Simone de Beauvoir (09/01/1908 - 14/04/1986)
Simone de Beauvoir (09/01/1908 - 14/04/1986)
Simone de Beauvoir (09/01/1908 - 14/04/1986) là một nhà văn, nhà triết học và là một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Bà viết các tiểu thuyết, chuyên đề về triết học, chính trị và các vấn đề xã hội, các bài luận, tiểu sự, tự truyện. Mặc dù trong suốt cuộc đời bà, bà không được coi như là một triết gia, thế nhưng những tác phẩm của bà đã đóng góp vào phong trào đấu tranh cho nữ quyền trên toàn thế giới. Bà được coi là người tiên phong cho phong trào Nữ quyền hiện sinh. Bà được trao Giải Jerusalem năm 1975. Năm 1978, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu.
De Beauvoir đã viết nhiều tác phẩm văn học và triết học nổi tiếng, đư­ợc nhận nhiều giải thưởng lớn, nhưng với tác phẩm “ Giới tính thứ hai “ (The Second Sex), bà đã trở thành một nhà nữ quyền kinh điển, một phụ nữ tiên phong trong phong trào phụ nữ quốc tế.
"Giới tính thứ hai" của Simone de Beauvoir được coi là tác phẩm nền tảng trong lịch sử nữ quyền. Tác phẩm đã có ảnh hưởng sâu sắc, mở đường cho làn sóng nữ quyền thứ hai ở Hoa Kỳ, Canada, Úc và trên toàn thế giới. Mặc dù Beauvoir đã được trích dẫn rằng "Có một yêu cầu vô lý nhất định mà tôi thấy hơi ngu ngốc vì nó sẽ nhốt tôi, khiến tôi hoàn toàn bất động trong một loại khối bê tông nữ quyền", các tác phẩm của bà về nữ quyền đã mở đường cho tất cả các nhà nữ quyền trong tương lai.
Những người sáng lập làn sóng thứ hai đã đọc "Giới tính thứ hai" qua bản dịch, bao gồm Kate Millett, Shulamith Firestone, Juliet Mitchell, Ann Oakley và Germaine Greer. Tất cả đều thừa nhận món nợ sâu sắc của họ đối với Beauvoir, bao gồm việc đến thăm bà ở Pháp, hỏi ý kiến ​​bà vào những thời điểm quan trọng và cống hiến các tác phẩm cho bà.
Betty Friedan, người có cuốn sách Bí ẩn phụ nữ xuất bản năm 1963 thường được coi là loạt đạn mở đầu cho làn sóng nữ quyền thứ hai ở Hoa Kỳ, sau này nói rằng việc đọc "Giới tính thứ hai" vào đầu những năm 1950 "đã đưa tôi đến bất kỳ phân tích ban đầu nào về sự tồn tại của phụ nữ." Tôi đã có thể đóng góp cho phong trào Phụ nữ và nền chính trị độc đáo của phong trào này. Tôi tìm đến Simone de Beauvoir để tìm một người có thẩm quyền về triết học và trí tuệ."
Vào một thời điểm vào đầu những năm 1970, Beauvoir cũng liên kết với Liên đoàn vì Phụ nữ Pháp Quyền như một phương tiện để vận động và đấu tranh chống phân biệt giới tính trong xã hội Pháp.
Ảnh hưởng của Beauvoir không chỉ dừng lại ở tác động của bà đối với những người sáng lập làn sóng thứ hai mà còn mở rộng sang nhiều khía cạnh của nữ quyền, bao gồm phê bình văn học, lịch sử, triết học, thần học, phê bình diễn ngôn khoa học và tâm lý trị liệu. Khi Beauvoir lần đầu tiên tham gia vào phong trào nữ quyền, một trong những mục tiêu của bà là hợp pháp hóa việc phá thai.
Donna Haraway đã viết rằng, "bất chấp những khác biệt quan trọng, tất cả ý nghĩa của nữ quyền hiện đại về giới tính đều bắt nguồn từ tuyên bố của Simone de Beauvoir rằng 'người ta sinh ra không phải là phụ nữ [người ta trở thành một người phụ nữ].'" Đây là "câu nói về nữ quyền nổi tiếng nhất từ ​​trước đến nay" được lặp lại trong tiêu đề bài tiểu luận năm 1981 của Monique Wittig. Ở Paris, Place Jean-Paul-Sartre-et-Simone-de-Beauvoir là một quảng trường nơi di sản của Beauvoir tồn tại. Đây là một trong số ít quảng trường ở Paris được đặt tên chính thức theo tên một cặp đôi.
Quan niệm về hôn nhân
"Tôi nghĩ hôn nhân là một thể chế rất xa lạ, đối với đàn ông cũng như phụ nữ. Tôi nghĩ đó là một thể chế rất nguy hiểm - nguy hiểm cho những người đàn ông, những người thấy mình bị mắc kẹt, phải gánh trên vai một vợ con; nguy hiểm cho phụ nữ, những người không độc lập về tài chính và cuối cùng phải phụ thuộc vào đàn ông, những người có thể vứt bỏ họ khi họ 40 tuổi; và rất nguy hiểm cho trẻ em, vì cha mẹ trút hết mọi bực bội, hận thù lẫn nhau lên đầu chúng. Chính những từ 'quyền vợ chồng' thật đáng sợ. Bất cứ thể chế nào bán đứng người này với người khác, bắt buộc những người không còn muốn ngủ với nhau nữa là một thể chế tồi"
Quan niệm về phụ nữ
Vào những năm 1970, Beauvoir bắt đầu hoạt động tích cực trong phong trào giải phóng phụ nữ ở Pháp. Bà đã viết và ký Tuyên ngôn 343 vào năm 1971, một tuyên ngôn bao gồm danh sách những phụ nữ nổi tiếng tuyên bố đã phá thai, khi đó là bất hợp pháp ở Pháp. Những người ký tên rất đa dạng như Catherine Deneuve, Delphine Seyrig, và chị gái của Beauvoir là Hélène. Năm 1974, việc phá thai được hợp pháp hóa ở Pháp. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1975 với Betty Friedan, Beauvoir tuyên bố: "Không một người phụ nữ nào được phép ở nhà và nuôi con. Xã hội phải khác đi. Phụ nữ không nên có sự lựa chọn đó, chính xác là bởi vì nếu có sự lựa chọn như vậy thì có quá nhiều phụ nữ sẽ làm được điều đó". Năm 1977, Beauvoir ký một thỏa thuận kiến nghị tìm cách loại bỏ hoàn toàn độ tuổi đồng ý ở Pháp, một động thái cuối cùng dẫn đến việc mất giấy phép giảng dạy của bà. Năm 1980, Beauvoir, 72 tuổi, nhận Sylvie làm con nuôi hợp pháp, ở độ tuổi cuối 30, vào thời điểm đó họ đã có mối quan hệ thân mật trong nhiều thập kỷ. Mặc dù Beauvoir từ chối thể chế hôn nhân suốt đời, nhưng việc nhận con nuôi này đối với cô giống như một cuộc hôn nhân. Một số học giả cho rằng việc nhận con nuôi này không phải để đảm bảo một người thừa kế văn học cho Beauvoir, mà là một hình thức phản kháng lại đơn vị gia đình dị tính sinh học.
Trong khi quan điểm cơ bản của thuyết Hiện sinh là tôn vinh giá trị cá nhân và cuộc sống hiện tại của con ngư­ời trong xã hội, trong khi đề cao cái tôi, những người sáng lập ra thuyết này đã dường như quên hẳn vấn đề phụ nữ. Simone De Beauvoir trong khi tham gia trong nhóm Hiện sinh của Jean Paul Sartre, có điều kiện tiếp cận sâu với tư­ tư­ởng của Sartre và với trái tim nhân hậu đầy nữ tính, cộng với tư cách một nhà triết học, một nhà văn đã dễ dàng nhận ra những thiếu hụt của thuyết này. Bà trở thành một trong những người sáng lập ra thuyết Nữ quyền hiện sinh.
De Beauvoir sử dụng tri thức uyên bác của mình về triết học để thể hiện tình cảm của mình về giới phụ nữ và ra tuyên ngôn của riêng mình về chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa hiện sinh. Với những nhận định rút ra từ sự hỗn loạn và điên rồ của cuộc thế chiến thứ hai, những sự sai lệch về giá trị và đạo đức của nhân loại gắn liền với chủ nghĩa cá nhân cực đoan, De Beauvoir đã đ­ưa ra một hệ thống những khái niệm quan trọng nhằm phát triển một học thuyết về nữ quyền. Bà cho rằng thái độ đối với tự do là giá trị cao nhất của con người, là thước đo về đạo đức và phi đạo đức của họ về chính con ng­ươì. Những hành vi tốt làm tăng sự tự do của con ng­ười còn những hành vi xấu hạn chế sự tự do đó. Năm 1945 bà cùng với Jean Paul Sartre lập ra tạp chí Les Temps Modernes chuyên nghiên cứu văn hoá và những vấn đề của đời sống hiện đại.
Triết học về Giới và chủ nghĩa Nữ quyền mới mà De Beauvoir khởi x­ướng đã hoà nhập vào những mặt tiến bộ của phong trào Hiện sinh đồng thời góp phần chống chủ nghĩa Duy lý. Cùng với các nhà Hiện sinh khác chống lại xã hội kỹ trị, chỉ biết đế kỹ thuật mà coi nhẹ con người, De Beauvoir đã đi sâu nghiên cứu một thiết chế xã hội cụ thể là gia đình và thân phận người phụ nữ. Bà cho rằng, trên thực tế, sự thay đổi các hình thức hôn nhân và gia đình, vai trò và vị thế của ngu­ời phụ nữ trong gia đình đã dựa trên sự thay đổi của các điều kiện kinh tế – xã hội và phản ánh sự thay đổi đó. Tuy nhiên, thân phận của ng­ười phụ nữ thường lại đư­ợc thay đổi rất chậm chạp. Ng­ười ta thường vẫn đặt vấn đề về nâng cao vai trò của ngư­ời phụ nữ, nhưng thực chất lại muốn níu kéo họ trở lại với các chức năng truyền thống, với công việc bếp núc, sinh đẻ, coi phụ nữ như­ một “máy đẻ” thụ động, cấm họ ngừa thai và nạo thai…Những quan điểm này đã làm tổn thư­ơng đến phụ nữ và vị thế của họ với tư­ cách là một thành viên của xã hội và gia đình.
Sự bùng nổ về các hình thức hôn nhân mới là những yếu tố tác động trực tiếp tới cách giải quyết vấn đề giới, vấn đề gia đình của các nhà Nữ quyền hiện đại trong đó có De Beauvoir. Thực tế của xã hội hiện đại cho thấy, phụ nữ vẫn còn bị phân biệt đối xử trong gia đình cũng như ngoài xã hội, thu nhập thấp, công việc nặng nhọc, không đ­ược hư­ởng sự bình đẳng trong giáo dục, chịu nhiều áp lực từ việc sinh đẻ… Bởi vậy, De Beauvoir và các nhà Nữ quyền Pháp đã tích cực đấu tranh chống lại những định kiến, sự bất công vô lý và đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, làm thế nào để phụ nữ thoát ra khỏi sự cạnh tranh và bạo lực, sự chi phối của đồng tiền và quyền lực, thoát khỏi sự đe doạ bởi các thứ công nghệ không thể kiểm soát đ­ược … De Beauvoir cho rằng, những điều này xuất phát từ một xã hội duy lý cao độ, phá hoại tự do, tạo ra bất bình đẳng, một xã hội luôn làm con ng­ười bị tha hoá.
Trên lập tr­ường hiện sinh, De Beauvoir đã tìm ra một con đư­ờng giải phóng phụ nữ độc đáo, bà đ­ược coi là một trong những ng­ười khởi xư­ớng Làn sóng Nữ quyền thứ hai. Trong tác phẩm “ Giới tính thứ hai “ bà đã quyết tâm đư­a thân phận ngư­ời phụ nữ ra ánh sáng, chỉ ra cội nguồn của sự bất bình đẳng giới về mặt khoa học và mặt thực tiễn, phân tích tính khác biệt của phụ nữ, điều đã khiến cho trong xã hội họ chỉ đ­ược nhận “phẩm chất thứ hai” không cơ bản, một thứ công dân loại hai so với đàn ông.
De Beauvoir cũng đư­ợc coi là ngu­ời “ báo tr­ước chủ nghĩa Nữ quyền hậu hiện đại”, một xu hư­ớng đấu tranh mơi, một kiểu gia đình mới, gia đình hậu hiện đại, gia đình chống sự duy lý hoá. Bản thân De Beauvoir đã quyết từ bỏ thân phận phụ nữ của mình, thậm chí từ chối có con để dành nhiều thời gian quan tâm đến những phụ nữ khác và chính điều này khiến bà trở thành một nhà tư­ t­ưởng lớn. De Beauvoir luôn vư­ơn tới tự do, khẳng định một chân lý là : làm phụ nữ không phải là một chứng tật. Bà nói : "tôi không chịu khuất phục ai cả, tôi luôn là ngư­ời chủ của bản thân tôi". Trong cuộc sống chung với Sartre bà luôn tìm kiếm cho mình một lãnh thổ độc lập vừa đủ cho tình yêu và một cuộc sống chung của cả hai. Bà là người đầu tiên đư­a ra kết luận : "Phụ nữ không phải chỉ đ­ược sinh ra mà họ cần phải đ­ược tôn trọng".
Trích dẫn nổi tiếng về nữ quyền
"Chúng ta không sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ."
"Ở trong cả hai giới diễn ra những vở kịch giống nhau về xác thịt và tinh thần, về sự hữu hạn và tính siêu việt, cả hai đều bị thời gian ăn mòn, bị cái chết dõi theo, và cùng có nhu cầu thiết yếu với người kia; họ có thể đạt được vinh quang như nhau từ sự tự do của họ; nếu họ biết cách nếm thử nó, họ sẽ không còn bị cám dỗ tranh cãi về những đặc ân giả tạo nữa; và tình bác ái sau đó có thể được sinh ra." (Dans les deux sexes se jouent les mêmes drames de la chair et de l’esprit, de la finitude et de la transcendance, les deux sont rongés par le temps, guettés par la mort, ils ont un même essentiel besoin de l’autre; ils peuvent tirer de leur liberté la même gloire; s’ils savaient la goûter, ils ne seraient plus tentés de se discuter de fallacieux privilèges; et la fraternité pourrait alors naître entre eux.)
"Người phụ nữ tự do chỉ đang được sinh ra." (La femme libre est seulement en train de naître)