Cả một khoảng thời gian dài khi bắt đầu học đại học tại Châu Âu, tôi đã thu mình lại, làm cho mình nhỏ bé hơn để không ai có thể nhận ra sự hiện diện của mình, và thậm chí còn có thể đi xa đến mức cúp học rất nhiều buổi và rất nhiều môn vì sợ hãi phải phát biểu trong các hội thảo ở trường. Tất nhiên tôi có thể chỉ đến nghe và đi về, nhưng ở trong các hội thảo nơi mà mọi người đến để trao đổi ý kiến và thảo luận về một chủ đề, sự im lặng có vẻ là được đặt sai chỗ. Và tôi rất sợ cái sự "sai chỗ" này. Tôi sợ bị đánh giá và ánh nhìn xăm soi của người khác. Vậy chuyện gì đã xảy ra và làm thế nào để tôi vượt qua được nỗi sợ này? Tôi quay lại từ gốc và đi tìm hiểu từ đâu mà nỗi sợ này sinh ra.

Phức cảm tự ti

Trong những lần đầu tiếp xúc với người lạ, tôi thường mang tâm lý cảnh giác và lo sợ. Dường như đó là trạng thái mặc định của bộ não khi gặp phải các kích thích chưa thân thuộc. Cái tôi quá mong manh chỉ được xây dựng từ sự công nhận từ phía ngoài khiến cho nó không thể phòng bị cho bản thân trước bất cứ sự chỉ trích nào đến từ bên ngoài. Những câu hỏi như Liệu họ có thấy mình đáng mến? Liệu họ có thích mình? Liệu họ có thấy mình có năng lực? Liệu họ có hiểu được mình? dày vò tôi, ép buộc tôi luôn phải bằng cách nào đó chứng tỏ bản thân mình để xứng đáng có được sự chấp nhận từ người khác. Tôi lo sợ mình kém cỏi và từ đó có một sự tồn tại vô nghĩa, không giúp ích gì được cho ai. Vì sao vậy?

Tình thương có điều kiện

Lớn lên cùng những câu nói Nuôi mày ăn học tốn tiền ghê, cố học giỏi sau này nuôi bố mẹ nhé, hoặc bị chỉ trích nặng nề khi thể hiện những tính cách tự nhiên của mình, tôi dần phát triển một sự nhận thức rằng sự tồn tại của mình mang một cái giá cần phải trả. Có thể bằng việc học tập tốt, hay là nghe lời người lớn, hay có một tính cách nhu mì dễ bảo hoặc có một tài năng đặc biệt nào đó, bất cứ một điểm cộng gì để chứng minh việc tôi có mặt trên đời này là đúng đắn. Tôi như một "sản phẩm" cha mẹ tạo ra để "lấy lời". Bất cứ khi nào tôi nhận thấy rằng mình không đem lại "lời" cho cha mẹ, tôi như một sản phẩm mất giá. Cái tôi được xây dựng từ sự công nhận từ bên ngoài khi nhận được cái đối ngược hoàn toàn với sự công nhận, bị tổn thương nặng nề. Giấu đi bản chất và tiềm năng tự nhiên của mình, tôi sơ suất đặt giá trị của bản thân vào việc đạt được những thành tích mà người khác cho là quan trọng (về học vấn, tính cách, ngoại hình hay bất kể thứ gì), để khi đạt được những thành tích ấy, cái tôi nhận được không phải là sự thỏa mãn và hạnh phúc của tâm hồn hay một bước tiến trong quá trình trưởng thành, mà chỉ là những cái thở phào nhẹ nhõm vì được giải thoát khỏi sự thất vọng và sự từ chối của người khác. Đại khái, trong tiềm thức non nớt mong manh của tôi, nếu tôi không làm người bảo hộ của tôi vui thì tức là tôi đang sống một cuộc đời vô giá trị.
Nhiều người đọc có lẽ đang nghĩ rằng, cha mẹ nói như vậy có gì là sai, dù sao cũng chỉ muốn mình cố gắng và thương cha mẹ hơn. Trong bối cảnh văn hóa Á Đông, nơi "công ơn sinh thành" thường được đề cao và sự hiếu thảo được coi như một chuẩn mực đạo đức, hiện tượng này được coi như là bình thường trong xã hội. Thế nhưng, hậu quả tâm lý nó đem lại cần phải được thảo luận một cách thẳng thắn.

Hậu quả tâm lý

Mối quan hệ mà cha mẹ hình thành với chúng ta khi còn thơ bé để lại một dấu ấn rất mạnh mẽ mà ta khó có thể ngờ tới. Nó ảnh hưởng đặc biệt đến cách mà chúng ta nhìn nhận bản thân và cách mà chúng ta xây dựng sự tự tin của mình. Trong thuyết tự định (self-determination theory) của Deci & Ryan, con người có những nhu cầu tâm lý bẩm sinh về sự gắn bó (relatedness), tính tự chủ (autonomy) và cảm giác có năng lực (competence) – những nhu cầu này cần được thỏa mãn để đạt được sự phát triển tâm lý tối ưu và sức khỏe tinh thần tốt.
Sự gắn bó đề cập đến 'nhu cầu được thuộc về' – nhu cầu cảm thấy được kết nối và được yêu thương với những người quan trọng. Việc thiếu cảm giác gắn bó có thể khiến một người tìm kiếm sự ngưỡng mộ và cảm giác có giá trị thông qua những cách thức nông cạn, chẳng hạn như việc tích lũy của cải vật chất.
Tính tự chủ là nhu cầu được tự định hướng và tự tổ chức, thể hiện qua nỗ lực xây dựng các giá trị và mục tiêu mang tính chân thực, do chính bản thân lựa chọn, và được tự do khỏi sự ép buộc. Việc cản trở nhu cầu tự chủ sẽ dẫn đến cảm giác bị kiểm soát, mất phương hướng và sống theo mệnh lệnh từ bên ngoài.
Năng lực là nhu cầu cảm thấy bản thân có hiệu quả và có khả năng. Khi cảm giác về năng lực bị cản trở, điều đó sẽ dẫn đến sự suy giảm lòng tự trọnggiảm niềm tin vào khả năng của chính mình.
(Kanat-Maymon et al, 2015)
Vậy điều gì ngăn trở những nhu cầu này được thỏa mãn, và nó được thể hiện như thế nào trong giao tiếp thường nhật giữa cha mẹ và con cái? Sau đây là những ví dụ cho từng nhu cầu cơ bản một.

Sự gắn bó

Nhu cầu này sẽ bị ngăn trở khi trong quá trình trưởng thành, đứa trẻ không cảm nhận được tình yêu thương vô điều kiện từ cha mẹ hay người chăm sóc chính của nó. Tình cảm chúng được nhận chỉ là phần thưởng khi chúng hành xử theo một cách nhất định, thường là được cha mẹ quy định. Qua những câu nói như "Học giỏi đi mới làm bố/mẹ tự hào" hay "Con làm bố/mẹ buồn lắm, bố/mẹ không thương con nữa đâu", hay khi những cảm xúc của trẻ bị phớt lờ "Có gì to tát mà phải khóc phải buồn", người lớn vô tình cho con cảm giác rằng mình không đủ tốt nếu như không thực hiện được những gì cha mẹ mong đợi. Chúng học được rằng cảm xúc của chúng là không quan trọng đối với bố mẹ chúng và không đáng được thể hiện và thấu hiểu. Việc được vô tư là chính mình trở nên quá xa xỉ với con trẻ. Hậu quả, chúng sẽ tìm kiếm cảm giác được gắn bó từ sự công nhận ở bên ngoài như ngoại hình, tiền bạc, thành tích hay thành công trên mạng xã hội.

Sự tự chủ

Khi trẻ không được phép tự chọn lựa theo ý muốn của mình hay không được lên tiếng cho bản thân, khi mọi quyết định cho chúng bị áp đặt dù là nhỏ như thế nào, khi cảm xúc của chúng bị xem thường hoặc bác bỏ, con trẻ sẽ quên mất mình, không có ý tưởng về bản thể thực sự. Những biểu hiện từ phía người chăm sóc chính như "Cha mẹ nói gì thì làm vậy, đừng có cãi", hay hủ tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, hay yêu cầu sự vâng lời tuyệt đối từ con cái bất kể ý kiến chúng ra sao là những ví dụ thường nhật ngăn trở sự phát triển nhu cầu này của trẻ. Khi đối mặt với sự ngăn trở này, dần dần trẻ sẽ mất định hướng. Vì không bao giờ có cơ hội được làm quen với chính mình, không được tự trải nghiệm, tìm tòi sở thích sở đoảng, trẻ không biết mình muốn gì, cần gì, chúng sẽ dễ lệ thuộc vào người khác. Hoặc theo một hướng khác, chúng sẽ dần bất mãn trong việc "sống cuộc đời của người khác dựng lên", sinh tâm lý nổi loạn để tìm lại con đường cho riêng mình.

Năng lực

Nhu cầu được có cảm giác mình có năng lực có lẽ là điều dễ hiểu nhất trong xã hội của chúng ta. Ở trong một xã hội khi chúng ta nhận được nhiều "phần thưởng" hơn khi chứng minh được mình có năng lực tốt, ai cũng muốn được cảm thấy mình có khả năng. Thế nhưng, để đáp ứng nhu cầu tâm lý này cho con trẻ không có nghĩa là ta tìm mọi cách để con mình trở thành người giỏi nhất, tài năng nhất có thể, mà là giúp con trẻ có cảm giác chúng sẽ tự mình vượt qua được khó khăn. Điều ngăn trở trẻ có được cảm giác tự tin này là gì? Là bị chê bai, so sánh với người khác. Là những kỳ vọng quá cao vào thành tích của con, hay ngược lại, không tin vào khả năng của trẻ. Hay thậm chí việc cha mẹ trực tiếp làm hộ mọi việc cho trẻ vì không nghĩ chúng có thể tự hoàn thành công việc. Cha mẹ không để con tự thử thách và tự mình vượt qua thử thách dần dần khiến chúng có một niềm tin rằng chúng không có khả năng, chúng khó mà tự lực được nếu không có cha mẹ. Trẻ sẽ mất tự tin vào chính mình và dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, vì đã có một niềm tin ghi dấu rằng "đằng nào mình cũng không làm được".
Việc cản trở những nhu cầu tâm lý này thường không đến từ những mục đích xấu, mà là từ sự thiếu hiểu biết hoặc vô thức lặp lại mô hình giáo dục cũ. Tuy nhiên, hậu quả chúng để lại là thật và nó sẽ kéo dài đến tận tuổi trưởng thành. Nếu ta không chủ động nhìn nhận những dấu hiệu này và thay đổi, ta sẽ mãi lặp lại trong vòng luẩn quẩn mà vẫn cho rằng những vấn đề về lòng tự trọng của mình là do thiên bẩm.
Quay lại với chủ đề tôi đã làm gì để thực sự tìm lại mình và cảm thấy tự tin hơn. Như bao đứa con người Việt khác, tôi đã trải qua kha khá những ví dụ tôi đã nêu trên, trong suốt quãng đời của mình, từ khi bắt đầu nhận thức được đến tận bây giờ. Hậu quả của nó có lẽ các bạn đã rõ, tôi vảng vất trong cuộc đời với một thứ tự trọng biến dạng, một tâm hồn đau đớn, tôi nhìn đời và bắt đầu những mối quan hệ mới với ánh mắt của một con thú bị thương. Ai cũng sẽ muốn chỉ trích tôi, không ai hiểu con người thật sự của tôi. Họ không phải là những đồng sự đang cùng cố gắng vượt qua cuộc đời, họ là đối thủ của tôi. Sự thật tất nhiên không phải vậy. Khi bạn trải qua tuổi thơ thiếu đi sự chăm sóc tinh tế và nhạy bén với nhu cầu tâm lý của bạn, hẳn bạn cũng sẽ cảm thấy như tôi đã từng.
Sự thay đổi đến khi tôi bắt đầu hành trình khám phá bản thân. Khám phá những sở thích, những kiến thức đem lại cho tôi lực sống, chứ không chỉ vì bất cứ lý do ngoại thức nào. Tôi dành hàng giờ để khám phá tìm hiểu chỉ để cho vui, thỏa mãn cái trí tò mò của mình. Tôi quay lại với niềm yêu sống và sự tò mò tôi có khi còn con trẻ. Bên cạnh đó, tôi cũng dành không ít thời gian đối mặt với kẻ thù gian nan nhất của mình: giọng nói chỉ trích trong đầu tôi. Nỗi sợ to lớn nhất của tôi những ngày đầu khi mới đặt chân lên vùng đất lạ là sợ mình không giỏi tiếng của họ sẽ bị họ chê cười, sợ mình người Việt "nghèo" và "nhà quê" (vấn đề về tư duy thuộc địa và tự ti giai cấp, có thể tôi sẽ nói trong phần sau) mà không dám thể hiện mình. Giọng nói ấy gặm nhấm tâm hồn tôi và đã khiến tôi bỏ lỡ quá nhiều cơ hội. Giọng nói ấy làm tôi trì hoãn các công việc cần làm vì sợ hãi đầu ra không được như mong muốn, làm tôi bỏ cuộc và mau chán, làm tôi quên đi các tiềm năng mà mình có và bị tê liệt trong thực tại rằng dù tôi có làm gì đi chăng nữa, những gì tôi làm đều không có giá trị. Tôi rơi vào trầm cảm. Nghiện điện thoại nặng. Nhịp chuyển động nhanh chóng của thế giới xa lạ trong chiếc màn hình cuốn tôi đi, làm tôi quên đi khái niệm của thời gian.
Trong khoảng thời gian mới vào đại học ở Châu Âu, bị ném vào trong một môi trường mới xa lạ, không còn là trường dự bị nơi tôi cùng học với các bạn ngoại quốc khác, những người cùng trình độ tiếng với mình, nhiều người có background từ các nước đang phát triển như mình, tôi đã tự ti rất nhiều. Tôi muốn bản thân mình được như các bạn bản xứ, tôi muốn trở thành họ để được cảm thấy thượng đẳng và khác biệt hơn. Tôi tự coi thường chính gốc gác của mình và tự coi thường chính mình. Tôi nghĩ rằng chỉ cần tôi giỏi tiếng, có những người bạn bản xứ, tôi sẽ chứng minh được rằng mình đã hòa nhập được với xứ sở này, tôi sẽ trở thành người có giá trị trong mắt họ, và họ sẽ chấp nhận tôi, sẽ thích tôi. Khi điều này chưa xảy ra, tôi vô cùng hoảng loạn, tôi bỏ lỡ rất nhiều lớp học chỉ vì không muốn họ nhìn thấy mình và sự khác biệt mà mình mang đến. Đó là một bài học đắt giá đối với tôi.
Tôi trầm cảm và thu mình trong căn hộ của mình. COVID19 ập đến, trường chuyển sang học online, một sự giải thoát to lớn cho tôi. Trong khoảng thời gian cách ly và cô lập này, tôi quay trở lại với niềm yêu đọc, một "trend" đem lại nhiều giá trị nhất lúc bấy giờ, nó đã thay đổi cuộc đời tôi. Đọc những cuốn sách mà tôi thích không chỉ đơn thuần là giải trí giảm căng thẳng, cũng không chỉ đơn giản là thêm kiến thức và thêm góc nhìn như một nguồn thông tin ngoài thân. Củng cố kiến thức và đam mê của mình khiến tôi cảm thấy như được quay trở về với bản thân mình, thật nhất, mộc mạc nhất. Sự thỏa mãn niềm yêu đọc và trí tò mò, được cảm nhận bản thân mình thay đổi qua từng sự nhận thức mới, như là một cuộc trò chuyện với chính mình. Tôi cảm nhận được bản thân mình được lắng nghe, được chăm sóc và vỗ về, chỉ vì tôi đặt sở thích của mình lên trước. Tôi cảm nhận được rõ từng cảm xúc, tôi thích gì, tôi hào hứng vì điều gì, tôi đã học được gì, tôi muốn làm gì, và cuối cùng là câu hỏi: Tôi là ai? Đến đây để làm gì? Câu hỏi này đã đưa tôi vào một hành trình không mệt mỏi và không có đích đến của tự thực hiện hóa bản thân. Từng ngày trong hành trình tìm tòi khám phá bản thân đều là một ngày đáng giá đối với tôi. Tôi dần dần bất chấp những nỗi sợ hãi mà thử thách bản thân với những sở thích mới: xăm, hát, nhảy, thiết kế, vẽ, viết, sáng tạo và sáng tạo. Tôi không ngừng học và ngừng đọc.
Kết bạn với những người bạn bản xứ, tìm hiểu được góc nhìn thật sự của họ, tôi nhận ra những sự đề phòng của mình đối với họ chỉ đến từ nỗi sợ hãi cố hữu bên trong. Những nghi ngờ của tôi về người ngoài thực chất không hề có cơ sở thực tế vững chắc, mà chỉ là phản chiếu thế giới bên trong của tôi lên người ta mà thôi. Tôi dần xóa bỏ các tư duy về thứ bậc, từ chối các giá trị chỉ dựa trên vật chất, tập trung vào các giá trị bên trong và đề cao sự quan trọng của bình đẳng giữa người với người. Tôi nhận ra sinh ra ở một nước giàu hơn không đồng nghĩa với việc người bản xứ nghiễm nhiên nhận một vé thượng đẳng hơn tôi. Rằng kiến thức mà tôi có không chỉ vì tôi đến từ một nước nghèo mà bỗng nhiên mất đi sức nặng. Sau nhiều lần dũng cảm bất chấp nỗi sợ để thể hiện bản thân và làm điều mình cần làm, nỗi sợ ngày càng trở bên bé đi. Dần dà, tôi không còn sợ nữa, vì tôi biết rằng, rồi lần này mình sẽ vượt qua được như bao lần trước thôi, nó không hề khó như mình nghĩ. Và từ đó, tôi đã cứu lấy được chính mình.
(Về lý do mà tôi có các phức cảm tự ti, còn rất nhiều yếu tố khác cần phải bàn đến ví như môi trường giáo dục không khoan hồng với việc mắc lỗi, yêu cầu sự tuân thủ tuyệt đối, hạn chế phát triển tư duy phản biện và một vài lý do về sự giáo dục của cha mẹ và tôi không tiện kể ra. Vì bài đã khá dài tôi xin phép được tạm dừng tại đây.)

Sources

Yaniv Kanat‐Maymon, Guy Roth, Avi Assor, Abira Raizer (2015) Controlled by Love: The Harmful Relational Consequences of Perceived Conditional Positive Regard, Journal of Personality, 84:4, 446-460.
Edward L. Deci & Richard M. Ryan (2000) The "What" and "Why" of Goal Pursuits: Human Needs and the Self-Determination of Behavior, Psychological Inquiry, 11:4, 227-268, DOI: 10.1207/S15327965PLI1104_01