Nguồn: X
Tác giả: @Thinkingwest
Ngày đăng: 04/11/2024
Đế chế La Mã Thần thánh đã tồn tại trong ~1000 năm, và nó đã trông như thế này:
Lãnh thổ HRE
Lãnh thổ HRE
Làm thế nào mà một chính thể vụn vỡ lại có thể tồn tại được lâu đến vậy? Điều đó có liên quan tới một khái niệm gọi là “sự tản quyền”, và nó nắm giữ chìa khóa cho việc thực thi một chính phủ có trách nhiệm ngày nay.
(TN-Từ “subsidiarity” ở bài gốc không thực sự có bản dịch tiếng Việt, nếu gõ vào Google thì chỉ có bản dịch định nghĩa của từ. Nếu tra các trang thông tin Ki-tô Giáo thì nó ra từ “bổ trợ” (hoàn toàn "không hề mơ hồ" và chắc chắn 100% sẽ "không gây ra nhầm lẫn" với khái niệm nào khác hay gì hết :facepalm:). Thế nên xét 1) định nghĩa của nó từ tác giả và cái mà nó miêu tả trong bài này và 2) nghĩa từ có liên quan “subsidiary” chỉ sự phân chia, rẽ nhánh thành như “chi nhánh” hay “công ty con”, từ “tản quyền” được chọn để dịch cho phù hợp và chuẩn xác)
Nhà triết học Voltaire từng châm biếm rằng Đế chế La Mã Thần thánh “chẳng phải thần thánh, chẳng phải La Mã, cũng chẳng phải là một đế chế”. Tuy nhiên, không thể phủ nhận mức độ trường tồn của nó, kéo dài từ năm 800 đến 1806 - ra đời trước khi mà William kẻ Chinh Phạt đã xâm lược nước Anh và đã tiếp tục tồn tại tới sau cuộc Cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ
Lễ đăng quang của Charlemagne, sự kiện này đánh dấu sự hồi sinh của Đế chế La Mã ở phương Tây và củng cố liên minh giữa Giáo hoàng và các nhà cai trị châu Âu.
Lễ đăng quang của Charlemagne, sự kiện này đánh dấu sự hồi sinh của Đế chế La Mã ở phương Tây và củng cố liên minh giữa Giáo hoàng và các nhà cai trị châu Âu.
Hình 3: Trận chiến Núi Trắng (Battle of White Mountain) là một cuộc đối đầu quân sự quyết định xảy ra vào ngày 8/11/1620, giữa quân đội của Đế chế La Mã Thần thánh và Liên đoàn Công giáo với phe nổi dậy Tin lành của Bohemia.
Hình 3: Trận chiến Núi Trắng (Battle of White Mountain) là một cuộc đối đầu quân sự quyết định xảy ra vào ngày 8/11/1620, giữa quân đội của Đế chế La Mã Thần thánh và Liên đoàn Công giáo với phe nổi dậy Tin lành của Bohemia.
Nó được coi là một trong những đế chế tồn tại lâu dài nhất trong lịch sử, một kỳ tích đặc biệt thú vị nếu như ta xét vị trí địa lý trung tâm và sự thiếu vắng những biên giới tự nhiên dễ phòng thủ của nó.
Vậy bí mật của nó là gì? Tại sao mà HRE lại tồn tại được lâu tới vậy – sống sót qua những hỗn loạn chính trị khổng lồ và thậm chí cả những cuộc chiến tranh ở bên trong lãnh thổ của nó – trong khi các quốc gia khác cứ đến rồi đi?
Để trả lời câu hỏi này chúng ta trước hết phải hiểu được khái niệm tản quyền.
Tản quyền là một nguyên tắc cai trị Công Giáo được đề xướng bởi Giáo Hoàng Leo XIII trong thông điệp năm 1891 Rerum novarum (“Thay đổi Cách mạng”) như là một nỗ lực nhằm tạo cầu nối hòa giải cách biệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. (Ông ta phát triển ý tưởng và phát biểu ra nó bằng cách nghiên cứu cách mà HRE đã vận hành trong lịch sử, chứ không phải du hành thời gian)
Giáo Hoàng Leo XIII
Giáo Hoàng Leo XIII
Sau này Giáo Hoàng Pius XI đã định nghĩa nó:
“Một nguyên tắc nền tảng của triết lý xã hội… rằng ta không nên tước đi khỏi các cá nhân những gì mà họ có thể trao cho cộng đồng thông qua sáng kiến chủ động và sự chuyên cần của riêng mình.”
Giáo Hoàng Pius XI
Giáo Hoàng Pius XI
Về cơ bản nó có nghĩa là các vấn đề nên được giải quyết bởi thẩm quyền có đủ năng lực ở cấp thấp nhất hay ít gần trung ương nhất. Các quyết định chính trị nên được đưa ra ở địa phương – một chính quyền phi tập trung đảm bảo rằng những người ở gần sát sườn vấn đề nhất sẽ có nhiều quyền kiểm soát với vấn đề đó nhất.
Sự phi tập trung, và vì thế là sự tản quyền, có một hiệu ứng làm ổn định cố hữu bởi chính quyền có nhiều những sự kiểm soát và cân bằng quyền lực và không thể bị phá hoại bởi một vài quyết định tồi từ tầng lớp lãnh đạo.
Và HRE đã chính xác là như vậy.
HRE, cũng giống như nhiều nhà nước trung cổ, là theo chế độ phong kiến. Điều này có nghĩa là xã hội đã được kiến tạo xung quanh ba khái niệm then chốt: các lãnh chúa, các chư hầu, và các thái ấp (đất đai). Có vô vàn các dạng phong kiến khác nhau ở trong đế chế, nhưng chúng ta sẽ tập trung vào mô hình cơ bản.
Một vị lãnh chúa là một người thuộc tầng lớp quyền quý; một chư hầu là người mà lãnh chúa đã ban cho sự sở hữu đất để đổi lấy sự phục dịch lãnh chúa. Các chư hầu thì có được đất đai và sự bảo hộ, trong khi lãnh chúa thì có một người chư hầu mà ông ta có thể triệu tập cho sự phục dịch quân sự – đây là “mối quan hệ phong kiến” (phong tước kiến địa).
Hệ thống này có thể được hình dung tốt nhất như là một kim tự tháp với một nhà vua (vị “lãnh chúa” tối cao) ở trên đỉnh, và một chuỗi các chư hầu của chư hầu đi dần xuống từng tầng cho tới tầng lớp nông dân. Các tầng lớp thấp hơn thì trao cho các tầng lớp cao hơn tài nguyên hay quân dịch, trong khi tầng lớp cao hơn thì trao cho các tầng lớp thấp hơn sự bảo hộ và đất đai.
Hệ thống thứ bậc trong xã hội HRE
Hệ thống thứ bậc trong xã hội HRE
HRE đôi lúc đã được gọi là Flickenteppich – “tấm thảm chắp vá”, bởi sự nhiều vô kể những công quốc nhỏ, có phần tự trị của nó. Ở đỉnh điểm của nó, đã có hơn 300 Kleinstaaten (“nhà nước nhỏ”) ở trong đế chế, với một số bao phủ không quá vài dặm vuông.
(Đã từng thắc mắc mấy ông lập quốc Hoa Kỳ lấy cái mô hình thể chế liên bang từ đâu ra? Yup. Nó đó. Sơ khai hơn thì chỉ có mấy cái liên minh giữa các bộ lạc gần gũi)
Cái cấu trúc như vải chắp vá này là giống như một liên bang, nơi mà một số công quốc đã bị kiểm soát bởi hoặc là các chức thẩm quyền giáo hội (Vương công-Giám mục) hay bởi chính hoàng đế, trong khi đa số còn lại thì được nắm giữ bởi các thân vương địa phương là những người đã thề trung thành với hoàng đế.
Một văn bản tài liệu từ năm 1232 đã gọi công khai các công tước Đức là domini terræ, hay là “người chủ sở hữu đất”, làm sáng tỏ rằng một mức độ độc lập khỏi hoàng đế là đã tồn tại.
Và điều này có nghĩa làm thẩm quyền đã có tính địa phương rất cao.
Hoàng đế đã không can dự gì mấy ở cấp địa phương – mỗi công quốc đã được quản lý bởi thân vương hay giám mục của nó, tạo ra một hệ thống phi tập trung nơi mà các chư hầu đều trông cậy vào vị lãnh chúa để được hỗ trợ hay giải quyết bất bình thay vì một nhà cai trị ở xa tận đẩu tận đâu.
Vai trò của hoàng đế chủ yếu đó là duy trì hòa bình bằng cách: 1) bảo vệ các biên giới khỏi các mối đe dọa từ bên ngoài, 2) dàn xếp giải quyết các tranh chấp giữa các công quốc thông qua triều đình của ông.
Các thân vương phần nhiều được tự do điều hành thái ấp của mình tùy theo ý mình muốn miễn chừng nào những lợi ích của hoàng đế vẫn được tôn trọng.
Một khía cạnh phi tập trung khác của đế chế đó là cách thức chọn lựa người cai trị của nó. Khác với các quân vương trung cổ khác, Hoàng đế La Mã Thần thánh không phải là cha truyền con nối, mà là được tuyển cử. Một khối nhỏ các thân vương quyền lực trước hết bầu ra ứng viên và rồi phong cho ông ta danh hiệu “Vua của người La Mã”.
Theo như Sắc chỉ Vàng 1356, bảy “tuyển đế-hầu” (TN-“prince-elector”) bỏ lá phiếu của họ: tổng giám mục thành Mainz, tổng giám mục thành Trier, tổng giám mục thành Cologne, quốc vương xứ Bohemia, hành cung bá tước xứ Rhine, công tước xứ Saxony và hầu tước xứ Brandenburg.
(Đã từng thắc mắc mấy ông lập quốc Hoa Kỳ lấy cái hệ thống Đại Cử tri Đoàn – Electoral College – để bầu tổng thống từ đâu mà ra? Yeah, nó đó)
Các ứng viên hoàng đế đế chế thường thương thuyết với các tuyển-hầu trong một tiến trình gọi là “đầu hàng tuyển cử”.
Bắt đầu với Charles V vào năm 1519, các ứng viên đã phải thề tôn trọng các điều khoản được đặt ra bởi các tuyển hầu, đặt ra những giới hạn lên thẩm quyền của hoàng đế - một dạng “kiểm soát và cân bằng” sơ khai.
Tuy vậy, để được chính thức gọi là hoàng đế, ứng viên cần phải được trao vương miện bởi Giáo Hoàng. Thường đã phải mất nhiều năm từ lúc được bầu làm vua cho tới khi chính thức được trở thành hoàng đế. Ferdinand I, chẳng hạn, đã phải đợi dài cổ tận 25 năm mới tới lễ gia miện của ông vào năm 1556.
HRE có lẽ là ví dụ tốt nhất của sự tản quyền được thi hành ở quy mô rộng khắp. Sự thi hành nó, cho dù vốn là không có chủ đích, đã là một yếu tố lớn trong sự trường tồn của đế chế bằng việc tạo ra một hệ thống các nhà nước nhỏ, tự trị được giữ chặt lại với nhau bởi một vị hoàng đế chung.
Các chính thể khác cứ đến rồi lại đi, vì không chống nổi hoặc là các mối đe dọa từ bên ngoại hoặc là các cuộc cách mạng từ bên trong. Nhưng HRE đã vẫn duy trì là một đế chế liên tục trong gần một thiên niên kỷ, sống sót qua những dịch chuyển triều đại và thay đổi chính trị.
Ngày nay, tản quyền vẫn là một nguyên tắc quan trọng khi đánh giá các chính sách và chương trình của chính phủ.
Một phép thử tốt cho bất kỳ chính sách mới nào nên là: liệu nó có tuân theo nguyên tắc tản quyền không?