Bài gốc: https://www.nytimes.com/2016/01/10/magazine/the-lawyer-who-became-duponts-worst-nightmare.html (một bài báo mang phong cách 007 đến từ The New York Times, nó sắp được chuyển thể thành phim rồi á)
Chỉ vài tháng trước khi Rob Billot bắt đầu làm việc tại Taft Stettinius & Hollister, ông ấy nhận được một cuộc điện thoại đến từ đường dây chính từ một người chăn nuôi gia súc. Người nông dân này, Wilbur Tennant đến từ Parkersburg, West Virginia, nói rằng bò của ông ấy đang chết như rạ. Ông ấy tin rằng công ty hoá chất DuPont có trách nhiệm trong vụ việc này vì gần đây công ty này mới mở một cơ sở rộng gấp 35 lần Lầu Năm Góc tại Parkersburg. Người nông dân nói rằng ông ấy đã cố gắng tìm sự trợ giúp từ địa phương nhưng DuPont gần như đã thâu tóm cả thị trấn. Không chỉ các luật sư ở Parkersburg, mà các chính trị gia, nhà báo, bác sĩ và các bác sĩ thú y đều từ chối ông ấy, người nông dân có chất giọng Appalachian đặc sệt nói trong cơn giận dữ. Bilott cố hiểu câu chuyện mà người đàn ông này đang kể một cách chật vật và ông có thể đã cúp máy nếu Tennant không buột miệng nhắc đến cái tên Alma Holland White, bà của Bilott.
Bà White đã sống ở Vienna, vùng ngoại ô phía bắc Parkersburg, và khi còn nhỏ, Bilott thường ghé thăm bà vào mùa hè. Vào năm 1973, bà đã đưa ông ấy đến trang trại gia súc của nhà Graham, hàng xóm với nhà Tennant, nơi bà quen biết. Bilott đã cưỡi ngựa, vắt sữa bò và xem đội Secretariat thắng Triple Crown trên TV. Đó là hồi ông 7 tuổi. Chuyến viếng thăm trang trại nhà Graham là một trong những kí ức tươi đẹp nhất tuổi thơ ông.
Năm 1998, khi nhà Grahams biết Wilbur Tennant đang tìm kiếm sự giúp đỡ về mặt pháp lý, họ liền nhớ tới người cháu của bà White, Bilott, một luật sư về môi trường. Nhưng họ không hiểu rằng Bilott không phải loại luật sư môi trường họ đang tìm. Ông không đại diện cho cá nhân nguyên đơn. Tương tự như 200 luật sư đang làm việc tại Taft, một cơ quan thành lập năm 1885, gắn bó lịch sử với gia đình tổng thống William Howard Taft, Bilott gần như chỉ làm việc với những khách hàng là các công ty lớn. Chuyên môn của ông là bảo vệ cho các công ty hoá chất. Thậm chí Bilott đã nhiều lần làm việc với các luật sư của DuPont. Tuy nhiên, đáp lại sự nhờ cậy của người bà, Bilott đồng ý gặp mặt người nông dân. “Tôi chỉ thấy đó là điều đúng đắn nên làm” - Bilott chia sẻ - “Tôi cảm thấy có một sự liên kết giữa tôi và những người nông dân đó.”
Tuy nhiên sự liên kết ấy không rõ ràng ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên của họ. Khoảng một tuần sau cuộc điện thoại nọ, Tennant cùng vợ lái xe từ Parkersburg đến cơ quan Taft ở nội thành Cincinnati. Họ đem theo những hộp bìa cạc tông đựng băng phim, hình ảnh và những tập tài liệu, đưa chúng vào quầy tiếp tân ở tầng 18, nơi họ ngồi trên một cái ghế dài màu xám đặt dưới bức tranh sơn dầu vẽ chân dung của một trong những người sáng lập ra Taft. Tennant - một người đàn ông lực lưỡng, cao gần 2m, mặc quần jean với áo kẻ ca rô đầu đội nón bóng chày - trông không giống những khách hàng Taft thường tiếp. ‘Ông ấy tới Taft trong bộ dạng trông chả giống mấy ông chủ tịch ngân hàng, đại loại vậy.” - Thomas Terp một đồng nghiệp và cũng là người giám sát Bilott cho biết.

Terp và Bilott cùng tham gia buổi gặp gỡ. Wilbur Tennant giải thích rằng ông và 4 người anh em đã cùng nhau quản lý trang trại kể từ khi người cha bỏ rơi họ lúc họ mới chỉ là những đứa trẻ. Lúc bấy giờ họ chỉ có 7 con bò. Qua nhiều thập kỷ, dần dà họ mở rộng khu đất và đàn gia súc, đến nay đã là 200 con bò trên 600 acres đồi núi. Mảnh đất còn có thể rộng hơn nữa nếu không vì người anh trai Jim và vợ của ông ấy, Della, đã bán đi 66 acres cho DuPont vào đầu những năm 80. Công ty (DuPont) muốn sử dụng mảnh đất làm bãi nhận chất thải từ nhà máy của họ gần Parkersburg, Washington Works, nơi Jim được nhận làm công nhân. Tuy Jim và Della không muốn bán nhưng Jim mắc một chứng bệnh nan y vô phương chữa trị nhiều năm nay và họ đang cần tiền gấp.
DuPont đặt tên cho khu đất là Dry Run Landfill, theo tên của con lạch chạy qua đây. Cùng một con lạch đó chạy dài đến bãi đồng cỏ nơi gia đình Tennant cho bò gặm. Không lâu sau bán đi mảnh đất, Wilbur kể, đàn gia súc bắt đầu có những biểu hiện điên loạn. Trước giờ chúng (bò) luôn hành xử như những con vật nuôi với gia đình Tennant. Khi gặp họ (Tennant) chúng sẽ lững thững bò lại, đánh hơi và thoải mái cho họ vắt sữa. Nhưng giờ đây không còn như thế nữa, khi thấy người nông dân, chúng trở nên điên loạn.
Wilbur cho một băng video vào đầu máy VCR. Tư liệu được ghi hình bằng loại máy quay cầm tay, độ phân giải thấp và khúc cắt chuyển cảnh đột ngột. Hình ảnh liên tục thay đổi chớp nháy. Âm thanh lúc dồn dập lúc chậm lê thê. Nó giống như một bộ phim kinh dị. Ở cảnh mở đầu máy quay lia quanh con lạch. Những thước phim ghi lại hình ảnh khu rừng xung quanh, những cây thân trắng dần rụng lá và dòng nước cạn gợn sóng lăn tăn, trước khi dừng lại trước một thứ gì đó có vẻ như là một ụ tuyết tại khúc cua của con rạch. Máy quay phóng to hình ảnh cho thấy một đám bọt xà phòng.
“Tôi đã nhặt xác của 2 con nai và 2 con gia súc tại con rạch này,” Tennant nói trong phần ghi âm. “Máu tuôn ra từ mũi và miệng của chúng. ...Họ đang cố gắng lấp liếm vụ việc. Nhưng họ sẽ không giấu mãi được đâu vì tôi sẽ vạch trần nó.”
Đoạn video cho thấy một ống lớn dẫn dòng nước xanh lá cây với bong bóng vào con lạch. “Đây là thứ mà họ định để cho đàn bò của tôi uống trên chính mảnh đất của tôi,” Wilbur nói. “Đã tới lúc mấy người trên liên bang hay ai đó làm nhiệm vụ của họ.”

Ở một đoạn khác, thước phim cho thấy một con bò gầy còm đứng trong đám cỏ khô. Từng mảng lông của nó bị rụng và lưng của con vật bị gù lên, đó chính là hậu quả của sự tổn thương ở thận - Wilbur suy luận. Hàng loạt bằng chứng khác được thể hiện, trong đó có cận cảnh xác một con bê đen nằm trên tuyết; nó có đôi mắt mang màu xanh kỳ lạ, màu xanh của hoá chất. “Tôi đã mất một trăm năm mươi ba vật nuôi ngay trên chính trang trại của mình.”, Wilbur nói trong đoạn video. “Mọi bác sĩ thú y mà tôi liên lạc ở Parkersburg đều không trả lời cuộc gọi của tôi hoặc họ không muốn liên lụy. Và vì vậy mà tôi đành phải tự tay khám nghiệm những sinh vật này. Tôi sẽ bắt đầu từ cái đầu của nó.” 
Đoạn video chuyển tới hình ảnh đầu của một con bê bị cắt đôi. Những thước quay cận cảnh cho thấy hàm răng nhuốm đen của con bê (“Họ nói đó là do nồng độ flo cao trong nguồn nước mà chúng uống”), cả gan, tim, bao tử, thận và túi mật cũng vậy. Từng cơ quan bị xẻ đôi và Wilbur chỉ ra những bất thường trong màu sắc - đôi chỗ có màu xanh, đôi chỗ sẫm màu - và cả trong kết cấu của chúng nữa. “Tôi còn không thích nhìn chúng,” ông nói. “Tôi chưa từng nhìn thấy thứ gì giống vậy.”
Bilott xem đoạn video và quan sát những tấm hình đó suốt vài tiếng đồng hồ. Ông ấy thấy đàn bò với cái đuôi dài ngoằng, móng guốc dị dạng, vết thương lớn lồi ra từ bờm và cặp mắt đỏ ngầu của chúng; đàn bò bị tiêu chảy, miệng sùi bọt trắng như kem đánh răng, chân còng xuống như những tên say rượu. Tennant luôn quay cận cảnh vào mắt của những con bò. “Con này đã trải qua nhiều thứ tồi tệ,”  ông ấy sẽ nói như vậy, khi cái chớp mắt choáng lấy trên màn hình.
“Điều này thật sự tệ,” Bilott tự nhủ. “Một điều tồi tệ đang xảy ra ở đây.” 
 Bilott liền quyết định nhận vụ của Tennant. “Đó chỉ là một điều đúng đắn nên làm.” ông ấy lặp lại. Bilott mặc dù có những kinh nghiệm làm luật sư đại diện cho doanh nghiệp - những người ăn nói nhỏ nhẹ, vóc dáng thư sinh, ăn mặc bảo thủ - nhưng cơ duyên đưa ông đến với công việc này khá đặc biệt. Hồ sơ xin việc của ông ấy không giống với các hồ sơ khác ở Taft. Ông ấy không học đại học hay trường luật của Ivy League. Cha ông là một sĩ quan trong lực lượng không quân và phần lớn tuổi thơ của Bilott gắn liền với sự di chuyển khắp các căn cứ không quân gần Albany; Flint ở bang Michigan; Newport Beach ở bang California; và Wiesbaden, ở Tây Đức. Bilott đã học ở 8 trường trung học khác nhau trước khi tốt nghiệp tại trường trung học Fairborn, gần căn cứ không quân Wright-Patterson của bang Ohio. Năm lớp 11, ông nhận được thư mời học của một trường mỹ thuật nhỏ ở Sarasota tên là New College of Florida. Trường này chấm điểm trượt hoặc đậu và cho phép học sinh tự chọn môn. Nhiều người bạn của Bilott ở trường mang tư tưởng cấp tiến, duy tâm - những lý tưởng không phù hợp dưới thời của tổng thống Reagan. Ông ấy trao đổi riêng với các giáo sư và tự rút ra cho mình quan điểm rằng: “Tôi học được cách luôn chất vấn những điều mình đọc.” ông nói “Đừng nhìn nhận một sự việc chỉ qua những giá trị bề mặt. Đừng quan tâm đến những lời đàm tiếu. Tôi thích triết lý đó.” Bilott học về khoa học chính trị và viết luận án về sự trỗi dậy và sụp đổ của Dayton. Ông hi vọng một ngày sẽ trở thành quản lý thành phố. 
Tuy nhiên cha ông, một người đến tận những năm về sau mới nhập học trường luật, đã khuyến khích ông theo học luật. Trước sự ngạc nhiên của các giáo sư, ông đăng kí theo học trường luật tại Ohio, tại đây Luật Môi Trường là môn học yêu thích của ông. “Trông có vẻ như nó sẽ có tác động thực tế đến cuộc sống,” ông nói. “Đó là điều bạn có thể làm để thay đổi thế giới.” Sau khi tốt nghiệp, lúc Bilott nhận được lời đề nghị của Taft, thầy cô và bạn bè tại trường đã vô cùng kinh ngạc. Họ không hiểu nổi làm sao mà ông có thể làm việc tại một doanh nghiệp lớn như vậy, chưa ai từng đặt chân vào những nơi như vậy. “Gia đình bảo tôi đó là một công ty lớn, nơi mở ra vô vàn những cơ hội,” ông nói. “Tôi không quen biết bất kì ai đã từng làm việc cho một công ty, không ai biết gì về nó cả. Tôi chỉ cố gắng bắt lấy cơ hội việc làm tốt nhất. Tôi hoàn toàn không có một chút ý niệm gì về những chuyện dính líu.
Tại Taft, ông được chỉ định làm việc cùng nhóm môi trường của Thomas Terp. 10 năm trước, Quốc hội đã thông qua một điều luật được biết đến qua tên gọi Quỹ Khổng Lồ (Superfund), giúp chi trả cho những trường hợp khẩn cấp xử lý chất thải gây nguy hiểm. Quỹ Khổng Lồ là một cơ hội phát triển đầy béo bở đối với những công ty như Taft, tạo ra một lĩnh vực mới trong luật môi trường, một lĩnh vực đòi hỏi hiểu biết chuyên sâu về luật để dẫn dắt những cuộc thương lượng giữa các cơ quan quản lý đô thị và hàng loạt các doanh nghiệp tư nhân. Nhóm của Terp tại Taft là người dẫn đầu trong lĩnh vực ấy.
Với vai trò cộng tác, công việc của Bilott là nhận định công ty nào phải chịu trách nhiệm cho những hoá chất và chất thải độc hại nào, thải ra một lượng bao nhiêu, và thải ra tại đâu. Ông lấy lời khai của nhân viên công ty, đọc kỹ các hồ sơ công khai, và sắp xếp quản lý một lượng lớn dữ liệu lịch sử. Ông trở thành một chuyên gia về khuôn khổ luật lệ của Cơ Quan Bảo Vệ Môi Trường, đạo luật Nước uống an toàn, đạo luật Môi trường khí thở sạch, đạo luật Kiểm soát hóa chất độc hại. Ông nắm vững tính chất hoá học của các chất gây ô nhiễm dù hoá là môn học ông học tệ nhất những năm cấp 3. "Tôi học cách mà các công ty này hoạt động, cách luật được thi hành và cách làm sao để biện hộ trước những cáo buộc," ông nói. Ông trở thành một tay lão luyện trong ngành.
Bilott cảm thấy tự hào về công việc ông đã làm. Theo ông, phần quan trọng nhất trong công việc là giúp đỡ khách hàng thích ứng với các điều luật mới. Rất nhiều các khách hàng của ông, bao gồm Thiokol và Bee Chemical, đã thải các hóa chất độc hại vào môi trường trong một thời gian dài trước khi luật được siết chặt. Ông làm việc nhiều giờ liền và không quen biết nhiều người ở Cincinnati. Một đồng nghiệp cùng nhóm môi trường, nhận thấy tình trạng thiếu thốn tương tác xã hội của Billott, đã giới thiệu ông với Sarah Barlage, một người bạn thời thơ ấu của mình. Bà ấy cũng là một luật sư tại một văn phòng Cincinnati khác, tại đây bà nhận biện hộ cho các công ty trước các cáo buộc bồi thường cho công nhân. Bilott cùng ăn trưa với 2 người. Sarah không nhớ liệu Bilott đã có nói gì trong suốt bữa ăn.  “Ấn tượng đầu tiên của tôi về anh ấy là anh ấy không giống như bất kì người đàn ông nào tôi từng gặp,” bà nói. “Tôi là một người thích trò chuyện. Anh ấy thì ít nói. Chúng tôi hoàn thiện lẫn nhau.”
Họ kết hôn vào năm 1996. Hai năm sau đó, đứa con trai cả trong số ba anh em chào đời. Ông cảm thấy công việc tại Taft đủ ổn định để Barlage có thể nghỉ việc và tập trung chăm lo cho gia đình. Terp, sếp của Bilott tại Taft, luôn coi ông là một luật sư đầy triển vọng: “hết sức sáng suốt, tràn đầy năng lượng, đầy kiên quyết và vô cùng thận trọng, kỹ lưỡng.” Bilott là một luật sư tiêu biểu tại Taft. Và rồi đến vụ Wilbur Tennant.