Những vị thần
Những vị thần

Lời của những vị thần

Cuộc họp thường niên năm 2009 - phiên chiều - 00:08:00

Cổ đông: “BYD có vẻ giống như một khoản đầu tư mạo hiểm mang tính chất đầu cơ hơn so với một khoản đầu tư giá trị. Hai ông có thể giải thích khoản đầu tư đó được không, logic phía sau, và những mong đợi của các ông về nó?”
WB: “Vâng. Tôi sẽ chuyển câu hỏi này cho Charlie ngay sau đây thôi. Nhưng Charlie và tôi cho rằng không có kiểu đầu tư nào khác ngoài đầu tư giá trị cả. Nói cách khác, chúng tôi không biết làm thế nào mà lại có ai đó đi đầu tư vào một thứ không giá trị cả. Chúng tôi luôn cảm thấy bị đánh đố bởi thuật ngữ 'giá trị', với nghĩa được cho là đối lập với “tăng trưởng”. Giá trị là nhận được rất nhiều từ dòng tiền kỳ vọng trong tương lai so với những gì bạn bỏ ra hôm nay. Mỗi lần có ai đó mô tả chúng tôi như những nhà đầu tư giá trị, chúng tôi sẽ hỏi: Còn có thể có kiểu nào khác à?”

Thư gửi cổ đông Berkshire - năm 1992

Thêm nữa, chúng tôi nghĩ thuật ngữ “đầu tư giá trị” là dư thừa. “Đầu tư” là cái gì, nếu nó không phải là hành động tìm kiếm giá trị, ít nhất cũng đủ để biện minh cho số tiền đã bỏ ra? Hàng động cố tình mua một cổ phiếu với mức giá nhiều hơn giá trị tính toán được của nó - với hy vọng có thể bán lại nó với một cái giá cao hơn nữa - nên được gọi với cái tên là đầu cơ (điều mà không bất hợp pháp, không vô đạo đức, và - theo quan điểm của chúng tôi - cũng không làm phồng túi tiền).
Dù đúng hay sai, thuật ngữ “đầu tư giá trị” vẫn được sử dụng rộng rãi. Thông thường, nó có nghĩa là mua cổ phiếu có những đặc điểm như: tỷ lệ giá trên giá trị sổ sách thấp, tỷ lệ giá trên thu nhập thấp, hay tỷ lệ cổ tức cao. Không may mắn là, những tính chất như thế, dù cho chúng có đi cùng với nhau, thì vẫn còn xa để có thể xác định rằng một nhà đầu tư có thực sự đang mua một thứ với giá trị tương xứng hay không, và do đó có thực sự hành động dựa trên nguyên tắc tìm kiếm giá trị cho những khoản đầu tư của mình hay không. Tương tự, những tính chất ngược lại - tỷ lệ giá trên giá trị sổ sách cao, tỷ lệ giá trên thu nhập cao, và tỷ lệ cổ tức thấp - vẫn còn lâu để có thể nói là mâu thuẫn với việc mua những thứ “giá trị”.

Một vài chiêm nghiệm

Đã bắt đầu từ lâu

Sau cuộc Đại khủng hoảng giai đoạn 1029-1932 tại Mỹ, tất cả cổ phiếu phổ thông được cho là mang bản chất đầu cơ, và chỉ có trái phiếu mới phù hợp để một người đầu tư tiền của họ vào. Trước sự quy chụp một cách định kiến đó (phát sinh từ trải nghiệm đau đớn trước đó), Benjamin Graham, trong cuốn Phân tích chứng khoán xuất bản lần đầu năm 1934, đã cố gắng đưa ra định nghĩa chính xác nhất có thể về đầu tư, nhấn mạnh vào sự đối lập với hoạt động đầu cơ, nhằm giải oan cho cổ phiếu phổ thông khỏi cái mác đầu cơ. Định nghĩa của ông: “Hoạt động đầu tư là hoạt động thông qua sự phân tích kỹ lưỡng, hứa hẹn sự an toàn về vốn và lợi nhuận thỏa đáng. Những hoạt động không đáp ứng những yêu cầu này là hoạt động đầu cơ.” Một định nghĩa đơn giản, nhưng không quá đơn giản đến mức như thông lệ lúc đó, rằng ai sở hữu cổ phiếu là đầu cơ, sở hữu trái phiếu là đầu tư.
Để rồi, trớ trêu thay, vài thập kỷ sau, trong cuốn Nhà đầu tư thông minh xuất bản năm 1954, chính ông lại thể hiện mối quan ngại với việc sử dụng cụm từ ‘nhà đầu tư’ một cách bừa bãi. Ông viết: “Chúng tôi phải ngăn những đọc giả của mình tránh khỏi cách nói thông dụng, khi dùng thuật ngữ ‘nhà đầu tư’ để chỉ bất cứ ai và tất cả những ai có mặt trên thị trường cổ phiếu.” Và cũng giống với lần trước, nỗ lực của cá nhân ông không thay đổi được điều gì đáng kể, mọi việc diễn ra không theo chiều hướng ông mong muốn, chiều hướng mà mọi thứ nên là. Lần trước, những ai sở hữu cổ phiếu thì bị coi là đầu cơ, lần này bất kỳ ai mua bán chúng thì được gọi là đầu tư. Trong hai trường hợp chắc chắn phải có cái sai, hoặc là cái trước, hoặc là cái sau, hoặc là … cả hai.
Trở lại với hiện tại, việc trở thành nhà đầu tư chưa bao giờ dễ đến thế. Chỉ với việc mở tài khoản tại một một công ty chứng khoán nào đó, nạp tiền vào, tham gia một vài khóa học và những cộng đồng đầu tư lớn, rồi sau đó bắt đầu mua bán cổ phiếu, và cùng chia sẻ những lo lắng về thua lỗ và niềm vui từ lợi nhuận; chúc mừng, bạn đã bắt đầu con đường đầu tư của chính mình. Chỉ trong vòng vài tuần, thậm chí là vài ngày, bạn đã trở thành một nhà đầu tư. Thực sự là trở thành nông dân còn khó hơn trở thành nhà đầu tư.
Tuy nhiên, tốc độ ánh sáng ấy đạt được không phải là nhờ vào những phát triển công nghệ, thứ cho phép mọi người tham gia thị trường và giao dịch một cách dễ dàng, mà là ở việc lạm dụng từ ngữ một cách bừa bãi. Nhưng bạn có thể biện luận rằng: “Sai thì có thể sai, nhưng đó chỉ là từ ngữ, là cái tên mà thôi. Việc tôi nghiêm túc với nó, bỏ thời gian, công sức và tiền bạc vào nó là thật, và tôi thực sự kiếm được tiền từ nó.” Bạn có thể tham gia đánh bạc, nghiêm túc với nó, bỏ thời gian, công sức và tiền bạc vào nó, và tiền thắng được là tiền thật; thế nhưng đánh bạc vẫn là đánh bạc, dù bạn có gọi nó với cái tên gì đi nữa, ví dụ như ‘nhà thực hành xác suất’ chẳng hạn. Sự lẫn lộn trong tên gọi đó thực sự nguy hiểm.
Và sự nguy hiểm ở đây không đến từ cái tên, mà ở bản thân hành động. Một lần nữa, lại là sự tuyệt vời của Ben Graham: “Đầu cơ công khai vừa không bất hợp pháp, không vô đạo đức, và vừa (đối với hầu hết mọi người) không làm phồng túi tiền. Hơn thế nữa, có những loại đầu cơ là cần thiết và không thể tránh khỏi, như trong nhiều trường hợp với cổ phiếu phổ thông, nó chứa những khả năng vô cùng lớn về cả lợi nhuận và thua lỗ, và vì thế cần ai đó gánh chịu phần rủi ro. Có tồn tại đầu cơ thông minh, cũng như có đầu tư thông minh. Nhưng có nhiều trường hợp mà đầu cơ là không thông minh. Trong số đó, những cái đứng đầu như: (1) đầu cơ trong khi nghĩ mình đang đầu tư, (2) đầu cơ một cách nghiêm túc thay vì để giết thời gian, trong khi bạn thiếu kiến thức và kỹ năng cho nó, (3) đặt cược tiền vào đầu cơ nhiều hơn mức mà bạn có thể chấp nhận đánh mất.” Không một lời phản đối nào từ tôi cả. Và tôi cũng không thể diễn đạt hay hơn nữa.
Hai hoạt động đầu tư và đầu cơ có sự khác nhau về nguyên lý nền tảng và bản chất, và theo đó kết quả mà một người đạt được từ hai hoạt động này cũng khác nhau. Một nhà đầu tư mong muốn kiếm được khoản lợi nhuận thỏa đáng so với số vốn anh ta bỏ ra, đồng thời vẫn bảo toàn được vốn gốc khỏi rủi ro đánh mất vĩnh viễn. Một nhà đầu cơ đánh cược tiền vốn để kiếm được khoản lợi nhuận rất đáng kể, và sẵn sàng đánh mất số vốn gốc, bởi điều anh ta tìm kiếm không chỉ là lợi nhuận, mà đôi khi (hay có lẽ là thường xuyên) là sự vui thú mà hoạt động đầu cơ mang lại.
Do vậy, nếu một người mong muốn đạt được kết mà hoạt động đầu tư tạo ra, nhưng khi anh ta bắt đầu học hỏi, anh ta tham gia vào những lớp học đầu tư (nhưng thực chất lại không), mà ở đó, chính người giảng dạy cũng tin điều họ đang dạy là đầu tư thực thụ. Cứ thế, anh ta được ban cho danh hiệu "nhà đầu tư" và thực hiện hoạt động ấy một cách nghiêm túc, mà không hề hay biết điều anh ta học và làm không phải là đầu tư. Anh ta phải đối mặt với những rủi ro mà đầu cơ mang lại. Không ai ở bên chỉ ra thực tế là anh ta đang lệch khỏi mong muốn của bản thân, bởi chính họ cũng đang nghĩ anh ta đầu tư. Sự nhầm lẫn ấy cuối cùng sẽ mang lại cho anh ta sự thất vọng và đau khổ. Để rồi, chính anh ta lại mang định kiến xấu với hoạt động đầu tư và những người thực hành chúng.
Cứ thế, nghĩa của từ ‘đầu tư’ dần biến đổi, bị mang danh xấu. Giả sử, nếu bạn nói với một người nào đó rằng công việc của bạn là đầu tư, một trong những phản hồi phổ biến bạn nhận được sẽ là: “À, chơi chứng khoán đúng không?” ‘Chơi chứng khoán’ hay nếu nói nghiêm túc hơn là ‘làm chứng khoán’, tức mua bán chứng khoán với mục đích kiếm lời, hay đôi khi là tìm niềm vui, là cách hiểu của đa số mọi người khi họ nhắc đến hai cụm từ ấy (và theo đó là cả từ đầu tư nữa). Cách hiểu này của họ khả năng rất cao là đúng, vì đó là điều mà phần lớn những “nhà đầu tư” trên thị trường thực sự đang làm hàng ngày. Họ không biết rằng cái việc làm đó thực chất là đầu cơ, bởi họ đã nghe đến từ đầu cơ và đã gặp một nhà đầu cơ bao giờ đâu. Từ đó, hoạt động đầu tư - mua bán cổ phiếu, đối với những người không tham gia (và cả phần lớn những người tham gia), đã trở thành thứ gì đó, có chút cợt nhã, có chút giải trí, và là một công việc kiếm thêm tiền cà phê, chứ tuyệt nhiên chả phải là một thứ gì đó đáng để một người cống hiến. Trong khi hoạt động đầu tư phải đứng mũi chịu sào, thì đầu cơ lại là kẻ ngồi mát ăn bát vàng. Cứ thế, nhà nhà cùng đầu cơ, à nhầm, đầu tư.
Đầu tư được dùng với nghĩa đầu cơ, và đầu cơ thì biến vào bóng tối, vậy khi một nhà đầu tư thực thụ muốn biểu đạt ý kiến, muốn giao tiếp với mọi người, anh ta có thể làm gì? Mỗi khi một nhà đầu tư cảm thấy cần phân biệt rõ, anh ta nên giải thích lại định nghĩa cụ thể mà anh ta muốn hướng đến, nhấn mạnh vào sự đối lập với nghĩa đang được hiểu sai. Điều này nghe có vẻ bình thường, nhưng sự xa xỉ trong việc dùng từ ngữ mà không cần định nghĩa chúng trong đối thoại thường ngày lại là điều hiển nhiên đối với những người tham gia nhiều hoạt động khác. Tuy nhiên, bản thân việc này cũng sẽ gặp nhiều trở ngại. Bởi vì đối với số đông, việc phải hiểu rõ nghĩa của một từ mà chỉ dùng để nói chuyện giao tiếp thông thường với một số cá nhân riêng lẽ, trong khi nghĩa mà anh ta đang hiểu là giống với cách hiểu của đa số những người khác, là một điều không cần thiết, nếu không muốn nói là phiền phức. Mà cho dù họ nghiêm túc xem xét, thì cái nghĩa mới (vâng, nghĩa mới) cũng chả thuyết phục lắm. Một bên là báo đài, truyền thông, các chuyên gia, và phần đa mọi người liên quan; so với một cá nhân đơn lẻ, bạn nên tin ai? Câu trả lời quá rõ ràng. Tuy trở ngại là thế, nhưng anh ta không thể không giao tiếp với bất kỳ ai về những gì anh đang làm (thực ra là có thể đó, nhưng làm thế sẽ rất khó và rất buồn).
Có hai lợi ích mà một nhà đầu tư có thể nhận được, trong nỗ lực làm rõ và phân biệt hoạt động anh ta đang làm trong một môi trường đổi trắng thay đen như thế. Một là, giúp chính bản thân anh ta buộc phải hiểu rõ những gì anh ta đang làm. Mỗi dịp giải thích cũng là một lần nhắc nhở bản thân. Hai là, nếu anh ta thành công trong việc giúp một người nào đó hiểu đúng thực tế, anh ta tự nhiên sẽ nhận được một sự tín nhiệm nhất định từ người đó, giúp phân biệt anh ta khỏi đám đông ngoài kia. Tuy nhiên những lợi ích này có thực sự đủ lớn để đánh bật những thiệt hại đối với xã hội nói chung, và với những cá nhân thiện chí nói riêng hay không? Tôi nghĩ là không.
---
Một sự nhầm lẫn trông đơn giản, không quá nghiêm trọng, nhưng khi diễn ra đủ lâu, được thực hiện bởi đủ nhiều người, sẽ thực sự tạo ra những tác động lớn, lâu dài. Vậy tại sao điều đó lại diễn ra?
Tổng quát mà nói, đầu tư thì nhàm chán và buồn tẻ, đầu cơ thì hưng phấn và lôi cuốn. Đầu tư thì tốn công và mệt nhọc, đầu cơ thì nhẹ nhàng và dễ dàng. Đầu tư thì đơn lẻ và độc lập, đầu cơ thì nhộn nhịp và bầy đàn. Đầu tư thì lâu dài và an toàn, đầu cơ thì nhanh chóng và nguy hiểm. Nhưng là một nhà đầu tư thì có danh tiếng hơn, là một nhà đầu cơ thì bị coi thường hơn. Làm một công việc nhanh chóng, dễ dàng, nhộn nhịp, và mang lại sự hưng phấn, trong khi nhận được danh tiếng từ một việc lâu dài, mệt nhọc, đơn lẻ, và nhàm chán; đây thực sự là một hoạt động vô cùng lôi cuốn. Người tham gia trải qua muôn vàn cung bậc cảm xúc: sự hồi hộp khi đánh cược vào một mã cổ phiếu nào đó, sự hân hoan khi thu được lợi nhuận, và cả sự cay cú khi thua lỗ. Nó cho phép con người ta không cần đến sòng bạc, mà vẫn cảm nhận được những điều ấy. Bởi đây là thị trường chứng khoán, và những ai mua bán chứng khoán thì là nhà đầu tư. Với niềm vui và hứng thú mà hoạt động này mang lại, nếu một người nào đó tham gia, họ sẽ rơi vào cái bẫy cảm xúc đầy sự hưng phấn này.
Mà bạn biết gì không, nó thực sự dễ tham gia vô cùng. Có một nhóm người ở giữa, họ hiểu sự thỏa mãn ấy và họ nhìn thấy nhiều lợi ích nếu càng có nhiều người tham gia mua bán cổ phiếu. Họ đóng vai người hỗ trợ, giúp việc giao dịch diễn ra một cách đơn giản và dễ dàng hơn. Đặc biệt với sự phát triển của công nghệ, họ vô cùng thành công. Mặt khác, chính họ cũng trở thành người chỉ dẫn các nhà đầu tư ấy mua bán cái gì. Bởi mua bán càng nhiều, các nhà đầu tư càng cảm thấy hưng phấn, những người hỗ trợ nhận được càng nhiều. Cứ vậy, mua bán cổ phiếu trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Đó không chỉ là sự dễ dàng trong việc thực hiện mua bán, mà còn là cả sự dễ dàng trong việc đưa ra quyết định mua bán cái gì. Đây là một cái bẫy của sự dễ dàng.
Ngoài ra, có một cái bẫy khác, giúp cột chặt tấm lưới đã đầy ắp cá, cái bẫy của những người đồng hành. Một công việc có dễ dàng và lôi cuốn đến đâu, thì người ta sẽ chỉ còn thực hiện công việc đó chỉ khi nó mang lại thu nhập thỏa đáng. Nhưng việc thua lỗ trong mua bán cổ phiếu là điều sớm muộn sẽ gặp. Do đó, khi một nhà đầu tư bị thua lỗ một cách đáng kể, anh ta khả năng cao sẽ từ bỏ hoạt động này. Lẽ ra là vậy, nhưng thực tế lại khác khá nhiều. Tại sao lại vậy? Khi một nhà đầu tư thua lỗ, họ sẽ không chỉ đơn giản là đau đớn, thất vọng một mình, và từ bỏ; họ sẽ nhìn xung quanh. Và họ sẽ nhìn thấy nhiều và rất nhiều người, cũng đưa ra quyết định giống họ và cũng thua lỗ giống họ. Họ cảm thấy không còn sai nữa, bởi, họ sẽ nghĩ: “Nhìn đi, ai cũng vậy thôi, làm gì có chuyện tất cả đều sai được”. Lúc ấy cái sai không còn là là họ, mà là hoàn cảnh, là những thế lực khác phá hoại. Mà bởi họ không sai, họ sẽ không từ bỏ. Họ sẽ tiếp tục đầu tư, với những người bạn đồng hành.
Mà điều quan trọng cần chỉ ra là, gần như tất cả những người ấy, dù là người mua bán hay là người hướng dẫn và hỗ trợ, họ đang làm những điều họ đang làm trong khi tin rằng điều họ làm là đúng đắn. Bởi họ đang đầu tư, chứ không đầu cơ.

Sự khôi hài tiếp diễn

Trong số toàn bộ “những nhà đầu tư trên thị trường”, có một nhóm nhỏ đạt được kết quả vượt trội so với đám đông trong thời gian dài. Họ hành động dựa trên những nguyên tắc riêng, và gặt hái kết quả khác. Để phân biệt, họ được gọi với một cái tên khác, những nhà đầu tư giá trị, và phong cách đầu tư của họ thì được xem là “đầu tư giá trị”.
Đầu tư giá trị thường được định nghĩa là phương pháp đầu tư liên quan đến việc mua những chứng khoán bị định giá thấp so với giá trị thực của chúng, và sự định giá thấp đó thường được đo lường bởi những chỉ số cơ bản như: giá trên giá trị số sách, giá trên thu nhập, giá trên dòng tiền tự do, tỷ lệ cổ tức, v.v. Phong cách này cũng thường được hiểu đơn giản là mua cổ phiếu rẻ. Ngoài ra, từ “giá trị” này còn thường được hiểu với nghĩa đối lập với từ “tăng trưởng”. Cổ phiếu giá trị là những cổ phiếu của các công ty có lợi nhuận qua các năm ổn định, dễ đoán, và có mức định giá thấp, thường là thuộc những ngành có tính chất truyền thống; cổ phiếu tăng trưởng là những cổ phiếu của các công ty có lợi nhuận tăng trưởng mạnh qua các năm, được định giá với hệ số cao, thường là thuộc những lĩnh vực đổi mới, đột phá và sáng tạo; ví dụ: Coca-Cola với Nvida, Vietcombank với FPT, v.v.
Trường phái đầu tư giá trị được cho là xuất phát từ Ben Graham, bởi ông thường nhắc về việc mua cổ phiểu dưới giá trị nội tại, và sau này được phát triển thêm bởi những người đi theo ông.
Nhưng tôi lại không tin như vậy. Như phần trên có phần nào đề cập, Ben Graham không nói ông đang đầu tư giá trị, ông tin rằng thứ ông đang giảng dạy và thực hành là đầu tư (chỉ đơn giản là đầu tư), đối lập với hoạt động đầu cơ. Chính sự biến chất nghĩa của từ ‘đầu tư’ khiến cho mọi người (mà phần lớn là các chuyên gia) thiếu thốn từ ngữ để mô tả hành động của nhóm người khác thường này, để rồi họ phải kiếm thêm một từ khác để gọi tên những gì nhóm người ấy đang làm.
Nhưng trớ trêu thay, từ mới này lại một lần nữa được dùng với nghĩa khác với nghĩa đúng, nghĩa thực tiễn của nó. Theo tôi, và đương nhiên là học từ Warren, giá trị, hay giá trị nội tại của một doanh nghiệp, là toàn bộ dòng tiền tự do được kỳ vọng tạo ra bởi doanh nghiệp từ hôm nay cho đến ngày phán quyết cuối cùng, được chiết khấu về giá trị hiện tại. Trong định nghĩa này, bản thân tăng trưởng, hay sự tăng lên của dòng tiền qua các năm, là một phần cấu thành lên giá trị. Dòng tiền tự do của doanh nghiệp có thể tăng trưởng dương, bằng không, hay thậm chí là âm, thì doanh nghiệp đó vẫn có thể có giá trị. Khác xa so với từ giá trị mà các chuyên gia sử dụng, với sự tách biệt với tăng trưởng.
Thực tế này sinh ra một sự khôi hài, và có phần lố bịch. Nếu ta hiểu đúng nghĩa của hai từ ‘đầu tư’ và ‘giá trị’ thì khi nhìn vào cụm từ ‘đầu tư giá trị’, một dấu hỏi lớn khó hiểu sẽ xuất hiện. Giả sử ta tạm chấp nhận cụm từ này, vậy thì làm sao có tồn tại kiểu đầu tư khác cơ chứ? Nếu thứ đó có thực tồn tại, hẳn nhiên ta có thể gọi nó với một cái tên đối lập để phân biệt - đầu tư không giá trị. Mà ai lại đi đầu tư vào thứ không giá trị cơ chứ? Và bản thân việc bỏ vốn vào một thứ không giá trị thì ngay từ đầu có được xem là hành động đầu tư hay không? Hành động đó chả phải là đầu cơ hay sao? Sự tồn tại của cụm từ này, như Warren đã viết, là dư thừa.
Những nhà đầu tư đích thực tìm thấy bản thân họ trong một tình huống khó hiểu và cũng có phần rất khó chịu. Từ vốn ban đầu được dùng để diễn tả điều họ làm bị dùng bừa bãi và bị tráo nghĩa, để rồi khi được đặt cho một thuật ngữ mới, thì đám đông sử dụng cũng không hiểu đúng nghĩa của từ mới ấy. Nhiều lần, khi Berkshire sở hữu cổ phiếu của các doanh nghiệp có yếu tố tăng trưởng cao, như BYD hay Apple, các đầu báo đều giật tít với tiêu đề với kiểu nội dung như “Warren Buffett đang rời khỏi phong cách đầu tư giá trị”. Đọc đến đây, có lẽ bạn phần nào hiểu được cảm giác của Warren khi đọc và được hỏi về những chủ đề như vậy (kiểu ?!*?#?).
Tóm lại, việc lạm dụng bừa bãi từ “đầu tư” để chỉ bất cứ ai tham gia mua bán chứng khoán khiến nghĩa của nó bị đánh tráo và hiểu sai. Hậu quả là góp phần phổ biến hoạt động đầu cơ (nay được gọi với cái tên khác), và cản trở hoạt động đầu tư thực thụ. Những người tham gia với mong muốn gặt hái kết quả mà hoạt động đầu tư mang lại, phải đối mặt với nhưng rủi ro từ việc đầu cơ, bởi anh ta đầu cơ nhưng lại nghĩ mình đầu tư. Những nhà đầu tư chân chính gặp nhiều khó khăn trong việc giao tiếp, bởi thuật ngữ vốn mô tả những gì anh ta đang thực hiện lại không còn dùng được nữa. Tuy nhiên, một tia sáng lóe lên, một thuật ngữ mới, hứa hẹn phần nào giải quyết vấn đề. Để rồi chính bản thân lại là nạn nhân tiếp theo.
Liệu sẽ có sự chuyển biến tích cực hơn? Tôi cho rằng khả năng là rất rất thấp. Bởi vì, như đã đề cập trước đó, sự tráo nghĩa kia không phải là không có ích. Đó vừa là lợi ích kinh tế đối với những người chi phối cuộc chơi, và vừa là lợi ích cảm xúc với những người chơi. Và vì những lợi ích ấy, dù ngay từ đầu sự lẫn lộn trong tên gọi này có là vô tình hay cố ý đi nữa, thì việc duy trì nó sẽ là nỗ lực có chủ đích (dù kẻ duy trì có nhận thức được hay không).
Vậy ta nên làm gì, ta phải đầu hàng ư? Không. Ta nên làm điều nên làm, hiểu rõ ta đang làm gì. Nếu bạn muốn trở thành một nhà đầu tư, hãy thực hành đầu tư, chỉ đơn giản như thế là ta đã góp phần giúp ích cho hoạt động đầu tư rồi. Nếu bạn muốn trở thành một nhà đầu cơ, hãy biết rõ và thừa nhận hành động bản thân, và hãy đầu cơ một cách nghiêm túc và chuyên nghiệp. Và thi thoảng, cả hai hãy dành chút thời gian để giúp những người xung quanh hiểu rõ họ đang làm gì, giúp họ ít sai lầm đi một chút.