Nguồn gốc của câu nói "rừng vàng biển bạc" và ý nghĩa

Mỗi khi nhắc đến non sông gấm góc Việt Nam cường thịnh ta thường nhớ đến ngay câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh :
"Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt; Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu… " ( Bài nói chuyện tại Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa 3 ngày 16/4/1962).
“Nước ta có “rừng vàng biển bạc”, nhân dân ta cần cù” (Bài nói tại Hội nghị nghiên cứu lịch sử Đảng của Ban Tuyên giáo trung ương, ngày 28/11/1959)
Các câu nói trên đều rất nổi tiếng và chắc hẳn không ít người trong chúng ta nghĩ rằng đây chính là nguồn gốc của danh xưng "rừng vàng biển bạc". Thế nhưng sự thực có phải vậy ? Câu trả lời là hoàn toàn không. Chính Bác cũng từng nêu rõ : “Tục ngữ ta có câu “rừng vàng biển bạc”. Như vậy đây chính là bằng chứng xác thực nhất chứng minh danh xưng trên thực chất là một câu tục ngữ và đã tồn tại rất lâu xuyên suốt lịch sử bốn nghìn năm đất nước.
Quay ngược dòng thời gian thật xa để tìm hiểu về lý do ra đời của câu tục ngữ, từ trước thời các vua Hùng ta bắt gặp hình ảnh Lạc Long Quân và Âu Cơ - một người là giống rồng làm chủ biển cả còn một người là nòi tiên ban phát lộc lành nơi rừng núi hai người họ đã gặp, phải lòng nhau rồi kết nên thiên duyên dù nhiều cách trở.
Sau đó Âu Cơ có thai nhưng kì lạ là ngày nàng trở dạ lại đẻ ra một bọc trăm trứng khổng lồ. Bọc nở ra và 100 người con trai xuất hiện cao lớn như thổi, chỉ sau một tháng đã cái thế anh hùng cao to 3 thước 7 tấc ( theo Ngọc ngả Đền Hùng). Về sau 100 người con một nửa theo mẹ lên non, một nửa vâng cha xuống biển chia nhau cai quản đất nước, 50 người con trai theo mẹ Âu Cơ sau này đã lập ra nhà nước Văn Lang - nhà nước được coi là đầu tiên của nước Việt Nam sau này.
img_0
Câu chuyện bước ra từ truyền thuyết kể trên tuy không hoàn toàn có thật nhưng nó cũng lí giải cho ta phần nào quan niệm của người Việt khi nghĩ về nguồn gốc của mình. Họ coi rừng là mẹ, biển là cha và sự trù phú của hai tài nguyên này đã nuôi dưỡng họ. Vì vậy nên câu nói "rừng vàng biển bạc" sinh ra với ý nghĩa nhằm tôn vinh sự giàu có, quý giá của thiên nhiên đồng thời chất chứa tình yêu, niềm tự hào, kính yêu đối với giang sơn gấm vóc.

Vậy địa lý nói gì ?

Câu tục ngữ như đã được phân tích ở trên nhằm tôn vinh tài nguyên thiên nhiên của đất nước nên ở đây ta sẽ chủ yếu phân tích trên bình diện này để có nhận xét khách quan nhất.
Để đánh giá về tài nguyên thiên nhiên của một nước người ta thường nhắc đến 3 yếu tố chính bao gồm tài nguyên sinh vật, tài nguyên đất và các tài nguyên khác ( khoáng sản, nước ). Vậy ở Việt Nam chúng ta có gì ?
- Thứ nhất về tài nguyên sinh vật với hai mục có quan hệ chặt chẽ với nhau là tài nguyên rừng và đa dạng sinh vật :
+ Với tài nguyên rừng : Rừng là một phần của tài nguyên thiên nhiên, thuộc loại tài nguyên tái tạo được và ở nước ta hiện nay rừng tự nhiên có 10.134.082 ha, rừng trồng có 4.655.993 ha; diện tích rừng đủ tiêu chí tính tỉ lệ che phủ là 13.926.043 ha suy ra tỉ lệ che phủ rừng toàn quốc là 42,02%.
img_1
img_2
Trong thời kỳ  1945 – 1975 cả nước mất khoảng 3 triệu ha rừng, bình quân 100.000 ha năm. Quá trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn 1975 – 1990: Mất 2,8 triệu ha, bình quân 140.000 ha/ năm. Nguyên nhân chính làm mất rừng trong giai đoạn này là do dân số tăng nhanh,  nạn đốt  nương  làm  rẫy  tràn  lan,  quá  trình  khai  hoang  lấy  đất  trồng  các  cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su và khai thác gỗ xuất khẩu. Tuy nhiên từ  những  năm  1990  –  1995,  do  công  tác  trồng  rừng  được  đẩy  mạnh  đã phần nào làm cho diện tích rừng tăng lên. 
Về chất lượng, trước năm 1945 rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng 200 – 300m3/ha, trong đó các loài gỗ quí như đinh, lim, sến, táu, nghiến, trai, gụ là rất phổ biến. Những cây gỗ có đường kính 40 – 50cm chiếm tới 40 – 50% trữ lượng của rừng. Rừng tre nứa với những cây tre có đường kính 18 – 20cm, nứa 4 – 6cm và vầu 8 – 12cm rất phổ biến (Hoàng Hòe, 1998). Hiện nay chất lượng rừng đã giảm sút đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo có giá trị kinh tế không cao. Trữ lượng gỗ rừng năm 1993  ước  tính  khoảng  525  triệu  m3  (trung  bình  76  m3/ha).  Tốc  độ  tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam hiện nay là 1 – 3m3/ha/năm, đối với rừng trồng có thể đạt 5 – 10 m3/ha/năm (Castren, 1999).
Ngoài tài nguyên gỗ, rừng Việt Nam cũng rất giàu có về các loài tre  nứa  (khoảng  40  loài  có  ý  nghĩa  thương  mại  và  khoảng  4  tỷ  cây  tre nứa); Song mây có khoảng 400 loài ; hàng năm khai thác khoảng 50.000 tấn..
Trong rừng Việt Nam cũng phong phú về các loài dược liệu, hiện đã biết được 3800 loài (Viện Dược liệu, 2002), trong đó có nhiều loài đã được biết và khai thác phục vụ cho việc chế biến thuốc. Nhiều loài cây cho chất thơm, tanin, tinh dầu và dầu béo. Ngoài ra, rừng còn cung cấp nhiều loại sản phẩm quý khác như cánh kiến, nấm, mật ong, hoa lan, thịt thú rừng.
==> Rừng nước ta đa dạng phong phú về kiểu hình và là lớp nền thúc đẩy phát triển đa dạng sinh vật tuy nhiên cần khai thác hợp lý vì Bác đã từng nói :
"Gây rừng và bảo vệ rừng là rất cần thiết. Hiện nay nước ta còn cái tệ phá rừng, thế thì khác nào đem vàng đổ xuống biển?”
+ Hệ sinh vật : Nước ta có hệ sinh vật lớn, phong phú với hơn 51.400 loài sinh vật tại Việt Nam, trong đó có khoảng 7.500 loài/chủng vi sinh vật; 20 nghìn loài thực vật; 10.900 loài động vật; 2.000 loài động vật không xương sống và cá ngước ngọt; 11.000 loài sinh vật biển… nhiều loài mang loại giá trị kinh tế cao.
img_3
Hiện nay, có rất nhiều loài thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng cần được bảo vệ như: cẩm lai (Dalbergia bariaensis), trầm hương (Aquilaria crassna) sam bông (Amentotaya argotenia), thông tre (Podocarpus neriifolius), gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), trắc (Dalbergia cochinchinensis), giao xẻ tua (Sterospermum ferebriatum), gạo bông len (Bombax insigne).
Các loài động vật quý hiếm như: báo gấm (Neophelis nebulosa), voọc quần đùi trắng (Trachipythecus francoisi delaconri), gà lôi hồng tía (Lophura  diardi),  trĩ  sao  (Rheinartia  ocellata),  chồn  bạc  má  (Megogale personata  geeoffrory),  cu  li  lớn  (Nycticebus  coucang  boddaert),  bò  tót (Bos gaurus), cà tong (Cervus eldi), hổ  (Panthera tigris).
==>Việt Nam là quốc gia vùng nhiệt đới có sự đa dạng sinh vật rất cao, trong đó những loài đặc hữu quý hiếm, có giá trị cao. Hiện nay tình trạng suy giảm môi trường sống của các loài sinh vật và biển đổi khí hậu đã gây ảnh hưởng tiêu cực lên sinh vật bức thiết yêu cầu mỗi cá nhân đều cần quan tâm đến bảo vệ môi trường.
- Thứ hai, về tài nguyên đất : Nước ta đa dạng phong phú về tài nguyên đất với 3 bộ phận chính là đất phù sa, đất đỏ và các loại đất khác. Tuy ưu và nhược khác nhau song đều có thể có cách sử dụng hợp lý để phát triển kinh tế.
Mặt khác nước ta hiện nay đặc biệt đáng chú ý với trữ lượng đất hiếm lớn trong đất mang lại cho nước ta giá trị kinh tế cao vì đây là nguyên liệu không thể thiếu trong sản xuất vi mạch nhất là khi 2 cường quốc Mỹ và Trung còn đang cạnh tranh vô cùng ác liệt trong lĩnh vực này đã khiến nước ta kí được nhiều hiệp định kinh tế có lợi.
Hình ảnh khai thác đất hiếm
Hình ảnh khai thác đất hiếm
Đất của Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều, nhiệt độ không khí cao, khoáng hoá mạnh, dễ bị rửa trôi, bào mòn, sự màu mỡ cùa đất dễ bị thoái hoá, môi trường đất rất nhạy cảm với mọi sự biến đổi và khó khôi phục lại trạng thái ban đầu. Theo số liệu thống kê năm 2016 có đến 13 triệu ha đất của Việt Nam bị suy thoái thành đất trống, đồi núi trọc, trong đó những diện tích đã bị trơ sỏi đá và khoảng hơn 1,5 triệu ha mất khả năng sinh sản. Đồi núi trọc không có rừng chiếm gần 12 triệu ha. Nếu kể cả đất và mặt nước đang bị bỏ hoang thì diện tích đất trống, đồi trọc toàn quốc lên tới hơn 13 triệu ha. Ở khu vực đất lâm nghiệp, diện tích đất trống, đồi núi trọc chiếm tỉ lệ đáng lo ngại, đến nay vẫn chưa cổ chuyển biến rõ nét. Bên cạnh đó, những di hại do chiến tranh hoá học của đế quốc Mĩ để lại trong gần 50% diện tích đất trồng trọt, đất lâm nghiệp ở miền Nam cũng là tác nhân gây suy thoái đất. Theo số liệu điều tra, hàng triệu ha đất rừng trước đây bị tác hại của chiến tranh hoá học vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng, một phần rừng trên các diện tích đó không có khả năng tự hồi phục.
==> Đất ở nước ta mang tới cho quốc gia nhiều nguồn lợi về kinh tế, xã hội, y học,... nhưng cần được sử dụng và khai thác hợp lý.
- Cuối cùng, về các loại tài nguyên khác :
+ Tài nguyên nước : Tình trạng ngập lụt và mùa mưa, thiếu nước vào mùa khô và ô nhiễm môi trường nước là hai vấn đề quan trọng nhất trong việc sử dụng tài nguyên nước hiện nay với hàng loạt các sự kiện gần nhất như việc thiếu nước ở khu đô thị Thanh Hà gây ảnh hưởng rất lớn đến người dân rồi ô nhiễm nuồn nước ở hàng loạt sông lớn gây quá tải cho hệ thống lọc.
+ Tài nguyên khoáng sản : Nước ta vô cùng phong phú về tài nguyên khoáng sản với nhiều mỏ cỡ như than, chì, sắt, crom và dầu mỏ đều là các nguyên liệu quan trọng cho ngành công nghiệp nhưng cần quản lý chặt chẽ hơn trong khai thác tráng lãng phí tài nguyên và làm ô nhiễm môi trường.
+ Tài nguyên du lịch : Cần bảo tồn, tôn tạo giá trị tài nguyên du lịch và bảo vệ cảnh quan du lịch khỏi bị ô nhiễm, phát triển du lịch sinh thái.
+ Khai thác, sử dụng hợp lý và bền vững các nguồn tài nguyên khác như khí hậu trong năng lượng hay biển trong làm muối.....
==>
==> Thiên nhiên nước ta giàu về số lượng và chất lượng là nền móng vững chắc cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
* Lý giải nguyên nhân nước ta giàu tài nguyên :
- Vị trí địa lý quy định đặc điểm cơ bản của thiên nhiên là nhiệt đới ẩm gió mùa với nền nhiệt ẩm cao nên tạo điều kiện thuận lợi cho động thực vật phát triển và phân hóa đa dạng.
- Nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa châu Á nên có 2 mùa rõ rệt.
- Giáp biển Đông là nguồn dự trữ dồi dào về nhiệt và ẩm, chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển Đông.
- Nằm trên vành đai sinh khoáng châu Á - Thái Bình Dương nên có tài nguyên khoáng sản phong phú.
- Nằm trên đường di cư và di lưu của nhiều loài động thực vật nên tài nguyên sinh vật đa dạng và số lượng lớn.
==> Vị trí, hình thể và địa chất tạo nên thiên nhiên, tài nguyên nước ta phong phú đa dạng nên câu nói đất nước ta có "Rừng vàng biển bạc" là hoàn toàn chính xác có cơ sở khoa học chứng thực chứ ko hề vô căn cứ như nhiều người nghĩ.

Một góc nhìn khác :

Bên cạnh việc được hưởng lợi từ những tài nguyên thiên nhiên chúng ta cũng phải đối mặt với những khó khăn nhất định :
+ Nước ta thường xuyên bị nhòm ngó do sở hữu số lượng tài nguyên lớn.
Thời trung đại các thế lực phương Bắc nhòm ngó ta vì nhiều lý do nhưng trong đó ko thể thiếu sự thèm muốn hệ sinh vật nhiệt đới đa dạng ở nước ta.
Đến thời đương đại thực dân Pháp lăm le xăm lược ta vì ta sở hữu nhiều tài nguyên than được gọi là vàng đen vì trong thế giới động cơ nhiệt khi ấy than là trục quay của thế giới còn tới đế quốc Mỹ thực hiển nhiên cũng nhắm tới những nguồn lợi ta mang lại trong thời gian bị thuộc địa khi có nhiều vùng thích hợp trồng cây công nghiệp.
Tất cả những điều trên tuy đều chỉ là một phần nguyên nhân nhưng đều góp phần làm cho dân tộc ta gặp các trướng ngại lớn trong lịch sử và phải đấu tranh bảo vệ rất nhiều thời gian khiến đời sống nhân dân đói khổ bị bóc lột.
+ Trong ngoại giao nước ta cũng luôn cần cư xử khôn khéo để đảm bảo được những lợi ích cho đất nước vì người xưa có câu : "Thất phu vô tội, hoài bích có tội" dân tộc ta định sẵn phải đương đầu với những khó khăn này do món quà được tự nhiên ban không phải cho không.
+ Cần nhiều chính sách sử dụng hợp lý để không gây hậu quả nghiêm trọng tới môi trường.

Hậu quả nếu sử dụng không hợp lý

Tài nguyên cạn kiệt một cách đáng tiếc không thể hồi phục.
Gây nhiều hệ luỵ tới môi trường và làm xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thiên tai ở nước ta :
I, Bão :
a) Hoạt động của bão ở Việt Nam:
- Trên toàn quốc, mùa bão bắt đầu từ tháng VI và kết thúc vào tháng XI, bão sớm vào tháng V và muộn sang tháng XII, nhưng cường độ yếu.
- Bão tập trung nhiều nhất vào tháng IX, sau đó đến các tháng X và tháng VIII. Tổng số cơn bão của hai tháng này chiếm tới 70% số cơn bão trong  mùa.
- Mùa bão ở Việt Nam chậm dần từ Bắc vào Nam. Bão hoạt động mạnh nhất ở ven biển Trung Bộ.
- Trung binh mỗi năm có 3-4 cơn bão đổ bộ vào vùng biển nước ta, năm nhiều có 8 - 10 cơn.
b) Hậu quả của bão ở Việt Nam
img_4
- Gió mạnh kèm theo mưa lớn gây ngập lũ trên diện rộng, lật úp tàu thuyển trên biển, làm mực nước biển dâng cao gây ngập mặn vùng ven biển.
- Bão lớn, gió giật mạnh  tàn phá cả những công trình vững chắc như nhà cửa, công sở, cầu cống, cột điện cao thế... gây nhiều thiệt hại về người và tài sản.
c) Biện pháp phòng chổng
- Dự báo được khá chính xác quá trình hình thành và hướng di chuyển của bão.
- Khi có bão, các tàu thuyền trốn biển phải gấp rút trở về đất liền hoặc tìm nơi trú ẩn.
- Vùng ven biển cần cũng cố công trình đê biển.
- Nếu có bão mạnh cần khẩn trương sơ tán dân.
- Chống bão phải luôn kết hợp với chống lụt, úng ở đồng bằng và chống lũ, chống xói mòn ở miền núi.
II, Ngập lụt :
Các vùng hay xảy ra ngập lụt: vùng châu thổ sông Hồng, đồng hằng sông Cửu Long, vùng trũng ở Bắc Trung Bộ và đồng bằng hạ các sông lớn ở Nam Trung Bộ.
img_5
- Biện pháp: bảo vệ rừng đầu nguồn, xây dựng đê điều, hệ thống thủy lợi phù hợp...
III, Lũ quét
- Lũ quét xảy ra ở những lưu vực sông suối miền núi có địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, mất lớp phủ thực vật, bề mặt đất (do bị bóc mòn khi có mưa lớn. Ở miền Bắc, lũ quét thường xảy ra vào các tháng VI - X, tập trung ở vùng núi phía Bắc. Ở miền Trung, vào các tháng X - XII 10 quét cũng xảy ra ở nhiều nơi.
img_6
- Biện pháp:
+Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn
+ Cần quy hoạch các điểm dân cư tránh các vùng có thể xảy ra lũ quét nguy hiểm, quản lí sử dụng đất đai hợp lí.
+ Thực hiện các biện pháp kĩ thuật thủy lợi, trồng rừng, kĩ thuật nông nghiệp trên đất dốc nhằm hạn chế dòng chảy mặt và chống xói mòn đất.
IV, Hạn hán :
- Miền Bắc, tại các thung lũng khuất gió như Yên Châu, Sông Mã (Sơn La), Lục Ngạn (Bắc Giang) mùa khô kéo dài 3-4 tháng.
- Miền Nam, mùa khô khắc nghiệt hơn: thời kì khô hạn kéo dài đến 4-5 tháng ở đồng bằng Nam Bộ và vùng thấp Tây Nguyên, 6-7 tháng ở vùng ven biển cực Nam Trung Bộ.
img_7
- Biện pháp: xây dựng những công trình thủy lợi hợp lí,...
==> Các thiên tai của nước ta đều rất khắc nghiệt và gây thiệt hại lớn về người và của và một phần góp phần trong nếu đó cũng do khai thác quá mức tài nguyên không quan tâm môi trường.

Biện pháp sử dụng tài nguyên hợp lý

Rừng vàng biển bạc nhưng ko bảo vệ tức là đổ vàng bạc xuống biển.
Hồ Chí Minh
Để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sống đòi hỏi toàn xã hội và nhất là mỗi người chúng ta phải nâng cao nhận thức để cùng hiểu biết về môi trường sống xung quanh mình. Bảo vệ sự sống của chúng ta, nhất thiết cần hạn chế tối đa việc sử dụng túi nilon. Mỗi nhà nên phân loại rác, đối với những rác thải như chai nhựa, giấy, túi nilon... gom lại bán phế liệu để tái sử dụng, vừa góp phần tiết kiệm được nguồn tài nguyên thiên nhiên, vừa bảo vệ môi trường sinh thái.
Cần thường xuyên tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc: không săn bắt động vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng; không khai thác, đánh bắt cá và thủy sản bằng xung điện vì sẽ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Mỗi người nên trồng nhiều cây xanh xung quanh nhà mình để được tận hưởng không khí trong lành do cây tạo ra. Mặt khác, không nên bẻ cành, ngắt phá cây xanh; lên án, phê phán những trường hợp không biết giữ gìn và bảo vệ cây xanh nơi công cộng.
Cần có những biện pháp để xử lý ngay tình trạng ô nhiễm nguồn nước thải từ các khu đô thị lớn, khu công nghiệp tập trung, những nơi xả nước thải nhiều... để khắc phục được tình trạng ô nhiễm nguồn nước, góp phần lấy lại được sự trong sạch cho môi trường sống.
Sử dụng các chất liệu từ thiên nhiên: Nếu tất cả chúng ta sử dụng năng lượng, vận chuyển các dịch vụ khác nhau cẩn thận hơn, chúng có thể giảm lượng khí thải độc hại cho không khí, đất và nước. Bằng các lập kế hoạch bảo vệ môi trường, chúng ta có thể tạo nên sự khác biệt và giúp môi trường xanh, sạch, đẹp hơn.
Thuốc bảo vệ thực vật như các loại thuốc trừ sâu,...hay các loại hóa chất sử dụng trong vệ sinh hàng ngày là một trong những nguyên nhân gây ra các căn bệnh như ung thư Parkinson và các bệnh liên quan đến não. Vì vậy, nên sử dụng các loại dụng cụ, chất liệu có nguồn gốc từ thiên nhiên để bảo vệ sức khỏe và bảo vệ môi trường.
Sử dụng năng lượng sạch: Chúng ta nên và cần thay đổi thói quen về việc sử dụng các nguồn năng lượng có thể tái tạo. Bất cứ khi nào con người cũng có thể sử dụng các năng lượng từ gió, ánh nắng mặt trời… Đó đều là các loại năng lượng sạch vì việc sản xuất và tiêu thụ chúng không làm phát sinh khí thải gây hiệu ứng nhà kính như sử dụng các loại nhiên liệu hóa thạch.
Tiết kiệm điện để bảo vệ môi trường: Nhiều người có thói quen để nguyên phích cắm trong ổ điện ngay cả khi không dùng đến các thiết bị điện (TV, quạt, sạc điện thoại, máy tính…) Hành động này vô tình gây lãng phí một lượng điện tương đối lớn vì ngay cả trong chế độ chờ các thiết bị này cũng làm tiêu hao năng lượng điện. Do đó, tốt hơn hết, các bạn nên nhớ rút phích cắm ra khỏi ổ hoặc tắt nguồn tất cả các thiết bị điện khi không sử dụng.
Thiên nhiên ban tặng cho con người nhiều thứ, vậy mà ta không biết giữ gìn và bảo vệ nó. Hãy đối xử tốt với thiên nhiên, sống thân thiện với môi trường, mỗi người sẽ tận hưởng được những giây phút thư giãn, thoải mái trong bầu không khí trong lành, được tận hưởng những cảnh thiên nhiên tươi đẹp.

Tổng kết

Nước ta giàu tài nguyên nhưng cũng không ít thử thách từ thiên tai nên để phát triển ta cần có chiến lược để phát triển và bảo vệ môi trường.
img_8
Hội nghị COP 28 lớn nhất về biển đổi khí hậu cũng nêu rõ nếu ko bảo vệ môi trường từ ngay hôm nay thì thiên tai bão lũ của thế giới sẽ càng gay gắt, khó lường và Việt Nam đứng rất gần nguy cơ bị nước biển xâm lấn một vùng rộng lớn.