhánh cây đã rạch nhiều lằn lên da cánh tay họ nhưng họ nói như thể chưa bao giờ nhận ra sự tồn tại chúng, của sự mệt mỏi hay sợ hãi vậy.
“Chúng ta đã theo chân người,” họ nói, “và chúng ta sẽ đi theo người bất kể nơi đâu. Nếu hiểm nguy đe dọa người, chúng ta cũng sẽ đối mặt với nó. Nếu đó là cái chết, chúng ta sẽ chết cùng người. Người bị nguyền rủa, và chúng ta ước có thể chia sẻ sự nguyền rủa này.”
Họ nhìn chúng ta, và trong giọng nói nhỏ bé của họ chứa đựng cả cay đắng và thắng lợi.
“Cặp mắt người như một ngọn lửa nhưng các anh em thì không có hi vọng cũng chẳng có lửa. Môi người được cắt ra từ đá hoa cương nhưng các anh em thì lại mềm mỏng và khiêm tốn. Đầu người ngẩng cao nhưng các anh em thì rụt cổ lại. Người bước đi nhưng các anh em bò trườn. Chúng ta muốn bị nguyền rủa cùng người hơn là được ban phước cùng tất cả anh em. Người muốn làm gì với chúng ta cũng được, nhưng đừng xua đuổi chúng ta.”
Rồi họ quì xuống và cúi mái đầu vàng trước chúng ta.
Chúng ta chưa bao giờ nghĩ đến việc đã làm lúc đó. Chúng ta cúi người đỡ Kim Nhân đứng dậy nhưng khi vừa chạm vào họ, chúng ta thấy như bị một sự điên rồ nhập vào vậy. Chúng ta ôm chặt cơ thể họ và ép môi mình vào môi họ. Kim Nhân thở ra một hơi, và hơi thở của họ là một tiếng rên rỉ, và cánh tay họ siết chặt lấy chúng ta.
Chúng ta đứng cùng nhau một lúc lâu. Và chúng ta sợ hãi vì đã sống hai mươi mốt năm mà chưa một lần nếm trải niềm vui sướng mà con người có thể trải nghiệm.
Rồi chúng ta nói:
“Người thương yêu nhất của chúng ta. Đừng sợ sệt gì khu rừng này cả. Không có gì nguy hiểm trong sự cô độc đâu. Chúng ta không cần đến các anh em. Hãy để chúng ta quên đi cái tốt của họ và cái xấu của chúng ta, để chúng ta quên đi mọi thứ ngoại trừ việc chúng ta đang bên nhau và rằng có một niềm vui như một mối dây liên kết giữa chúng ta. Đưa tay người cho chúng ta. Nhìn về phía trước. Đây là thế giới của riêng chúng ta, Kim Nhân, một thế giới lạ kì nhiều bí ẩn nhưng là của chúng ta.”
Rồi chúng ta đi tiếp vào sâu trong rừng, bàn tay họ trong bàn tay chúng ta.
Và đêm đó chúng ta biết rằng ôm ấp cơ thể một người phụ nữ trong vòng tay không xấu xí cũng chẳng đáng hổ thẹn mà chính là một sự cuồng hỉ được ban tặng cho giống đàn ông.
Chúng ta đã đi nhiều ngày. Khu rừng không có điểm dừng và chúng ta cũng không tìm kiếm điểm kết thúc. Nhưng mỗi ngày cộng thêm vào chuỗi này ngăn cách chúng ta và Thành Phố giống như một sự gia tăng phước lành vậy.
Chúng ta đã làm ra một cái cung và nhiều cung tên. Chúng ta có thể giết nhiều chim hơn là cần thiết cho lương thực; chúng ta tìm nước và trái cây trong rừng. Ban đêm, chúng ta chọn một khoảng đất trống và nhóm một vòng lửa xung quanh. Chúng ta ngủ ở giữa vòng lửa và những con thú hoang không dám tấn công chúng ta. Chúng ta có thể thấy mắt chúng, xanh lục và vàng khè như than, dõi theo chúng ta từ những nhánh cây phía xa. Ngọn lửa cháy âm ỉ như một cái vương miệng đá quí xung quanh chúng ta, và khói bốc lên tĩnh lặng trong không khí tạo thành những hàng cột xanh dương dưới ánh trăng. Chúng ta ngủ cùng nhau ở giữa vòng lửa, cánh tay Kim Nhân vòng qua người chúng ta và đầu họ tựa trên ngực chúng ta.
Một lúc nào đó chúng ta sẽ dừng lại và dựng một căn nhà, khi chúng ta đã đi đủ xa. Nhưng chúng ta không phải vội. Những ngày sắp đến là vô tận, cũng như khu rừng vô tận này vậy.
Chúng ta không thể hiểu nổi cuộc sống mới vừa tìm được này nhưng nó có vẻ thật rõ ràng, thật đơn giản. Khi những câu hỏi ập đến khiến chúng ta bối rối, chúng ta đi nhanh hơn, rồi quay lại và quên đi tất cả khi ngắm Kim Nhân đang nối gót theo sau. Bóng của những chiếc lá đổ trên cánh tay họ khi họ rẽ những nhánh cây nhưng hai vai họ thì ngập trong ánh nắng. Da trên cánh tay họ giống như một làn sương xanh nhưng hai vai họ trắng sáng như thể ánh sáng không phải rọi từ trên cao xuống mà tỏa ra từ dưới da họ. Chúng ta dõi theo chiếc lá vừa rơi lên vai họ, nó nằm đó nơi khóe vai, điểm một giọt sương lấp lánh như một viên ngọc quí. Họ tiến đến gần chúng ta và dừng lại, cười lớn, biết chúng ta đang nghĩ gì, và họ ngoan ngoãn chờ đợi, không tra hỏi, cho đến khi chúng ta xoay người lại và đi tiếp.
Chúng ta đi tiếp và chúng ta ban phước cho đất đai dưới chân mình. Nhưng những câu hỏi lại xuất hiện, khi chúng ta bước đi trong im lặng. Nếu thứ chúng ta tìm thấy là sự tha hóa của cô đơn thì con người còn có thể ước ao gì hơn ngoài sự tha hóa chứ? Nếu đây là sự xấu xa ghê gớm của việc sống một mình thì cái gì là tốt và cái gì là xấu mới được?
Mọi thứ đến từ số nhiều là tốt. Mọi thứ đến từ một cá nhân là xấu xa. Đây là điều chúng ta được dạy từ khi lọt lòng. Chúng ta đã phá luật nhưng chưa bao giờ nghi ngờ chân lý đó. Nhưng giờ đây, trong những giờ đi xuyên qua khu rừng, chúng ta đang học cách nghi ngờ.
Không có sự sống nào cho con người ngoại trừ trong lao động nhọc nhằn vì lợi ích của tất cả anh em. Nhưng chúng ta không thật sự sống khi lao động cực khổ vì các anh em, chúng ta chỉ mệt mỏi mà thôi. Không có niềm vui nào cho con người ngoại trừ niềm vui chia sẻ với tất cả anh em. Nhưng những điều duy nhất dạy cho chúng ta biết đến niềm vui là năng lượng chúng ta tạo ra trong những dây kim loại và Kim Nhân. Và cả hai niềm vui này thuộc về một mình chúng ta, chúng bắt nguồn từ một mình chúng ta, không liên quan gì đến các anh em và không ảnh hưởng gì đến họ. Cứ thế chúng ta ngẫm nghĩ.
Có một sai lầm, một sai lầm khủng khiếp nào đó, trong suy nghĩ của con người. Sai lầm đó là gì? Chúng ta không biết nhưng kiến thức tranh đấu bên trong chúng ta, tranh đấu để ra đời. Hôm nay, Kim Nhân dừng lại đột ngột và nói:
“Chúng ta yêu người.”
Nhưng họ chau mày, lắc đầu và nhìn chúng ta một cách bất lực.
“Không,” họ thì thầm, “đó không phải điều chúng ta muốn nói.”
Họ im lặng rồi lại từ tốn nói, những lời của họ ngập ngừng như những lời của một đứa trẻ học nói lần đầu:
“Chúng ta là một... một mình... và duy nhất... và chúng ta yêu người, một... một mình... và duy nhất.”
Chúng ta nhìn vào mắt nhau và biết rằng một hơi thở phép màu đã chạm khẽ vào mình rồi vụt biến mất, để lại chúng ta mò mẫm trong vô vọng.
Và chúng ta cảm thấy giận dữ, giận dữ vì một từ chúng ta không thể tìm ra.

Phần mười
Chúng ta đang ngồi ở bàn và đang viết những dòng này trên một trang giấy được tạo ra từ hàng ngàn năm trước. Ánh sáng lờ mờ và chúng ta không thể nhìn thấy Kim Nhân, chỉ thấy một lọn tóc vàng trên chiếc gối đặt trên một cái giường cổ xưa. Nơi này là nhà của chúng ta.
Chúng ta đến đây hôm nay, lúc bình minh. Trong nhiều ngày chúng ta đã vượt qua một dãy núi. Khu rừng vươn mình lên giữa những vách đá và hễ chúng ta bước ra một mảng đá trơ trọi, chúng ta lại thấy những đỉnh núi cao trải ra ngút tầm mắt về phía Tây và phía Bắc và phía Nam. Những đỉnh núi đỏ và nâu, với những vệt xanh của rừng cây như những mạch máu, với làn sương xanh như một tấm mạng che mặt. Chúng ta chưa bao giờ nghe đến những ngọn núi này hay thấy chúng được đánh dấu trên bất kì bản đồ nào. Vị Tri Sâm đã bảo vệ chúng khỏi các Thành Phố và con người của các Thành Phố.
Chúng ta trèo trên những lối mòn mà dê rừng cũng không dám lần theo. Những hòn đá bật ra dưới chân chúng ta và chúng ta nghe tiếng chúng va đập vào những tảng đá bên dưới, sâu thẳm bên dưới, và những ngọn núi lại rền vang với mỗi va chạm, vẫn tiếp tục vọng lại một lúc lâu sau khi tiếng va đập đã dứt. Nhưng chúng ta đi tiếp, vì biết rằng không ai có thể theo dấu hay tìm ra chúng ta ở đây.
Rồi hôm nay, vào bình minh, chúng ta thấy một vệt màu trắng giữa những thân cây, trên cao nơi đỉnh núi thẳng đứng trước mặt. Chúng ta nghĩ đó là lửa và dừng lại. Nhưng ngọn lửa này không chuyển động mà lại chói lóa như một thứ kim loại lỏng. Chúng ta leo qua những tảng đá về phía nó. Và ngay đó, trước mặt chúng ta, trên một đỉnh núi rộng bằng phẳng, với những ngọn núi vươn mình phía sau lưng, là một ngôi nhà loại chúng ta chưa từng thấy qua, và ngọn lửa trắng khi nãy hóa ra là xuất phát từ ánh mặt trời phản chiếu trên thủy tinh của những cửa sổ.
Ngôi nhà có hai tầng và một mái nhà kì lạ phẳng như sàn nhà. Những bức tường với tường thì ít mà cửa sổ thì nhiều, và những cửa sổ này uốn quanh những góc nhà không vấn đề gì, dù làm thế nào việc này có thể giữ ngôi nhà đứng vững được thì chúng ta không thể đoán ra. Những bức tường chắc chắn và trơn láng làm từ đá không giống với thứ đá chúng ta đã thấy trong đường hầm.
Chúng ta đều biết mà không cần nói ra lời: ngôi nhà này còn sót lại từ Thời Bất Khả Luận. Cây cối đã bảo vệ nó khỏi thời gian và khí hậu, khỏi những con người ít nhân từ hơn thời gian và khí hậu. Chúng ta quay sang Kim Nhân và hỏi:
“Người có sợ không?”
Nhưng họ lắc đầu. Vậy nên chúng ta tiến đến cửa, mở toang nó ra, và chúng ta cùng nhau bước vào ngôi nhà của Thời Bất Khả Luận.
Chúng ta sẽ cần đến những ngày và những năm tháng trước mắt để xem xét, học hỏi và thấu hiểu mọi thứ trong ngôi nhà này. Hôm nay, chúng ta chi có thể nhìn và cố tin vào mắt mình. Chúng ta kéo những tấm màn nặng nề khỏi cửa sổ và thấy rằng những căn phòng hơi nhỏ, và nghĩ rằng nhiều lắm là chục người có thể sống ở đây. Chúng ta lấy làm lạ vì con người đã từng được cho phép xây một căn nhà chỉ đủ chỗ cho chục người.
Chưa bao giờ chúng ta thấy những căn phòng tràn ngập ánh sáng đến vậy. Những tia nắng nhảy múa trên những vật dụng đầy màu sắc, nhiều màu sắc hơn chúng ta có thể tưởng tượng vì chúng ta trước giờ chỉ thấy qua những căn nhà trắng, nâu hay xám. Trên tường là những mảnh thủy tinh lớn nhưng không phải thủy tinh vì khi nhìn vào chúng, chúng ta thấy rõ cơ thể mình và tất cả mọi thứ phía sau, giống như trên một mặt hồ vậy. Có những món lạ lùng chúng ta chưa từng thấy và không biết công dụng của chúng là gì. Và những khối cầu thủy tinh có mặt khắp mơi, trong mỗi phòng, những khối cầu với lưới nhện kim loại bên trong giống như loại chúng ta đã thấy trong đường hầm.
Chúng ta tìm ra sảnh ngủ và đứng lại nơi ngưỡng cửa trong kinh ngạc. Vì nó là một căn phòng nhỏ chỉ có hai cái giường. Chúng ta không tìm thấy giường nào khác trong căn nhà, và lúc ấy chúng ta biết rằng chỉ có hai người từng sống ở đây, và điều này quả là vượt quá mọi sự hiểu biết. Thế giới của con người trong Thời Bất Khả Luận đã ra sao chứ?
Chúng ta tìm thấy quần áo và Kim Nhân phát ra một tiếng sửng sốt khi nhìn thấy chúng. Vì chúng không phải áo trắng rộng kiểu thầy tu hay áo choàng dài trắng mà có đủ màu sắc, không món nào giống món nào. Một vài món rã ra thành bụi ngay khi chúng ta chạm vào. Nhưng số khác được làm bởi chất vải dày hơn và chúng mang đến cảm giác mềm mại mới mẻ giữa những ngón tay của chúng ta.
Chúng ta tìm ra một căn phòng với những hàng kệ phủ kín tường, chất hàng dãy bản thảo từ sàn nhà đến tận trần. Chưa bao giờ chúng ta thấy nhiều bản thảo như vậy hay mang hình dáng kì lạ như vậy. Chúng không mềm và được cuộn lại mà có bìa cứng làm từ vải và da, những kí tự trên các trang giấy quá nhỏ và quá đều đến mức chúng ta phải thán phục những con người từng có chữ viết tay như vậy. Chúng ta liếc sơ qua các trang và thấy rằng chúng được viết bằng ngôn ngữ của chúng ta, nhưng chúng ta tìm thấy nhiều từ không thể hiểu được. Ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu đọc những ghi chép này.
Khi đã tham quan tất cả phòng trong nhà, chúng ta nhìn Kim Nhân, và cả hai chúng ta biết rõ suy nghĩ trong tâm trí của nhau.
“Chúng ta sẽ không bao giờ rời ngôi nhà này,” chúng ta nói, “hay để người khác chiếm nó. Đây là nhà chúng ta và là đích cuối của cuộc hành trình. Đây là nhà của người, Kim Nhân, và của chúng ta, và nó không thuộc về ai khác cho dù trái đất có rộng lớn bao la thế nào đi nữa. Chúng ta sẽ không chia sẻ nó với người khác, cũng như không chia sẻ niềm vui, tình yêu hay cơn đói của chúng ta. Sẽ như vậy cho đến ngày cuối đời chúng ta.”
“Lời người sẽ được nghe theo,” họ nói.
Rồi chúng ta ra ngoài gom củi cho lò sưởi lớn trong nhà chúng ta. Chúng ta mang nước về từ con suối len giữa những thân cây bên dưới cửa sổ. Chúng ta giết một con dê rừng và mang thịt của nó đi nấu trong một cái nồi đồng kì lạ ở một nơi đầy sự ngạc nhiên hẳn phải là phòng bếp của ngôi nhà.
Chúng ta làm công việc này một mình, vì không lời nào có thể lôi kéo Kim Nhân xa rời tấm thủy tinh lớn không phải thủy tinh ấy. Họ đứng trước nó và nhìn không rời mắt cơ thể của chính họ.
Khi mặt trời lặn dưới những ngọn núi, Kim Nhân gục ra ngủ trên sàn, giữa những đá quí, những chai lọ pha lê và những bông hoa lụa. Chúng ta nâng Kim Nhân lên trong cánh tay và mang họ vào giường, đầu họ tựa nhẹ vào vai chúng ta. Rồi chúng ta thắp nến và mang giấy tờ trong căn phòng bản thảo ra ngồi bên cửa sổ, vì chúng ta biết rằng không thể ngủ được đêm nay.
Và lúc này chúng ta ngắm nhìn mặt đất và bầu trời. Dải đá trọc này và những đỉnh núi và ánh trăng trông giống như một thế giới sẵn sàng ra đời, một thế giới đang chờ đợi. Chúng ta cảm thấy như nó cần một tín hiệu từ chúng ta, một tia chớp, một điều răn đầu tiên. Chúng ta không biết phải nói gi, cũng không biết đất đai này mong đợi chứng kiến kì công gì. Chúng ta chỉ biết nó đang chờ đợi. Dường như nó muốn bảo rằng có những món quà lớn đang chờ đợi chúng ta nhưng nó còn muốn ban tặng một món quà lớn lao hơn thế nữa. Chúng ta sẽ tuyên bố. Chúng ta sẽ là người quyết định mục đích, ý nghĩa tối cao của tất cả không gian rực rỡ của đá và bầu trời này.
Chúng ta nhìn về phía trước và van xin trái tim mình tiết lộ chỉ dẫn để đáp lại lời kêu gọi mà không phát ra thành tiếng nhưng chúng ta vẫn nghe được này. Chúng ta nhìn chằm chằm hai bàn tay mình. Chúng ta thấy bụi của hàng thế kỉ, lớp bụi che giấu những bí mật lớn lao và có lẽ cả những điều xấu xa ghê gớm. Thế nhưng nó không hề khuấy động trái tim chúng ta với sợ hãi mà chỉ có một sự kính trọng và thương xót trong lặng lẽ.
Cầu cho kiến thức đến với chúng ta! Điều bí mật mà trái tim chúng ta đã thấu hiểu nhưng không chịu tiết lộ ra, dù tim chúng ta đang đập như thể cố gắng truyền đạt cho chúng ta biết, điều bí mật này là gì chứ?

Phần mười một
Tôi tồn tại. Tôi suy nghĩ. Tôi chủ động.
Hai bàn tay tôi... Tinh thần tôi... Bầu trời của tôi... Khu rừng của tôi... Mặt đất này của tôi... Tôi còn phải nói gì thêm chứ? Chính những từ ngữ này. Chính câu trả lời này.
Tôi đứng đây trên đỉnh núi. Tôi ngẩng đầu lên và dang rộng cánh tay. Cơ thể tôi và tinh thần tôi, đây, đây chính là kết điểm của cuộc tìm kiếm. Tôi muốn biết ý nghĩa của sự vật. Tôi chính là ý nghĩa. Tôi muốn tìm ra một bảo chứng cho sự tồn tại. Tôi không cần bảo đảm để tồn tại, cũng không cần lời phê chuẩn nào cho sự tồn tại của mình. Tôi chính là sự đảm bảo và phê chuẩn.
Mắt tôi nhìn, và ánh nhìn của chúng ban tặng vẻ đẹp cho trái đất. Tai tôi lắng nghe, và sự lắng nghe của chúng mang lại giai điệu cho thế giới. Tâm trí tôi suy nghĩ, và những phát xét của tâm trí tôi là ngọn đèn pha duy nhất có thể tìm ra chân lí. Ý chí tôi lựa chọn, và sự lựa chọn của ý chí tôi là chỉ dụ duy nhất tôi phải tôn trọng.
Tôi đã được ban tặng nhiều từ ngữ, có từ thông thái, có từ giả dối, nhưng chỉ có ba từ là thần thánh: “Tôi chủ động!”
Cho dù tôi chọn đi con đường nào đi nữa thì ánh sao dẫn lối luôn tồn tại bên trong tôi; ánh sao chỉ lối và kim chỉ nam dẫn hướng. Chúng chỉ vào cùng một hướng. Chúng chỉ vào chính tôi.
Tôi không biết mảnh đất nơi tôi đang đứng đây là trung tâm của vũ trụ hay chẳng qua chỉ là một hạt bụi thất lạc trong vĩnh hằng. Tôi không biết và không quan tâm. Vì tôi biết mình có thể trải nghiệm hạnh phúc nào trên trái đất. Và hạnh phúc của tôi không cần một mục tiêu cao cả nào hơn để biện bạch. Hạnh phúc của tôi không phải là công cụ dẫn đến một kết quả nào đó. Nó là kết quả. Nó là mục đích của chính nó.
Bản thân tôi cũng không phải là công cụ dẫn đến một kết quả mà những người khác mong muốn đạt được. Tôi không phải là công cụ cho họ sử dụng. Tôi không phải kẻ phục dịch cho những nhu cầu của họ. Tôi không phải là cái gạc băng bó cho những vết thương của họ. Tôi không phải là vật hiến tế trên những bàn thờ của họ.
Tôi là một con người. Cái phép màu gọi là tôi thuộc về mình tôi nắm giữ và bảo vệ, mình tôi sử dụng, và dành cho mình tôi phủ phục!
Tôi sẽ không từ bỏ những kho báu của mình, cũng sẽ không chia sẻ chúng. Gia tài tinh thần của tôi không phải để bị nấu thành những xu đồng và ném vào trong gió như của bố thí cho những kẻ nghèo khó về tinh thần. Tôi canh giữ những kho báu của mình: suy nghĩ của tôi, ý chí của tôi, tự do của tôi. Và thứ quan trọng nhất trong số này chính là tự do.
Tôi không nợ gì các anh em, cũng không khiến họ mang nợ mình. Tôi không đòi hỏi ai sống vì mình, cũng không sống vì ai khác. Tôi không cải đạo tâm hồn bất kì ai, nhưng tâm hồn tôi cũng không thuộc về họ để mà thay đổi.
Tôi không phải bạn cũng không phải thù với các anh em mình, nhưng mỗi người trong số họ sẽ được đối xử xứng đáng. Để đạt được tình yêu của tôi, các anh em phải làm nhiều hơn là đơn giản được sinh ra đời. Tôi không ban phát tình thương mà không có lí do, cũng không để cho một người qua đường tình cờ nào tự tiện nhận lấy. Tôi vinh danh con người với tình yêu của mình. Nhưng danh dự là một thứ phải nỗ lực mới đạt được.
Tôi sẽ chọn bạn bè trong số con người, không phải nô lệ hay chủ nhân. Và tôi chỉ chọn những người hợp với mình, những người tôi sẽ yêu thương và tôn trọng nhưng không ra lệnh hay qui phục. Và chúng tôi sẽ nối tay nhau hay đi một mình, tùy theo ý muốn của chúng tôi. Vì trong điện thờ tâm linh của con người, tất cả chúng ta đều cô đơn. Hãy để mỗi người giữ điện thờ của mình an toàn và không bị ô uế. Rồi để anh ta nắm tay những người khác nếu muốn, nhưng chỉ đến bên ngoài giới hạn linh thiêng của anh ta mà thôi.
Vì từ “Chúng ta” không bao giờ nên được thốt ra ngoại trừ do lựa chọn và như một suy nghĩ phụ thêm. Cái từ này không nên chiếm vị trí ưu tiên trong tâm hồn một con người, nếu không nó sẽ trở thành một con quái vật, gốc rễ của tất cả sự xấu xa tội lỗi trên trái đất, gốc rễ của sự tra tấn mà con người bắt ép con người gánh chịu và gốc rễ của một lời dối trá ghê gớm không thể diễn tả được.
Từ “Chúng ta” giống như một đống vôi đổ lên con người, đông cứng lại thành đá và nghiền nát tất cả mọi thứ bên dưới, và tất cả trắng hay đen đều mất hút trong cái màu xám xịt của nó. Đây là từ giúp những kẻ suy đồi ăn cắp đức hạnh của người tốt, những kẻ yếu ăn cắp sức mạnh của kẻ mạnh, những kẻ ngu ngốc ăn cắp sự thông tuệ của những bậc hiền triết.
Tôi còn vui vẻ gì nữa nếu mọi bàn tay, thậm chí là những bàn tay không sạch sẽ, có thể xâm nhập chạm vào nó? Sự hiểu biết của tôi là gì chứ nếu thậm chí những kẻ ngu ngốc cũng có thể ra lệnh cho tôi? Tự do của tôi còn lại gì nếu tất cả mọi sinh vật, thậm chí những sinh vật chắp vá yếu ớt, lại là chủ nhân của tôi? Cuộc đời tôi còn lại gì nếu tôi luôn phải cúi đầu, đồng ý và tuân lệnh?
Nhưng tôi đã chịu đựng đủ cái đức tin suy đồi này rồi.
Tôi đã chịu đựng đủ con quái vật “Chúng ta,” cái từ của chế độ nông nô, của sự cướp bóc, của khổ sở, dối trá và hổ thẹn.
Và giờ đây tôi nhìn thấy mặt thần linh, và tôi nâng vị thần này lên trên mặt đất, vị thần mà con người đã tìm kiếm từ khi bắt đầu tồn tại, vị thần sẽ ban cho họ niềm vui, sự bình yên và sự kiêu hãnh.
Vị thần này, một từ này:
“Tôi.”

Phần mười hai
Tôi nhìn thấy từ “Tôi” trong khi đọc quyển đầu tiên trong số sách tôi tìm thấy trong nhà mình. Và khi tôi hiểu ra từ này, quyển sách rơi khỏi tay tôi, và tôi òa khóc, một “tôi” chưa bao giờ biết đến nước mắt. Tôi khóc trong sự giải thoát và trong sự ngậm ngùi cho cả nhân loại.
Tôi hiểu ra điều phước lành mà tôi đã gọi là lời nguyền của mình. Tôi hiểu ra tại sao những gì tốt đẹp nhất trong tôi là tội lỗi và sai trái, tại sao tôi chưa bao giờ thấy hối lỗi vì những vi phạm của mình. Tôi hiểu ra rằng hàng thế kỉ của xiềng xích và đòn roi sẽ không thể giết chết được tinh thần của con người hay nhận thức chân lí bên trong họ.
Tôi đọc nhiều sách trong nhiều ngày. Rồi tôi gọi Kim Nhân và thuật lại cho nàng những gì mình đã đọc, đã học được. Nàng nhìn tôi và những từ đầu tiên nàng thốt ra là:
“Tôi yêu chàng.”
Rồi tôi nói:
“Người thương yêu nhất của tôi, con người mà không có tên thì thật không đúng. Đã có thời mỗi cá nhân mang một tên riêng để phân biệt người này với người khác. Vậy nên chúng ta hãy chọn tên cho mình đi. Tôi đã đọc về một người đàn ông sống hàng ngàn năm trước và trong số tất cả tên gọi trong các quyển sách, tên ông ta là cái tên tôi muốn gắn cho mình. Ông ta lấy cắp ánh sáng từ các vị thần và mang nó đến cho con người, và dạy con người cách trở thành những vị thần. Và vì công trạng này mà ông ta phải chịu trừng phạt, cũng giống như tất cả những người mang ánh sáng phải chịu trừng phạt vậy. Tên ông ta là Prometheus.”
“Đó sẽ là tên chàng,” Kim Nhân nói.
“Và tôi đã đọc về một nữ thần,” tôi nói, “người là mẹ của trái đất và mọi vị thần. Tên bà là Gaea. Hãy để đây là tên nàng, Kim Nhân của tôi, vì nàng sẽ là mẹ của một giống loài thần linh mới.”
“Đó sẽ là tên tôi,” Kim Nhân nói.
Rồi tôi nhìn về phía trước. Tương lai tôi hiện ra rõ ràng trước mắt. Vị Thánh giàn thiêu đã nhìn thấy trước tương lai khi ông ta chọn tôi làm người thừa tự, người thừa tự của tất cả các vị thánh và liệt sĩ đi trước đã bỏ mạng vì cùng một động cơ, cùng một từ, bất kể họ đã đặt tên gì cho động cơ và chân lí của mình.
Tôi sẽ sống ở đây, trong ngôi nhà của chính mình. Tôi sẽ thu hoạch lương thực từ đất đai bằng sự lao động cần cù của hai bàn tay mình. Tôi sẽ học hỏi nhiều bí mật trong những quyển sách của mình. Trong những năm trước mắt, tôi sẽ tái tạo những thành tựu của quá khứ và mở ra phương cách mang chúng đi xa hơn, những thành tựu rộng mở với tôi nhưng khép kín với các anh em tôi, vì tâm trí họ bị xiềng xích chung với những tâm trí yếu đuối và ngu muội nhất.
Tôi đã học được rằng năng lượng bầu trời của tôi đã được con người biết đến từ lâu; họ gọi nó là Điện. Đó là năng lượng thúc đẩy những phát minh vĩ đại nhất của họ. Nó thắp sáng ngôi nhà này với ánh sáng phát ra từ những quả cầu thủy tinh trên tường. Tôi đã tìm ra động cơ vận hành sản xuất ra ánh sáng này. Tôi sẽ học cách sửa chữa nó và khiến nó hoạt động trở lại. Tôi sẽ học cách dùng những dây kim loại truyền dẫn năng lượng này. Rồi tôi sẽ tạo ra một hàng rào dây quanh nhà mình, ngang qua những lối mòn dẫn đến nhà mình, một hàng rào ánh sáng như một lưới nhện, khó xuyên thủng hơn cả một bước tường đá hoa cương, một hàng rào mà các anh em tôi sẽ không bao giờ có thể vượt qua. Vì họ không có gì khác để chiến đấu chống lại tôi ngoại trừ vũ lực số đông. Tôi đã quyết định rồi.
Và rồi ở đây, trên đỉnh núi này, với thế giới dưới chân tôi và không có gì vượt qua tôi ngoại trừ mặt trời, tôi sẽ sống với chân lí của mình. Gaea đang mang thai con của chúng tôi. Con trai chúng tôi sẽ được nuôi dạy như một con người. Nó sẽ được dạy nói “Tôi” và mang theo sự kiêu hãnh của từ đó. Nó sẽ được dạy cách đi thẳng trên chính đôi chân mình. Nó sẽ được dạy cách kính trọng tinh thần của chính nó.
Một khi tôi đọc xong tất cả sách và học được con đường mới của mình, khi nhà tôi sẵn sàng và đất đai của tôi được cày xới, tôi sẽ lẩn vào cái Thành Phố bị nguyền rủa nơi tôi sinh ra một lần cuối cùng. Tôi sẽ kêu gọi người bạn mình, người chỉ được biết đến với tên Quốc Tế 4-8818, và tất cả những người giống anh ta, Học Hữu 2-5503, người thường bỗng dưng bật khóc, và Đoàn Kết 9-6347, người từng kêu cứu trong đêm, cùng một vài người khác. Tôi sẽ kêu gọi tất cả đàn ông và phụ nữ với tinh thần chưa bị bóp chết hẳn và đang phải chịu ách thống trị của các anh em họ. Và ở đây, trong vùng hoang dã chưa ai khám phá, tôi và họ, những người bạn tôi lựa chọn, những đồng minh xây dựng, sẽ viết nên chương đầu tiên trong lịch sử mới của con người.
Đây là những việc trong tương lai. Và khi tôi đứng đây nơi cánh cửa huy hoàng, tôi nhìn lại sau lưng lần cuối. Tôi nhìn ngắm lịch sử nhân loại mà mình đã học được từ những quyển sách và tự hỏi. Đó là một câu chuyện dài, và tinh thần thúc đẩy nó là tinh thần của sự tự do của con người. Nhưng tự do là gì? Tự do khỏi thứ gì? Không gì có thể tước đi tự do của một người ngoại trừ những người khác. Để tự do, một người phải tự do khỏi các anh em của họ. Đó là tự do. Chỉ vậy thôi.
Ban đầu con người bị các vị thần biến thành nô lệ. Nhưng anh ta phá tan xiềng xích của họ. Rồi anh ta bị các vị vua biến thành nô lệ. Nhưng anh ta lại phá tan xiềng xích của họ. Anh ta trở thành nô lệ của xuất thân, gia quyến, của chủng tộc của mình. Nhưng anh ta cũng phá tan xiềng xích của chúng lần nữa. Anh ta tuyên bố với tất cả anh em rằng con người có những quyền mà không vị thần hay vị vua hay những người nào khác có thể tước đi, bất kể số lượng họ đông đảo ra sao, vì quyền của anh ta là quyền con người, và không có quyền nào vượt qua quyền này trên trái đất. Và anh ta đứng ở ngưỡng tự do, sự tự do mà máu của hàng thế kỉ trong quá khứ đã phải đổ xuống mới giành được.
Nhưng rồi anh ta từ bỏ mọi thành quả thắng lợi và lún xuống thấp hơn cả cái khởi nguồn man rợ.
Điều gì đã khiến sự việc trở nên như vậy? Thảm họa nào đã tước đi lí trí từ con người? Ngọn roi nào đã quất xuống khiến họ quì gối phục tùng và hổ thẹn? Chính là sự thờ phụng từ “Chúng ta.”
Khi con người chấp nhận việc thờ phụng đó, cấu trúc của hàng thế kỉ sụp đổ quanh họ, cái cấu trúc mà mỗi thanh xà bắt nguồn từ suy nghĩ của một cá nhân nào đó, mỗi cá nhân trong một thời riêng suốt chiều dài lịch sử, bắt nguồn từ chiều sâu trong tâm hồn ai đó, những tâm hồn chỉ tồn tại cho chính bản thân chúng. Những người sống sót thoát khỏi ham muốn tuân phục, ham muốn sống vì người khác, vì họ không có gì khác để bào chữa cho những ham muốn này – những người đó không thể tiếp tục tiến lên hay bảo tồn những thứ họ đã nhận được. Vậy nên tất cả suy nghĩ, tất cả khoa học, tất cả kiến thức đều tàn lụi trên trái đất. Bởi thế những người không có gì khác để dâng tặng ngoại trừ số lượng đã để mất đi những tòa tháp bằng sắt thép, những con tàu bay, những dây năng lượng, và tất cả những thứ họ đã không tạo ra và không bao giờ giữ được. Có lẽ sau này, một vài người đã sinh ra với đầu óc và can đảm để hồi phục những thứ bị mất, có lẽ những người này đã đến trước mặt những Hội Đồng Học Giả. Họ có lẽ đã nhận được cùng câu trả lời tôi nhận được, cùng những lí do tôi nhận được.
Nhưng tôi vẫn tự hỏi làm sao trong những năm chuyển giao hủ bại xa xưa con người đã không nhận ra cái đích họ đang hướng đến và vẫn tiếp tục đâm đầu vào số phận của mình một cách mù lòa và hèn nhát. Tôi tự hỏi, vì khó mà hiểu được làm thế nào mà những người từng biết đến từ “Tôi” có thể từ bỏ nó mà không nhận thức được họ đã đánh mất gì. Nhưng đó là cách câu chuyện diễn ra, vì tôi đã từng sống trong Thành Phố của những kẻ bị nguyền rủa và hiểu rõ những nỗi kinh hoàng mà con người cho phép áp đặt lên chính họ.
Có lẽ trong những ngày đó đã có một ít người với tầm nhìn rõ ràng và tâm hồn trong sạch đã từ chối từ bỏ từ đó. Còn nỗi thống khổ nào hơn dành cho họ khi nhìn thấy những gì sắp xảy ra mà không thể làm gì để ngăn chặn chúng! Có lẽ họ đã kêu vang trong phản kháng và phát ra những lời cảnh báo. Nhưng con người không mảy may để tâm đến lời cảnh báo của họ. Và số ít người này chiến đấu một cuộc chiến vô vọng, bỏ mạng dưới những ngọn cờ dấy máu họ. Và họ lựa chọn cách bỏ mình vì họ biết. Tôi xin gửi đến họ, xuyên qua hàng thế kỉ, một lời chào trân trọng và cả sự thương cảm của tôi dành cho họ.
Những ngọn cờ của họ là ngọn cờ trong tay tôi. Và tôi ước gì mình có năng lực để nói với họ rằng những tuyệt vọng trong tim họ không phải là kết cục, rằng đêm tối của họ không hẳn là không còn hi vọng. Vì cuộc chiến họ đã thua không thể thua mãi được. Vì những thứ họ hi sinh để cứu lấy là không bao giờ biến mất hoàn toàn. Trải qua tất cả bóng tối, trải qua tất cả những nỗi tủi hổ mà con người có thể chịu đựng, tinh thần con người sẽ sống mãi trên trái đất này. Nó có thể ngủ thiếp đi nhưng rồi sẽ vùng tỉnh dậy. Nó có thể mang xiềng xích nhưng nó sẽ bứt phá thoát ra. Và con người sẽ đi tiếp. Mỗi con người, theo nghĩa số ít, không phải loài người số nhiều.
Trên đỉnh núi này, tôi và các con trai mình và những người bạn tôi lựa chọn sẽ xây dựng một vùng đất mới với pháo đài của chúng tôi. Và nó sẽ trở thành trái tim của trái đất, ban đầu thất lạc và bị giấu kín, nhưng vẫn đập nhịp nhàng, tiếng đập mỗi ngày một lớn. Và tin đồn về nó sẽ vươn tới mọi ngóc ngách của trái đất. Và những con đường trên thế giới sẽ trở thành những mạch máu truyền dẫn dòng máu tốt nhất trên thế giới đến ngưỡng cửa nhà tôi. Và tất cả anh em, những Hội Đồng của các anh em sẽ nghe về nó, nhưng họ sẽ bất lực trước tôi. Và một ngày sẽ đến khi tôi phá vỡ mọi xiềng xích trên trái đất và san bằng những thành phố, giải phóng những công dân nô lệ, và nhà tôi sẽ trở thành thủ đô của một thế giới nơi mà mỗi người được quyền tự do tồn tại cho bản thân mình.
Vì ngày đó tôi sẽ chiến đấu, tôi và các con trai mình và những người bạn tôi lựa chọn. Vì tự do của Con Người. Vì quyền lợi của anh ta. Vì cuộc sống của anh ta. Vì danh dự của anh ta.
Và nơi đây, trên cánh cổng pháo đài của mình, tôi sẽ khắc lên mặt đá cái từ sẽ trở thành đèn hiệu và biểu ngữ của tôi. Cái từ không thể chết ngay cả khi tất cả chúng ta đã bỏ mình trên chiến trường. Cái từ không bao giờ có thể chết đi trên trái đất này, vì nó là trái tim và ý nghĩa và vinh quang của trái đất.
Cái từ thiêng liêng bất khả xâm phạm:
BẢN NGÃ.

- HẾT -