Ta cần bảy lý do để chết
Khi ta không còn rạo rực vì những áng văn đôi tay ta viết, khi ta không cảm được vẻ đẹp của những đồi thấp phía xa, khi ráng đỏ hoàng hôn không còn làm ta bồi hồi nữa, khi đôi môi và bờ ngực của người ta yêu không còn làm ta rung động, khi giấc ngủ ta bị quấy nhiễu bởi những suy nghĩ bi thương, khi tâm trí ta bị lôi kéo bởi những điều sai trái, và khi ta chỉ đơn giản là muốn thoát khỏi cuộc sống vô vị này. Ta sẽ không chần chừ để chọn tới cái chết.
Ta cần bảy lý do để sống
Khi ta rạo rực vì những áng văn đôi tay ta viết, khi ta cảm được vẻ đẹp của những đồi thấp phía xa, khi ráng đỏ hoàng hôn làm ta bồi hồi, khi đôi môi và bờ ngực của người ta yêu làm ta rung động, khi ta ngon giấc ngủ và không bị quấy nhiễu bởi những suy nghĩ bi thương, khi tâm trí ta còn chối bỏ được những điều sai trái, và khi ta tiếp tục còn muốn sống cuộc sống vô vị này.
Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy trăm năm nữa, ta vẫn sẽ ở đây, ta ở mọi nơi, ta không ở nơi nào cả.
Ulan Bator năm 1996, đã 5 năm từ khi người ta cách mạng đòi dân chủ thành công từ chính quyền cộng sản của Đảng Nhân Dân Mông Cổ, nhưng đất nước vẫn như trong cơn mơ ngủ. Một giấc ngủ dài, trầm ngâm và tĩnh lặng, trước những sóng gió lịch sử của hai cường quốc từ phía nam và phía bắc, của một Liên Xô đang hấp hối và một Trung Quốc đang trỗi dậy. Người Mông Cổ chậm rãi thu nhặt những bản sắc vụn vỡ của họ sau hàng trăm năm bị giằng xé giữa những thế lực xung quanh. Họ không phải người Sô Viết, họ không phải người Trung Quốc, họ không phải người Mỹ, không phải người "Thanh", họ không phải "Cộng sản", họ không phải "Tư bản". Họ là người du mục trên cao nguyên, là người trí thức lang bạt, là người lái xe tải lãnh đạm, là người thợ săn trầm mặc, là cô sinh viên "chửa hoang",... và là những con chó.
Trong đức tin của người Mông Cổ, loài chó có vị trí đặc biệt. Chúng linh thiêng, đáng tin cậy, và người ta tin rằng giết chó là điềm gở. Ulan Bator có rất nhiều chó hoang, và dù mọi người tránh chúng vì sợ bệnh tật, họ trong thành phố vẫn không quá phiền với lũ chó - xét cho cùng, chúng là những sinh vật gắn liền với đức tin và giá trị tâm linh, cũng như việc người ta thì luôn có thiện cảm với những con chó.
Nhưng chúng bắt đầu đẻ, và đẻ, chúng trở nên đông hơn, ồn ào hơn, bẩn thỉu hơn. Chính quyền thành phố bắt đầu phải cử người đi dẹp bớt chúng.
Chó là một sinh vật thông minh, chúng lanh lợi và có sức sống cao, nhưng kể cả một con chó có thông minh tới đâu, nó phải học cách chết - và hôm nay, Basaar học cách chết.
Basaar là một con chó khôn ngoan và trung thành, một trợ thủ đắc lực cho những bộ lạc trên cao nguyên - vì thế nên nó được chủ cưng nựng và yêu thương. Nó cảm nhận được tình yêu thương đó, nên nó không muốn phải lạc tới thành phố rồi bị bắn chết một cách vô tình như vậy. Nhưng có gì đó đang thay đổi, một thay đổi lớn tới mức mà chủ nó cũng không hiểu, huống hồ với một con chó như Basaar? Nó lạc và tìm đường về không được, nên nó cứ đi, đi qua một Mông Cổ đang dần tỉnh dậy từ một giấc ngủ dài, nó nhìn thấy người ta đi viếng mộ gia đình, thấy người ta trồng cây dịp xuân về, nó nhìn thấy những con mèo, những con chim, những con chó khác hòa vào dòng người xô đẩy cố thích nghi với một nước Mông Cổ mới.
Nó cảm nhận được đức tin, nó cảm nhận được sự quan trọng của linh hồn. Xã hội mới xa lạ, phức tạp và xô bồ, người ta bán được cái gì thì bán, nhưng cố gắng giữ linh hồn của họ lại. Nhưng linh hồn ở đâu? Bán thế nào? Có người bảo rằng linh hồn của người ta sống ở trong cái mũ, thế nên người ta kị bán lại cái mũ của mình. Nhưng Basaar cũng có linh hồn, mà nó đâu có đội mũ? Vậy linh hồn là gì?
Ta cần bảy lý do để sống, ta cần bảy lý do để chết.
Rồi nó gặp một cô gái trẻ, dịu dàng, ân cần và cảm thông, không như sự lạnh lùng tới ngộp thở xung quanh nó. Cô gái đó là một sinh viên ở Ulan Bator, cô học gì, cô có ước mong gì, cô có hoài bão gì, Basaar không rõ, cô giữ cho riêng mình, nhưng nó cảm nhận được rằng cô ấy tin vào tương lai dù hiện tại có cô độc thế nào đi chăng nữa. Cô gái đó đang có thai, và người bố thì không thấy đâu cả, nhưng Basaar không quan tâm - Basaar không đồn đoán, dị nghị, Basaar đáp trả sự yêu thương bằng sự yêu thương, kể cả sau khi cô ấy đó nói lời từ biệt.
Nhìn qua những khung cửa sổ mòn nát của chiếc xe bus cũ mèm, nó cảm nhận được sự lo âu, nó cảm nhận được sự vô định của thai phụ trẻ trong một nước Mông Cổ dường như đã trở nên xa lạ.
Người Mông Cổ còn có một đức tin nữa về những chú chó, đó là khi một chú chó chết đi, chúng sẽ hóa kiếp thành một con người. Và khi linh hồn của Basaar dạo xong những nơi nó từng đến, những kí ức nó từng trải và siêu thoát khỏi nhân gian, cô gái trẻ kia hạ sinh một em bé.
Nước Mông Cổ, ảm đạm và vô định, nhưng đang tái sinh. Bầu trời tối lại vì nhật thực, rồi lại sáng, một Mông Cổ cũ chết đi, một Mông Cổ mới sinh ra.