Ayn Rand (1905-1982) một nhà văn và triết gia Mỹ gốc Nga. Bà được biết đến với hai tác phẩm tiêu biểu Suối Nguồn (The Fountainhead) (1943, đã được NXB Trẻ dịch và xuất bản) và Atlas Nhún Vai (Atlas Shrugged) (1957). Ngoài thành tựu văn học, bà còn là người xây dựng hệ thống tư tưởng mang tên Chủ Nghĩa Khách Quan (Objectivism), một hệ thống tư tưởng được lồng ghép xuyên suốt các tác phẩm của bà, kể cả những sáng tác ít được biết đến như Anthem.
Bài Hát Ngợi Ca là một truyền vừa thuộc thể loại phản thiên đường (dystopia), viết năm 1937 và được xuất bản lần đầu ở Anh năm 1938. Truyện lấy bối cảnh tương lai bất định, khi loài người bước vào một Kỉ Đen Tối mới. Phát triển khoa học được lên kế hoạch kĩ càng và khái niệm cá nhân đã bị xóa sổ. Một thanh niên hai mươi mốt tuổi có tên Bình Đẳng 7-2521 tin rằng anh ta phải gánh chịu một lời nguyền vì luôn có những suy nghĩ khác biệt với các anh em mình. Sau khi phá vỡ nhiều luật lệ của xã hội, bao gồm việc bí mật nghiên cứu khoa học và tự do tìm kiếm tình yêu, Bình Đẳng 7-2521 cùng người yêu Tự Do 5-3000 của mình định cư trong một ngôi nhà trong rừng sâu, xa rời thành phố cũng những ràng buộc khắt khe của nó. Tại đây, họ cùng nhau lên kế hoạch thiết lập một xã hội mới dựa trên tư tưởng cá nhân họ vừa tìm lại được.

Phần 1
Viết ra điều này là một tội lỗi. Đó là một tội lỗi khi suy nghĩ những câu chữ không ai khác nghĩ đến và viết chúng xuống một trang giấy mà không ai khác sẽ đọc. Nó hạ tiện và xấu xa. Nó giống như chúng ta không nói cho ai nghe mà nói cho chính mình vậy. Và chúng ta biết rõ rằng không có vi phạm nào đen tối hơn việc hành động hay suy nghĩ một mình. Chúng ta đã phá luật. Luật nói rằng con người không thể viết trừ khi Hội Đồng Nghề Nghiệp yêu cầu. Cầu cho chúng ta được tha thứ!
Nhưng đây không phải tội lỗi duy nhất của chúng ta. Chúng ta đã phạm một tội ghê gớm hơn, và không có tên gọi nào dành cho tội này cả. Chúng ta không biết hình phạt nào đang chờ đợi nếu bị phát hiện, bởi vì tội này không tồn tại trong kí ức loài người và không có luật nào để xử nó cả.
Nơi đây tăm tối. Ánh nến đứng lặng trong không khí. Không có gì di chuyển trong đường hầm này ngoại trừ bàn tay của chúng ta lướt trên giấy. Chúng ta một mình nơi đây dưới lòng đất. Đó là một từ ghê sợ, một mình. Luật nói rằng không người nào được phép một mình, bất kể vào thời gian nào, vì đây là một sự vi phạm nghiêm trọng và là nguồn gốc của mọi xấu xa. Nhưng chúng ta đã phá vỡ rất nhiều luật. Và giờ đây không có gì khác ngoài cơ thể chúng ta, và thật lạ lùng khi chỉ nhìn thấy hai cẳng chân duỗi ra trên mặt đất, và trên bức tường trước mặt bóng của duy nhất một cái đầu.
Những bức tường nứt nẻ với những dòng nước mảnh chảy xuống không phát ra tiếng động, đen và lấp lánh như máu. Chúng ta đã lấy trộm nến trong chạn của Nhà của Phu Quét Đường. Chúng ta sẽ bị kết án mười năm trong Điện Giam Cải Tạo nếu việc này bị phát hiện. Nhưng không có gì quan trọng. Điều quan trọng duy nhất và cũng là tội của chúng ta chính là sự quí giá của ánh sáng và chúng ta không nên phung phí nó để viết lách trong khi cần nó hơn để làm việc. Không có gì quan trọng ngoài công việc, cái công việc bí mật, xấu xa và đáng quí trọng của chúng ta. Tuy vậy, chúng ta vẫn phải viết, cầu Hội Đồng rủ lòng thương xót, vì chúng ta mong muốn nói ra một lần cho chính mình chứ không cho ai khác.
Tên chúng ta là Bình Đẳng 7-2521, như viết trên cái vòng sắt mà mọi người đeo trên cổ tay trái với tên của họ. Chúng ta hai mươi mốt tuổi. Chúng ta cao một mét tám và đây là một gánh nặng vì không có nhiều người cao một mét tám. Những Giáo Viên và Lãnh Đạo vẫn thường chỉ vào chúng ta và bảo:
“Trong xương người có sự xấu xa, Bình Đẳng 7-2521, vì cơ thể người đã phát triển vượt quá cơ thể anh em người.” Nhưng chúng ta không thể thay đổi xương hay cơ thể mình.
Chúng ta sinh ra với một lời nguyền. Nó vẫn luôn đưa đẩy chúng ta đến với những suy nghĩ bị cấm đoán. Nó luôn mang lại cho chúng ta những ao ước mà con người đáng ra không được ao ước. Chúng ta biết mình xấu xa, nhưng trong chúng ta không có ý chí hay sức mạnh để kháng cự nó. Việc chúng ta biết mà không kháng cự là một điều kì diệu và một nỗi sợ bí mật của chúng ta.
Chúng ta cố gắng để giống với tất cả anh em con người, vì tất cả con người phải giống nhau. Trên cánh cổng của Điện Hội Đồng Thế Giới là những chữ khắc trên đá hoa cương, những chữ mà chúng ta tự lặp đi lặp lại mỗi khi bị cám dỗ:
CHÚNG TA LÀ MỘT TRONG TẤT CẢ VÀ TẤT CẢ TRONG MỘT.
KHÔNG CÓ CON NGƯỜI MÀ CHỈ CÓ CHÚNG TA VĨ ĐẠI,
LÀ MỘT, KHÔNG THỂ CHIA CẮT VÀ VĨNH CỬU.
Chúng ta tự lặp lại nhưng nó không giúp ích gì.
Những chữ này được khắc đã lâu. Trong những đường hằn của các kí tự là mốc xanh và những vệt vàng vấy ố đá hoa cương, tảng đá đã tồn tại từ rất lâu, vượt qua khả năng đo đếm của con người. Và những từ này là chân lí, vì chúng được viết trên Điện Hội Đồng Thế Giới, và Hội Đồng Thế Giới là cơ quan của tất cả chân lí. Nó đã như vậy suốt kể từ Cuộc Tái Sinh Vĩ Đại và xa xưa hơn thế nữa, đến mức không kí ức nào với tới được.
Nhưng chúng ta không bao giờ được nói về những năm tháng trước Cuộc Tái Sinh Vĩ Đại, không thì chúng ta sẽ bị kết án ba năm trong Điện Giam Cải Tạo. Chỉ có những Kẻ Cũ là còn thì thầm về điều này vào buổi tối, trong Nhà của Những Kẻ Vô Dụng. Họ thì thầm nhiều điều lạ lùng, về những ngọn tháp vươn lên trời cao, vào Thời Bất Khả Luận, về những cỗ xe chuyển động không cần ngựa, và về ánh sáng cháy không cần lửa. Nhưng đó là những năm tháng xấu xa. Và những năm tháng đó đã qua đi, khi con người nhìn nhận ra Chân Lí Vĩ Đại như sau: rằng tất cả con người là một và rằng ý chí không tồn tại, ngoại trừ ý chí của tất cả con người.
Mọi người đều tốt đẹp và thông thái. Chỉ có chúng ta, Bình Đẳng 7-2521, riêng một mình chúng ta là sinh ra với một lời nguyền. Vì chúng ta không giống anh em mình. Và khi chúng ta nhìn lại quãng đời đã qua, chúng ta nhận thấy rằng mình chưa bao giờ giống mọi người và nó đã từng bước dẫn chúng ta đến sự vi phạm tối cao cuối cùng này, một tội ác của những tội ác được chôn giấu dưới lòng đất.
Chúng ta nhớ rõ Nhà của Trẻ Thơ nơi chúng ta đã sống đến khi năm tuổi, cùng với tất cả trẻ em của Thành Phố được sinh ra cùng một năm. Những sảnh ngủ ở đó trắng và sạch và trống trơn ngoại trừ một trăm cái giường. Khi đó chúng ta giống anh em mình, trừ một vi phạm: chúng ta đánh nhau với anh em mình. Không có nhiều tội lỗi bị coi là đen tối hơn đánh nhau với anh em, ở bất kì lứa tuổi nào và vì bất kì lí do gì. Hội Đồng Nhà bảo chúng ta, và trong số bọn trẻ năm đó, chúng ta bị giam vào hầm thường xuyên nhất.
Đến năm tuổi, chúng ta được chuyển đến Nhà của Học Sinh, nơi có mười phân khu dành cho mười năm học tập. Con người phải học cho đến khi mười lăm tuổi. Sau đó thì họ bắt đầu làm việc. Trong Nhà của Học Sinh chúng ta tỉnh giấc khi cái chuông lớn ngân vang trong ngọn tháp và chúng ta vào giường ngủ khi nó ngân vang lần nữa. Trước khi cởi bỏ quần áo, chúng ta đứng trong sảnh ngủ rộng lớn, giơ cánh tay phải lên, và chúng ta nói theo ba Giáo Viên:
“Chúng ta không là gì cả. Nhân loại là tất cả. Nhờ ơn phước của các anh em mà chúng ta có được cuộc sống. Chúng ta tồn tại thông qua, bởi và vì các anh em cũng chính là Quốc Gia. Amen.”
Rồi chúng ta ngủ. Các sảnh ngủ trắng và sạch và trống trơn ngoại trừ một trăm cái giường.
Chúng ta, Bình Đẳng 7-2521, đã không hề hạnh phúc trong những năm ở Nhà của Học Sinh. Không phải là vì việc học quá khó đối với chúng ta. Chính là vì việc học quá dễ. Đây là một tội lớn, sinh ra với một trí óc quá nhanh nhạy. Khác biệt với các anh em là không tốt, nhưng giỏi hơn họ là một sự xấu xa. Các Giáo Viên bảo chúng ta, và họ cau mày khó chịu khi nhìn chúng ta.
Vậy nên chúng ta chiến đấu chống lại lời nguyền này. Chúng ta cố gắng quên đi bài học, nhưng chúng ta vẫn luôn ghi nhớ. Chúng ta cố không hiểu những điều các Giáo Viên giảng, nhưng chúng ta luôn hiểu chúng trước cả khi các Giáo Viên mở miệng. Chúng ta ngưỡng mộ Liên Hợp 5-3992, một cậu trai nhợt nhạt chỉ có phân nửa bộ não, và chúng ta cố nói và hành động giống họ, rằng có lẽ chúng ta sẽ trở nên như họ, như Liên Hợp 5-3992, nhưng bằng cách nào đó các Giác Viên biết rằng sự thật không phải vậy. Và chúng ta nhận lãnh đòn roi thường xuyên hơn tất cả bọn trẻ khác.
Các Giáo Viên rất công bằng, vì họ được phân công bởi các Hội Đồng, mà các Hội Đồng là tiếng nói của chính nghĩa, vì họ là tiếng nói của mọi người. Và nếu đôi lúc trong sự đen tối bí ẩn của trái tim, chúng ta hối hận về những gì ập đến với mình vào sinh nhật mười lăm tuổi, chúng ta biết rằng tất cả là do tội lỗi của chính bản thân. Chúng ta đã phạm luật, vì đã không chú ý đến lời nói của các Giáo Viên. Các Giáo Viên đã bảo tất cả chúng ta rằng:
“Đừng cả gan lựa chọn trong suy nghĩ về công việc mà các người sẽ làm khi rời khỏi Nhà của Học Sinh. Các người sẽ làm việc mà Hội Đồng Nghề Nghiệp chỉ định cho các người. Vì Hội Đồng Nghề Nghiệp vô cùng tinh thông về vấn đề nơi chốn mà các anh em cần đến các người, tinh thông hơn các người có thể với đầu óc nhỏ bé vô giá trị của mình. Và nếu các anh em không cần đến các người thì không có lí do gì để các người trở thành gánh nặng cho trái đất với thân thể mình.”
Chúng ta hiểu rõ điều này trong những năm tháng thơ ấu, nhưng lời nguyền phá vỡ ý chí của chúng ta. Chúng ta mang tội và thú nhận ở đây: đó là Lỗi Thiên Vị. Chúng ta thiên vị một số công việc và bài giảng hơn số còn lại. Chúng ta không lắng nghe chăm chú về lịch sử của tất cả các Hội Đồng được bầu từ sau Cuộc Tái Sinh Vĩ Đại. Nhưng chúng ta lại yêu thích Khoa Học Vạn Vật. Chúng ta muốn hiểu biết. Chúng ta muốn biết về tất cả mọi thứ tạo ra trái đất quanh chúng ta. Chúng ta hỏi quá nhiều câu hỏi và các Giáo Viên ngăn cấm việc đó.
Chúng ta nghĩ rằng có nhiều điều bí ẩn trên bầu trời và dưới mặt nước và trong cây cỏ vươn mình lớn lên. Nhưng Hội Đồng Học Giả đã nói rằng không có bí ẩn gì cả, và Hội Đồng Học Giả thì biết mọi thứ. Và chúng ta học hỏi từ các Giáo Viên. Chúng ta được dạy rằng trái đất phẳng và mặt trời chuyển động quanh nó, tạo ra ngày và đêm. Chúng ta được dạy tên gọi của tất cả những ngọn gió thổi trên mặt biển và đẩy cánh buồm của những con tàu vĩ đại. Chúng ta được dạy chiết máu để cứu chữa con người khỏi mọi bệnh tật.
Chúng ta yêu Khoa Học Vạn Vật. Và trong bóng tối, trong những giờ phút riêng tư, khi chúng ta thức giấc trong đêm và xung quanh không có anh em nào mà chỉ có hình dáng họ trên giường và những tiếng ngáy của họ, chúng ta nhắm mắt, và chúng ta mím chặt môi, và chúng ta nín thở để không sự rung động nào có thể khiến các anh em thấy hay nghe hay đoán, và chúng ta nghĩ rằng chúng ta ước rằng sẽ được gửi đến Nhà của Học Giả khi đến thời điểm.
Tất cả những phát minh hiện đại quan trọng đều đến từ Nhà của Học Giả, chẳng hạn như mới đây nhất, chỉ một trăm năm trước thôi, cách làm nến từ sáp và dây nến, cũng như cách tạo ra thủy tinh để đặt trong cửa sổ và bảo vệ chúng ta khỏi mưa gió. Để tìm ra những thứ này, các Học Giả phải nghiên cứu trái đất và học hỏi từ các dòng sông, từ cát, từ gió và đá. Và nếu chúng ta vào Nhà của Học Giả thì chúng ta cũng có thể học hỏi từ chúng. Chúng ta có thể hỏi han về chúng, vì ở đó họ không ngăn cấm các câu hỏi.
Và những câu hỏi không để cho chúng ta yên. Chúng ta không biết tại sao lời nguyền cứ liên tục thôi thúc chúng ta tìm kiếm thứ mình không biết là gì. Nhưng chúng ta không thể kháng cự lại. Nó thì thầm vào tai chúng ta rằng có rất nhiều điều tuyệt diệu trên trái đất này, và rằng chúng ta chỉ có thể biết nếu chịu cố gắng, và rằng chúng ta phải hiểu biết chúng. Nhưng tại sao phải biết, chúng ta hỏi, nhưng nó không đưa ra câu trả lời nào. Chúng ta phải biết rằng chúng ta có thể biết.
Vậy nên chúng ta ước được chuyển đến Nhà của Học Giả. Chúng ta ao ước mãnh liệt đến mức bàn tay run rẩy dưới tấm chăn vào ban đêm, và chúng ta cắn vào cánh tay mình để chấm dứt sự đau đớn tinh thần mà chúng ta không thể chịu đựng. Nó thật xấu xa và chúng ta không có can đảm đối diện với các anh em vào buổi sáng. Vì con người không được ước gì cho bản thân cả. Và chúng ta đã bị trừng phạt khi Hội Đồng Nghề Nghiệp đến trao những Trát Lệnh cuộc đời cho những người đến tuổi mười lăm, chỉ ra công việc họ sẽ làm cho đến cuối đời.
Hội Đồng Nghề Nghiệp đến vào ngày đầu tiên của mùa xuân, và họ ngồi trong đại sảnh. Và chúng ta những kẻ mười lăm tuổi và tất cả Giáo Viên đi vào đại sảnh. Hội Đồng Nghề Nghiệp ngồi trên một cái bục cao, và họ chỉ thốt ra hai từ dành cho mỗi Học Sinh. Họ gọi tên các Học Sinh, và khi các Học Sinh bước lên trước mặt họ, hết người này đến người kia, Hội Đồng sẽ nói: “Thợ Mộc” hay “Bác Sĩ” hay “Đầu Bếp” hay “Lãnh Đạo.” Rồi mỗi Học Sinh giơ cánh tay phải lên và nói: “Nguyện vọng của các anh em sẽ được hoàn thành.”
Nếu Hội Nghị nói “Thợ Mộc” hay “Đầu Bếp,” các Học Sinh được phân loại bắt đầu làm việc ngay và không học thêm nữa. Nhưng nếu Hội Đồng nói “Lãnh Đạo” thì những Học Sinh đó sẽ vào Nhà của Lãnh Đạo, ngôi nhà vĩ đại nhất trong Thành Phố, vì nó có ba tầng. Và ở đó họ học tập trong nhiều năm để trở thành ứng viên và được lựa chọn vào Hội Đồng Thành Phố và Hội Đồng Quốc Gia và Hội Đồng Thế Giới thông qua một cuộc bầu cử phổ thông tự do mà tất cả mọi người tham gia. Nhưng chúng ta không mong ước trở thành Lãnh Đạo, dù đó là một vinh dự lớn lao. Chúng ta ước ao trở thành Học Giả.
Chúng ta chờ đến lượt mình trong đại sảnh và rồi chúng ta nghe Hội Đồng Nghề Nghiệp gọi tên mình: “Bình Đẳng 7-2521.” Chúng ta tiến về phía bục, chân không run rẩy, và chúng ta nhìn lên Hội Đồng. Có năm thành viên Hội Đồng, ba người nam và hai người nữ. Tóc họ bạc trắng và khuôn mặt họ nứt nẻ như đất sét của một đáy sông khô cằn. Họ già. Họ trông còn già cỗi hơn cả tảng đá hoa cương ở Đền Hội Đồng Thế Giới. Họ ngồi trước chúng ta và không động đậy. Và chúng ta không nhận thấy bất kì hơi thở nào khuấy động những nếp gấp trên chiếc áo choàng trắng của họ. Nhưng chúng ta biết họ vẫn còn sống, vì vị cao tuổi nhất nhấc bàn tay lên, chỉ ngón tay vào chúng ta và rồi hạ tay xuống. Đây là thứ duy nhất dịch chuyển, vì môi của vị cao tuổi nhất này không động đậy khi họ nói “Phu Quét Đường.”
Chúng ta cảm thấy mạch máu cổ mình siết chặt lại khi ngẩng đầu lên nhìn vào khuôn mặt của các thành viên Hội Đồng, và chúng ta hạnh phúc. Chúng ta biết đã phạm tội, nhưng giờ đây chúng ta đã có cách để chuộc tội. Chúng ta sẽ nhận Trát Lệnh Cuộc Đời và sẽ vui vẻ tự nguyện lao động cho các anh em và dùng cách đó để chuộc lại tội lỗi của mình, một tội lỗi họ không biết đến nhưng chúng ta biết. Vậy nên chúng ta hạnh phúc và tự hào vì đã chiến thắng chính mình. Chúng ta nhấc cánh tay phải lên và nói, giọng chúng ta rõ ràng, vững chãi nhất trong đại sảnh hôm đó:
“Nguyện vọng của các anh em sẽ được hoàn thành.”
Và chúng ta nhìn thẳng vào mắt Hội Đồng, nhưng mắt họ trông như những cái nút áo bằng thủy tinh xanh trong lạnh lẽo.
Chúng ta vào Nhà của Phu Quét Đường. Đó là một căn nhà xám xịt trong một hẻm nhỏ. Giữa sân là một đồng hồ mặt trời mà Hội Đồng Nhà dùng để xem giờ và biết khi nào thì rung chuông. Khi tiếng chuông vang lên, chúng ta nhỏm dậy khỏi giường. Bầu trời xanh ngọc và lạnh lẽo nằm về hướng Tây của cửa sổ. Cái bóng của đồng hồ mặt trời dịch chuyển nửa tiếng trong khi chúng ta mặc quần áo và ăn sáng trong phòng ăn, nơi chứa năm cái bàn dài, trên mỗi bàn bày hai mươi cái dĩa đất sét và hai mươi cái cốc đất sét. Rồi chúng ta bắt tay vào làm việc trên các con đường của Thành Phố, với chổi và cào. Năm tiếng sau, khi mặt trời lên cao, chúng ta trở về Nhà và ăn bữa trưa trong vòng nửa tiếng cho phép. Rồi chúng ta lại đi làm tiếp. Năm tiếng sau, những cái bóng phủ xám vệ đường, và bầu trời xanh một màu xanh đậm không hề sáng sủa. Chúng ta trở về cho bữa tối kéo dài một tiếng. Rồi tiếng chuông ngân vang và chúng ta đi thành hàng một về phía một trong số những Sảnh Thành Phố, cho buổi Họp Mặt Xã Giao. Những hàng người khác tiến đến từ Nhà của những Nghề khác nhau. Nến được thắp lên, và các Hội Đồng của các Nhà khác nhau đứng lên bục, và họ giảng giải cho chúng ta về nghĩa vụ và về các anh em con người. Rồi những Lãnh Đạo viếng thăm trèo lên bục và đọc cho chúng ta nghe những bài phát biểu ở Hội Đồng Thành Phố ngày hôm đó, vì Hội Đồng Thành Phố đại diện cho mọi người và mọi người phải biết điều đó. Rồi chúng ta hát những bài thánh ca, Thánh Ca Ái Hữu, và Thánh Ca Bình Đẳng, và Thánh Ca Tinh Thần Tập Thể. Khi chúng ta quay về Nhà thì bầu trời là một màu tím sũng nước. Rồi chuông ngân vang và chúng ta đi hàng một về Rạp Hát Thành Phố để trải qua ba tiếng Giải Trí Xã Hội. Ở đó một vở kịch được diễn, với hai ban hợp xướng đến từ Nhà của Diễn Viên, tất cả cùng nói và trả lời bằng hai giọng rất hay. Những vở kịch lấy đề tài công việc cực nhọc và lợi ích của nó. Rồi chúng ta đi hàng một thẳng về Nhà. Bầu trời trông như một cái rổ đen bị xuyên thủng bởi những giọt bạc rung động, sẵn sàng tuôn ào ra. Những con bướm đêm đập cánh quần lấy những ngọn đèn đường. Các sảnh ngủ trắng và sạch và trống trơn ngoạt trừ một trăm cái giường.
Cứ như thế chúng ta đã sống ngày này sang ngày khác trong vòng bốn năm, cho đến hai mùa xuân trước, khi tội ác của chúng ta xảy ra. Cứ như thế mà mọi người sẽ sống đến năm bốn mươi tuổi. Ở tuổi bốn mươi, họ trở nên hao mòn kiệt quệ. Ở tuổi bốn mươi, họ được đưa đến Nhà của Những Kẻ Vô Dụng, nơi những Kẻ Cũ sống. Những Kẻ Cũ không làm việc, vì nhà nước chăm lo cho họ. Họ ngồi dưới nắng trong mùa hè và ngồi cạnh lò sưởi trong mùa đông. Họ không thường mở miệng, vì họ rất mệt mỏi. Những Kẻ Cũ biết rằng họ sẽ sớm chết đi. Khi một kì tích xảy ra và có người sống đến bốn mươi lăm tuổi, họ trở thành những Kẻ Cổ, và bọn trẻ nhìn họ chằm chằm khi chúng đi ngang Nhà của Những Kẻ Vô Dụng. Đó là cuộc đời của chúng ta, cũng như cuộc đời của tất cả anh em và những anh em đi trước chúng ta.
Đó đúng ra sẽ là cuộc đời chúng ta nếu không phạm phải tội lỗi đã khiến tất cả mọi việc thay đổi. Và chính lời nguyền đã đẩy chúng ta đến tội này. Chúng ta đã là một Phu Quét Đường gương mẫu và giống với tất cả anh em Phu Quét Đường khác, ngoại trừ cái ao ước hiểu biết đáng nguyền rủa. Chúng ta nhìn những vì sao buổi đêm, những cây cối và mặt đất quá lâu. Và khi chúng ta quét dọn khoảng sân trong Nhà của Học Giả, chúng ta gom lại những cái lọ thủy tinh, những mảnh kim loại, những khúc xương khô mà họ đã vứt đi. Chúng ta mong giữ lại những vật này và xem xét chúng, nhưng chúng ta không có nơi nào để cất giấu. Vậy nên chúng ta mang chúng đến Hố Phân Thành Phố. Và rồi chúng ta phát hiện ra một nơi.
Đó là vào một ngày xuân hai năm trước. Chúng ta những Phu Quét Đường làm việc theo nhóm ba người, và chúng ta cùng nhóm với Liên Hợp 5-3992, kẻ có nửa bộ não, và Quốc Tế 4-8818. Lúc này Liên Hợp 5-3992 là một anh chàng bệnh hoạn và đôi khi họ bị lên cơn co giật, miệng họ sủi bọt và mắt họ trắng dã ra. Nhưng Quốc Tế 4-8818 thì khác. Họ là một thanh niên cao to khỏe mạnh và mắt họ trông như đom đóm lấp lánh, bên trong chúng ẩn chứa một nụ cười. Chúng ta không thể nhìn Quốc Tế 4-8818 mà không cười đáp trả. Vì điều này mà họ không được yêu thích trong Nhà của Học Sinh, vì cười không có lí do là không phải phép. Thêm nữa họ không được yêu thích vì đã lấy những mảnh than và vẽ lên tường. Nhưng chỉ có các anh em ở Nhà của Họa Sĩ mới được phép vẽ, vậy nên Quốc Tế 4-8818 bị đưa đến Nhà của Phu Quét Đường, cũng như chúng ta vậy.
Quốc Tế 4-8818 và chúng ta là bạn. Đây là một điều xấu xa khi nói ra, vì nó là một sự vi phạm, một Lỗi Thiên Vị nghiêm trọng, khi yêu thương một người nhiều hơn những người khác, vì chúng ta phải yêu thương mọi người và mọi người đều là bạn của chúng ta. Vậy nên Quốc Tế 4-8818 và chúng ta chưa bao giờ nói về chuyện đó. Nhưng chúng ta biết. Chúng ta biết, khi nhìn vào mắt nhau. Và khi chúng ta nhìn nhau trong im lặng, chúng ta còn biết những điều khác nữa, những điều kì lạ không thể diễn đạt bằng lời, và chúng khiến chúng ta hoảng sợ.
Vào cái ngày mùa xuân hai năm trước ấy, Liên Hợp 5-3992 bị lên cơn co giật ở rìa Thành Phố, gần Rạp Hát Thành Phố. Chúng ta để họ nằm lại trong bóng râm của căn lều Rạp Hát rồi chúng ta đi tiếp với Quốc Tế 4-8818 làm cho xong việc. Chúng ta cùng nhau tới một hẻm núi phía sau Rạp Hát. Ngoài cây cối và cỏ dại ra thì nó không có gì khác. Trước mặt hẻm đất này là một vùng đồng bằng, và xa hơn vùng đồng bằng là Vị Tri Sâm, khu rừng không ai được nghĩ đến.
Đang gom lại những giấy tờ rác rưởi mà gió cuốn đi từ Rạp Hát thì chúng ta nhìn thấy một thanh sắt giữa đám cỏ dại. Nó cũ và rỉ sét vì nước mưa. Chúng ta dùng hết sức kéo nó lên nhưng không thể khiến nó dịch chuyển. Vậy nên chúng ta gọi Quốc Tế 4-8818 và cùng nhau chúng ta bới đất xung quanh thanh sắt. Đột nhiên mặt đất sụp xuống trước mắt và chúng ta phát hiện ra một cái vỉ che chắn một cái lỗ đen.
Quốc Tế 4-8818 giật lùi. Nhưng chúng ta nhấc cái vỉ lên và nó mở ra. Và rồi chúng ta nhìn thấy những vòng sắt như những bậc thang của một đường dẫn chạy thẳng vào trong bóng tối vô tận.
“Chúng ta sẽ đi xuống,” chúng ta nói với Quốc Tế 4-8818.
“Bị cấm đấy,” họ trả lời.
Chúng ta nói. “Hội Đồng không biết về cái lỗ này, vậy nên nó không thể bị cấm được.”
Và họ trả lời: “Vì Hội Đồng không biết về cái lỗ này nên không có luật nào cho phép chui vào nó cả. Và những thứ không được luật cho phép đều coi như bị cấm.”
Nhưng chúng ta nói: “Chúng ta sẽ đi xuống dù thế nào đi nữa.”
Họ sợ hãi nhưng vẫn đứng canh và nhìn chúng ta đi.
Chúng ta đu mình trên những vòng sắt bằng hai tay và hai chân. Chúng ta không thể thấy gì bên dưới. Và trên đầu cái lỗ mở ra bầu trời càng lúc càng nhỏ dần, cho đến khi nó thu lại bằng với kích cỡ một cái nút áo. Nhưng chúng ta vẫn tiếp tục đi xuống. Rồi chân chúng ta chạm đất. Chúng ta dụi mắt, vì không thể nhìn thấy gì. Rồi mắt chúng ta quen dần với bóng tối nhưng chúng ta không thể tin vào những gì mình đang nhìn thấy.
Không một con người nào mà chúng ta biết hay thậm chí là những người cùng thời với các anh em thế hệ trước chúng ta có thể xây dựng nơi này, thế nhưng rõ ràng là nó được xây bởi con người. Đây là một đường hầm lớn. Những bức tường cứng rắn và trơn láng khi lướt tay qua, có cảm giác như đá nhưng không phải đá. Trên mặt đất là những đường ray dài mỏng bằng sắt, nhưng không phải sắt, có cảm giác láng mịn và lạnh lẽo như thủy tinh. Chúng ta quì xuống, và chúng ta bò về phía trước, tay chúng ta lần theo đường ray để xem nó sẽ dẫn đến đâu. Nhưng trước mặt là bóng đêm cô đặc. Chỉ có những đường ray sắt thẳng và tỏa sáng trắng mờ trong bóng tối, mời gọi chúng ta đi theo. Nhưng chúng ta không thể đi theo vì ánh sáng ban ngày sau lưng chúng ta đang tắt lịm dần. Vậy nên chúng ta quay người bò ngược trở lại, tay vẫn bám trên đường sắt. Và trái tim chúng ta như muốn nhảy xổ ra khỏi lồng ngực không vì lí do gì cả. Và rồi chúng ta biết.
Chúng ta đột nhiên biết rằng nơi này bị bỏ lại từ Thời Bất Khả Luận. Vậy ra đó là sự thật, những thời đại đó đã từng tồn tại, và tất cả những kì quan của chúng. Hàng trăm năm trước con người đã nắm giữ những bí mật mà ngày nay đã thất lạc. Và chúng ta nghĩ: “Đây là một nơi bẩn thỉu. Kẻ nào chạm vào những thứ từ Thời Bất Khả Luận xứng đáng bị nguyền rủa.” Nhưng tay chúng ta nãy giờ bám lấy đường ray trong lúc bò lại đang ghì chặt thanh sắt như thể không muốn buông nó ra, như thể da bàn tay chúng ta đang đói khát và cầu xin từ thanh kim loại một thứ chất dịch bí ẩn tràn ngập trong cái lạnh lẽo của nó.
Chúng ta quay lại mặt đất. Quốc Tế 4-8818 nhìn chúng ta và lùi lại.
“Bình Đẳng 7-2521,” họ nói, “mặt người trắng bệch ra kìa.”
Nhưng chúng ta không thể mở miệng mà chỉ đứng đó nhìn họ.
Họ lùi xa thêm, như thể không dám chạm vào chúng ta. Rồi họ mỉm cười, nhưng không phải một nụ cười vui vẻ; nó lạc lõng và khẩn khoản. Nhưng chúng ta vẫn không nói được. Rồi họ nói:
“Chúng ta sẽ báo cáo phát hiện này với Hội Đồng Thành Phố và cả hai chúng ta sẽ được khen thưởng.”
Và rồi chúng ta cất lời. Giọng chúng ta cứng nhắc và không chút nhân nhượng.
“Chúng ta sẽ không báo cáo phát hiện này với Hội Đồng Thành Phố. Chúng ta sẽ không báo cáo nó cho bất kì ai cả.”
Họ giơ hai tay bịt tai lại, vì chưa từng nghe qua những lời lẽ như vậy.
“Quốc Tế 4-8818,” chúng ta hỏi, “người sẽ tố giác chúng ta với Hội Đồng và nhìn chúng ta bị quất roi cho đến chết trước mặt người sao?”
Họ bất ngờ ưỡn thẳng người và trả lời: “Chúng ta thà chết còn hơn làm vậy.”
“Vậy thì hãy giữ im lặng,” chúng ta nói. “Nơi này là của chúng ta. Nơi này thuộc về chúng ta, Bình Đẳng 7-2521, và không ai khác trên trái đất. Và nếu chúng ta từ bỏ nó, chúng ta sẽ từ bỏ nó cùng với mạng sống của chính mình.”
Rồi chúng ta nhận thấy cặp mắt của Quốc Tế 4-8818 đang đầy ắp những giọt nước mắt mà họ không dám để nhỏ xuống. Họ thì thầm, và giọng họ run run, thế nên những lời của họ không còn hình dạng gì nhất định:
“Nguyện vọng của Hội Đồng vượt trên tất cả, vì đó là nguyện vọng của các anh em, một điều thiêng liêng. Nhưng nếu người muốn vậy thì chúng ta sẽ nghe theo lời người. Thà chúng ta xấu xa cùng với người còn hơn là tốt đẹp cùng với tất cả anh em. Cầu Hội Đồng rủ lòng nhân từ đối với cả hai chúng ta!”
Rồi chúng ta cùng nhau rời đi và trở về Nhà của Phu Quét Đường. Và chúng ta đi trong im lặng.
Từ đó, cứ mỗi đêm, khi những vì sao lấp lánh trên cao và những Phu Quét Đường ngồi trong Rạp Hát Thành Phố, chúng ta, Bìng Đẳng 7-2521, lẩn ra ngoài và chạy xuyên qua bóng đêm đến nơi của riêng mình. Rời Rạp Hát là việc dễ dàng, khi những cây nến bị thổi tắt và những Diễn Viên bước lên sân khấu, không cặp mắt nào có thể nhìn thấy chúng ta trườn ra khỏi ghế ngồi và chui ra dưới tấm vải lều. Sau đó, việc lẻn lại vào hàng bên cạnh Quốc Tế 4-8818 từ trong bóng tối khi đoàn người rời Nhà Hát cũng không khó khăn gì. Đường phố tối tăm và không có bóng ma nào, vì không ai có thể đi bộ trong Thành Phố nếu không có nhiệm vụ nào đó. Mỗi đêm, chúng ta chạy đến hẻm núi , và chúng ta dọn sạch những hòn đá đã chồng chất lên cái vỉ sắt để giữ nó không bị phát hiện. Mỗi đêm, trong ba tiếng, chúng ta ở dưới lòng đất, một mình.
Chúng ta đã lấy trộm nến từ Nhà của Phu Quét Đường, chúng ta đã trộm đá lửa và dao và giấy, và chúng ta mang chúng đến nơi này. Chúng ta đã trộm những cái lọ thủy tinh và bột và axít từ Nhà của Học Giả. Lúc này chúng ta ngồi trong đường hầm ba tiếng mỗi đêm và chúng ta học hỏi. Chúng ta nấu chảy những kim loại lạ lùng, trộn axít, và giải phẫu cơ thể của những động vật được tìm thấy trong Hố Phân Thành Phố. Chúng ta đã dựng một cái lò từ những hòn gạch gom nhặt được trên đường. Chúng ta đốt củi tìm thấy trong hẻm núi. Ngọn lửa chập chờn trong lò và những cái bóng xanh nhảy nhót trên các bức tường, và không có âm thanh con người nào làm phiền chúng ta cả.
Chúng ta đã lấy trộm những bản thảo. Đây là một vi phạm nghiêm trọng. Những bản thảo là vô cùng quí giá, vì những anh em ở Nhà của Thư Kí mất cả một năm để sao lại một quyển duy nhất với chữ viết tay rõ ràng. Các bản thảo rất hiếm và chúng được cất giữ ở Nhà của Học Giả. Chúng ta ngồi dưới lòng đất và đọc những văn tự đánh cắp. Hai năm đã trôi qua từ ngày chúng ta tìm ra nơi này. Và trong hai năm đó chúng ta đã học được nhiều hơn những gì đã học trong mười năm ở Nhà của Học Sinh.
Chúng ta đã học được những điều không ghi trong các văn tự. Chúng ta đã giải được những bí mật mà các Học Giả không có chút kiến thức nào. Chúng ta đã nhận ra được sự vĩ đại của những điều chưa được khám phá và cho dù có sống bao nhiêu kiếp đi nữa thì chúng ta cũng không bao giờ đến đích trong cuộc tìm kiếm. Nhưng chúng ta không muốn kết thúc cuộc tìm kiếm. Chúng ta không ước gì khác ngoài việc được một mình và học tập, và cảm giác như mỗi ngày trôi qua tầm nhìn của chúng ta trở nên sắc sảo hơn cả ánh nhìn của diều hâu và trong hơn cả đá pha lê.
Những con đường dẫn đến sự xấu xa đều thật kì lạ. Chúng ta dối trá trước mặt các anh em. Chúng ta chống lại nguyện vọng của các Hội Đồng. Chúng ta một mình, giữa hàng ngàn con người trên trái đất, chúng ta một mình trong giờ phút này thực hiện một công việc không có mục đích gì khác ngoài việc thỏa mãn ước muốn bản thân. Sự xấu xa trong tội ác của chúng ta, đầu óc con người không thể hiểu thấu được. Sự trừng phạt dành cho chúng ta nếu bị phát hiện, bản chất của nó trái tim con người không thể tưởng tượng nổi. Chưa bao giờ, ngay cả trong kí ức của những Kẻ Cổ của những Kẻ Cổ, chưa bao giờ con người làm những việc mà chúng ta đang làm.
Thế nhưng trong chúng ta lại không hề tồn tại cảm giác xấu hổ hay hối hận. Chúng ta tự nhủ rằng chúng ta là một kẻ ác và kẻ phản bội. Nhưng chúng ta không cảm thấy gánh nặng tinh thần hay sợ hãi trong trái tim. Và có vẻ như tinh thần chúng ta trong trẻo như một cái hồ không bị ai soi mói ngoài ánh mặt trời. Và trong tim chúng ta – những con đường dẫn đến sự xấu xa mới kì lạ làm sao! – trong trái tim chúng ta là sự bình yên chúng ta lần đầu biết đến trong suốt hai mươi năm.