Viết bài: Trần Nguyên Phan
Hiệu đính: Hải Stark

Chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1957
Mở đầu
Trong lịch sử hiện đại Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ Kháng chiến chống Pháp và Kháng chiến chống Mỹ, không thể không kể đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp - vị Đại tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam và thường được gọi là “người học trò xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh.” Tuy xuất thân chỉ là một giáo viên dạy lịch sử có lòng yêu nước và quyết tâm hoạt động cách mạng, nhưng Võ Nguyên Giáp đã từng bước trở thành một nhà quân sự lỗi lạc, người đánh thắng những đế quốc hùng mạnh bậc nhất trên thế giới.
Vậy thì Võ Nguyên Giáp đã trở thành một vị tướng tài ba bậc nhất trong thế kỷ 20 như thế nào? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây.

Hình ảnh Việt Nam năm 1911
Thuở thiếu thời và giai đoạn hoạt động đầu tiên
Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An Xá thuộc Đại Phong, Lệ Thủy, Quảng Bình. Cha của ông là Võ Quang Nghiêm, một nhà nho thất thế và mẹ của ông là Nguyễn Thị Kiên, một người phụ nữ đảm nhiệm vai trò nữ công gia chánh trong nhà. Trước ông có đến 5 anh chị em nữa, nhưng 3 người thì đã mất khi còn nhỏ, còn người khác bị bắt giam trong tù, không lâu sau được thực dân Pháp thả ra thì qua đời.
Võ Nguyên Giáp là đứa con thứ sáu trong gia đình. Một gia đình mà mất đến cả ba đứa con là điều tai họa chẳng ai mong muốn, và chính vì thế mà gia đình của tướng Giáp đã luôn là là đối tượng để cảm thương lẫn những lời bàn tán, đồn thổi.
Nhưng may mắn thay, cả hai đứa con thứ tư và thứ năm của cụ Võ Quang Nghiêm, lần lượt là những đứa con gái đều đã sống sót để đến tuổi trưởng thành. Là đứa con cả nối dõi tông đường , tướng Giáp được kỳ vọng nhiều từ nhỏ, và sau ngày ông ra đời, cả gia đình lần lượt đón thêm một con trai và một con gái nữa.
Khác với nhiều các chiến sĩ cộng sản khác như Hồ Chí Minh hay Kim Nhật Thành, Võ Nguyên Giáp chưa bao giờ chuyển hẳn tên mà cái tên từ lúc sinh ra của ông đã gắn liền với ông trong suốt cuộc đời. Võ là tên gia đình truyền thống của ông, một gia đình đã nhiều đời trú chân quanh đất Quảng Bình. Cái tên Nguyên làm ta nhớ đến nhà Nguyễn, gia tộc từng một thời thống trị Việt Nam trong khi chữ Giáp nghĩa là tấm khiên để bảo vệ. Và quả thật, cái tên này sẽ báo hiệu trước một cuộc đời đầy sóng gió của tướng Giáp.

Nhà nho Võ Quang Nghiêm, hay biệt danh là Ông Cửu Nghiêm
Vùng Quảng Bình với Nghệ An - Hà Tĩnh bấy giờ vẫn còn là một vùng đất nghèo. Gia đình Võ Nguyên Giáp tuy không quá khá giả, nhưng cũng không đến mức thiếu thốn đủ bề. Cụ Võ Quang Nghiêm cha ông vốn là một nhà nho yêu nước, thường được người làng gọi là Ông Cửu Nghiêm. Cha của cụ Nghiêm cũng đã từng tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp; dù cuối cùng thất bại, nhưng vẫn là một việc đáng tự hào của gia đình họ Võ. Sinh ra trong một môi trường như vậy nên ngay từ bé Võ Nguyên Giáp đã có tinh thần chống Pháp cứu nước.\

Trường Quốc Học Huế ngày nay
Sau khi học xong tiểu học, Võ Nguyên Giáp lên thị xã Đồng Hới học tiếp. Năm 1925, ông thi được vào trường Quốc học Huế. Võ Nguyên Giáp dần chứng tỏ năng lực của bản thân và trở thành một học sinh giỏi với thành tích đỗ đầu toàn tỉnh trong kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học. Trong những năm tháng học, ông từng có thời gian đến gặp gỡ và được nghe cụ Phan Bội Châu bàn luận về vấn đề lịch sử, dân tộc. Giống nhiều người khác, ông cũng không hề thích thú với việc học sinh Việt Nam phải học về lịch sử mẫu quốc Pháp trong khi lại không hề biết điều gì về lịch sử nước mình. Vì vậy, ông và nhiều học sinh Quốc học Huế khác đã dành nhiều thời gian tiếp xúc và học hỏi cụ Phan Bội Châu. Sau này nhìn lại, chính ông cũng nói rằng trường Quốc học Huế và nhiều anh em học ở đấy chính là những người đặt nền móng cho cách mạng Việt Nam.
Năm 1927, vì tham gia phong trào biểu tình và bãi khóa mà Võ Nguyên Giáp bị đuổi khỏi trường. Ông về quê và được giới thiệu gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng, một đảng theo chủ nghĩa dân tộc có màu sắc cộng sản thành lập năm 1924.
Sau đó năm 1928 ông quay lại Huế, được giới thiệu vào làm ở nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và ở báo “Tiếng dân” của Huỳnh Thúc Kháng. Đây cũng là thời điểm Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề báo, chuẩn bị cho giai đoạn hoạt động báo chí về sau. Nhờ làm việc trong môi trường báo chí mà ông có cơ hội tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt trong đó có những tác phẩm như “Bản án chế độ thực dân Pháp” hay các bài trên báo “Người cùng khổ” do Nguyễn Ái Quốc gửi về từ Pháp.
Tháng 10 năm 1930, làn sóng Xô Viết Nghệ - Tĩnh bùng nổ. Vì tham gia phong trào mà Võ Nguyên Giáp bị bắt vào nhà lao Thừa phủ ở Huế. Cùng bị bắt có người yêu của ông là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai Võ Thuần Nho cùng các nhà giáo như Đặng Thai Mai hay Lê Viết Lượng. Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp quốc tế mà Võ Nguyên Giáp được trả tự do, nhưng bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại nơi này. Vì vậy ông ra Hà Nội và theo học ở trường Albert Sarraut, sau đó nhận bằng cử nhân luật năm 1937. Nhưng vì bận rộn hoạt động cách mạng nên vào năm 1938, ông bỏ dở chương trình học năm thứ 4 về Kinh tế chính trị và không lấy bằng Luật sư.
Cũng trong giai đoạn từ năm 1936 đến năm 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương với tư cách là một trong những người sáng lập. Võ Nguyên Giáp bấy giờ cũng là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ. Ông tham gia và thành lập các báo tiếng Pháp như “Notre Voix” hay “Le Travail”; rồi biên tập các báo tiếng Việt như “Tin tức” hay “Dân chúng”.
Tháng 5 năm 1939, ông cũng nhận dạy môn lịch sử ở Trường Tư thục Thăng Long. Học sinh của ông mô tả rằng: ông có thể vẽ lên bảng đen sơ đồ từng trận đánh của Napoleon, ông sôi nổi kể về Công xã Paris và cái chết của những nhà cách mạng. Họ nhận xét rằng Võ Nguyên Giáp
“không chỉ là nhà sử học đơn thuần, ông còn là một trạng sư say mê, luôn bênh vực tính chính nghĩa của lịch sử.”
Có người còn kể rằng Võ Nguyên Giáp thường hay bảo với đồng nghiệp rằng
“Mình sẽ là một Napoleon.”

Vợ chồng Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Quang Thái
Cũng vào năm 1939, Võ Nguyên Giáp kết hôn với người yêu Nguyễn Thị Quang Thái. Đến đầu năm 1940, họ có với nhau con gái đầu lòng là Võ Hồng Anh. Bấy giờ Thế chiến thứ II đang diễn ra ác liệt khắp nơi. Võ Nguyên Giáp bèn lên kế hoạch cùng người bạn là Phạm Văn Đồng tìm cách sang Trung Quốc để gặp các lãnh đạo Đảng Cộng sản, đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Ban đầu, Nguyễn Thị Quang Thái cũng chị là Nguyễn Thị Minh Khai cũng muốn đi theo; nhưng Võ Nguyên Giáp không đồng ý.

Ông cho rằng cả 4 người đi sẽ dễ lộ, hơn nữa cũng không thể mạo hiểm đưa con gái mới sinh đi theo. Ý định của ông là đợi con cứng cáp hơn một chút rồi hẵng tính đến việc thoát ly đi hoạt động. Nhưng cả hai không ngờ lần chia tay năm 1940 cũng là lần vĩnh biệt.
Năm 1941, lần lượt cả hai chị em Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Thị Quang Thái đều bị thực dân Pháp bắt giam và đều hy sinh trong tù, đến nay ta vẫn không rõ bà Thái đã qua đời vì bệnh tật hay bị thực dân xử tử. Đến tận mãi sau này, Võ Nguyên Giáp vẫn không thể nào quên được người vợ đầu tiên của mình và nỗi đau mất mát ấy.
Cách mạng tháng Tám

Tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng cải trang vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh. Chỉ sau một thời gian ngắn, Hồ Chí Minh đã thấy Võ Nguyên Giáp là người triển vọng nên liên hệ với Đảng cộng sản Trung Quốc và cử đi học quân sự tại căn cứ Diên An. Thế nhưng đang trên đường thì ông được Hồ Chí Minh gọi quay lại vì tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn. Ở châu Âu, phát xít Đức đã xâm chiếm Pháp. Hồ Chí Minh nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh, cần gấp rút trở về nước chuẩn bị đón thời cơ. Cũng trong năm này, Võ Nguyên Giáp gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, bắt đầu hoạt động trong tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh hội (tức Việt Minh).

Việt Minh cùng các đồng sự nước ngoài
Đầu năm 1941, đúng dịp Tết Nguyên đán; Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh cùng một số đồng chí khác trở về Việt Nam. Họ bắt đầu thành lập căn cứ cách mạng ở Pác Bó, Cao Bằng. Cũng trong thời gian này, Hồ Chí Minh đã tiên đoán rằng cách mạng sẽ thành công vào khoảng năm 1945 - 1946: “Trong khoảng 5 năm nữa (tính từ 1941), cách mạng sẽ thành công.”
Niềm tin sắt đá đó đã giúp Võ Nguyên Giáp và các đồng chí có thêm niềm tin vào tương lai.
Thời gian thành lập căn cứ ở Việt Bắc, đời sống rất cực khổ. Võ Nguyên Giáp kể lại rằng:
"Tìm được cái ăn đã là chiến công. Chúng tôi phải chia nhau từng củ sắn, từng bắp ngô".
Nhiều người bối rối dao động, có người e ngại: làm sao cách mạng thành công khi không có súng và lấy đâu ra súng? Những lúc ấy, ông không bao giờ quên lời dạy của Hồ Chí Minh:
“Chúng ta sẽ dựa vào sức mình là chính cùng với một ít viện trợ từ nước ngoài. Mọi việc đều do nhân dân mà nên. Người trước súng sau, có nhân dân là có tất cả.”
Võ Nguyên Giáp trong quãng thời gian này tiếp tục huấn luyện những nhóm nhỏ chiến sĩ và mở rộng địa bàn quanh vùng Cao Bằng.
Cuối năm 1942, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc lần nữa để liên lạc với các đồng minh. Thế nhưng ít lâu sau, có tin đồn truyền về rằng Hồ Chí Minh đã bị Quốc dân đảng tống giam và đã hy sinh trong tù. Với bản thân Võ Nguyên Giáp, đây là thời khắc thử thách lớn nhất mà ông từng trải qua.
Nhưng chính trong thời khắc khó khăn, quyết tâm lại được củng cố, với không chỉ Võ Nguyên Giáp mà còn với cả các đồng chí ở khu căn cứ cách mạng nữa. Dù thế nào đi chăng nữa, cách mạng vẫn phải tiếp tục. May mắn là một thời gian sau, có thư của Hồ Chí Minh gửi về xác nhận rằng ông vẫn còn sống, tuy vẫn bị giam giữ. Sau đó nhờ can thiệp của các tổ chức cộng sản quốc tế mà Hồ Chí Minh được thả tự do và trở về Việt Nam vào cuối tháng 9 năm 1944.
Bấy giờ sau hơn 2 năm chuẩn bị, Việt Minh đã phần nào kiểm soát được ba tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn và định tổ chức chiến tranh du kích ở trong khu vực. Tuy vậy, Hồ Chí Minh cho rằng không nên vội vàng như vậy, thời cơ chưa chín để mạo hiểm. Thay vào đó, ông ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn.

Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Khi mới thành lập, đội mới chỉ có 34 người và vũ khí cũng rất hạn chế. Nhưng ngay lập tức, Võ Nguyên Giáp đã ghi dấu ấn khi chỉ huy tấn công tiêu diệt hai đồn Pháp ở Phai Khắt và Nà Ngần. Lực lượng này ngày càng mở rộng và lớn mạnh trong suốt những tháng đầu năm 1945. Từ ngày 15 đến 20 tháng 4 năm 1945, sau sự kiện quân Pháp bị quân Nhật đảo chính, các lãnh đạo Việt Minh đã họp bàn và đưa ra quyết định thời cơ tổng khởi nghĩa sắp đến, cần chuẩn bị kỹ càng.
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, ông trở thành ủy viên ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Đông Dương, sau đó là ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Đến ngày 19 tháng 8, tổng khởi nghĩa dành chính quyền nổ ra ở Hà Nội và nhanh chóng lan rộng toàn quốc. Chỉ trong chưa đầy một tháng, cách mạng đã thành công, chính phủ cách mạng lâm thời được thành lập. Đến ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường Ba Đình, chính thức khai sinh chính quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Những năm tháng không thể nào quên
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập; Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, đồng thời là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ. Bấy giờ nước Việt Nam độc lập non trẻ đang ở trong tình thế hết sức hung hiểm. Thế chiến thứ II đã kết thúc, và theo thỏa thuận Potsdam, quân đội các nước bắt đầu tiến vào Việt Nam để giải giáp quân Nhật. Ở miền nam là quân đội Anh, còn ở miền bắc là quân Tưởng Giới Thạch. Nhiều đảng phái tổ chức thân Trung như Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Đại Việt Quốc dân đảng cũng mở rộng hoạt động và tìm cách hạn chế tầm ảnh hưởng của Việt Minh. Tuy vậy, chỉ đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh là tìm cách hòa hoãn, tránh xung đột để không ảnh hưởng tới chính quyền non trẻ.
Vì chủ trương hòa hoãn đó, nên các tổ chức nói trên vẫn được phép hoạt động; nhưng mặt khác, chính phủ cách mạng lâm thời đã ban hành các sắc lệnh kiềm chế các đảng phái để đảm bảo tình hình ổn định chính trị. Vì lẽ đó mà mấy tổ chức trên ra sức tìm cách phản đối Tổng tuyển cử, vì biết rõ không thể nào nhận được sự ủng hộ to lớn của dân chúng như Việt Minh. Tuy vậy, nhờ sự đấu tranh quyết liệt của các đồng chí trong chính phủ cách mạng lâm thời mà cuộc Tổng tuyển cử vẫn được diễn ra vào tháng 1 năm 1946. Đến ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập và những thành viên bên đối lập vẫn được nắm 70 ghế Quốc hội cùng nhiều vị trí trong chính quyền trung ương. Tuy vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm hết sức để có thể giới hạnh quyền lực bên trong nội các của các đảng và tổ chức đối lập. Cũng trong năm 1946, Võ Nguyên Giáp tái hôn với Đặng Bích Hà là con gái của giáo sư Đặng Thai Mai.
Trong thời gian hoạt động, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến tiếp tục thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết phụng sự quốc gia, thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục,... Thế nhưng các đảng phái như Việt Nam Quốc dân đảng hay Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội vũ trang cá nhân. Những đội vũ trang này chuyên tổ chức cướp bóc, bắt cóc, tống tiền, thậm chí là ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập. Sau đó liền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà Nội và nhiều nơi ở miền bắc. Chưa hết, chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch còn liên tục gây sức ép để thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng được nắm những ghế quan trọng trong chính phủ.
Với những hành động tráo trở và phá hoại này, Võ Nguyên Giáp rất tức giận. Ông nhận xét về những tổ chức này như sau:
“Bọn chúng đội lốt chủ nghĩa quốc gia nhưng chính là một bọn phản động lệ thuộc vào Trung Hoa Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, và sức mạnh quân sự của chúng chỉ để nhặt nhạnh chút cơm thừa canh cặn.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do những đảng phái này tổ chức. Sự chống đối của các đảng phái khiến Võ Nguyên Giáp rất tức giận vì nó làm cản trở các nỗ lực của Chính phủ để đối phó với Pháp, cũng như khiến chính phủ phải liên tục đề phòng quân đội Trung Quốc. Võ Nguyên Giáp đề nghị dẹp bỏ sự chống đối để Chính phủ có thể loại trừ nguy cơ đảo chính và yên tâm đối phó với Pháp. Thế nhưng Hồ Chí Minh khuyên ông kiên nhẫn, dù chẳng có gì phải sợ các nhóm đối lập này vì họ quá yếu kém, nhưng họ lại đang được Tưởng Giới Thạch chống lưng, phải hết sức cẩn thận tránh xảy ra xung đột.
Sau khi Hiệp định sơ bộ được ký với Pháp vào tháng 3 năm 1946, quân Pháp sẽ ra miền Bắc thay thế quân Trung Quốc. Khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam ngày 15 tháng 6 năm 1946, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia mất chỗ dựa. Võ Nguyên Giáp quyết định Việt Minh phải hoàn toàn điều khiển bộ máy chính quyền, loại bỏ những kẻ chống đối trong nội bộ để tập trung đối phó với Pháp. Ông hối hả hành động ngay với mục tiêu loại bỏ dần các đảng phái này. Ngày 19 tháng 6 năm 1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích "bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3". Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái đối lập. Cũng sau đợt truy quét này, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập nhằm tạo khối đại đoàn kết giữa các đảng phái đã không còn ý nghĩa tồn tại.
Cuộc kháng chiến chống Pháp

60 Ngày đêm khói
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ, hay như cách gọi của chúng ta là cuộc Kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc kháng chiến này, Võ Nguyên Giáp chính là người được giao trọng trách chỉ huy chính trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng chính ủy (về sau từ năm 1949 đổi thành Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân ủy). Nhiệm vụ đầu tiên của ông chính là cầm quân quân Pháp ở Hà Nội, để chính phủ có thời gian sơ tán và rút lên chiến khu Việt Bắc. Trong trận chiến này, với lực lượng yếu hơn cùng vũ khí thô sơ thua kém, quân dân Việt Nam đã thành công cầm chân quân địch suốt 57 ngày đêm, gây cho thực dân Pháp nhiều thiệt hại. Quãng thời gian quý giá ấy đủ để chính phủ trung ương hoàn tất việc di dời lên trụ sở kháng chiến mới ở Việt Bắc.
Sau khi chiếm được Hà Nội bị tàn phá nghiêm trọng, quân Pháp cũng không tiếp tục đánh ngay lên chiến khu Việt Bắc. Tướng Pháp lúc bấy giờ là Valluy, nhận thấy địa hình rừng núi gây cản trở lớn, đồng thời quân Pháp cũng chưa có một kế hoạch cụ thể nào, nên đã tạm dừng bước. Điều khiến Valluy lo lắng nhất chính là Trung Quốc ở phía bắc. Ngược lại với kỳ vọng ban đầu, chính phủ quốc dân Đảng của Tưởng giới Thạch đang sụp đổ. Nếu phe cộng sản thắng thế, điều này đồng nghĩa với việc quân Việt Minh có thể có được sự giúp đỡ từ Trung Quốc. Vì vậy vào tháng 10 năm 1947, quân Pháp đã tiến hành chiến dịch Léa và chiến dịch Ceinture với mục tiêu bắt được đầu não của lực lượng cách mạng Việt Nam, nhằm kết thúc cuộc chiến càng nhanh càng tốt.
Cả hai chiến dịch đều có mục tiêu đánh vào Bắc Kạn với quân Pháp sử dụng chiến thuật nhảy dù. Với thông tin tình báo có được, Valluy dự định sẽ sử dụng quân từ trên không để tấn công thẳng vào bộ chỉ huy, rong khi các cánh bộ binh, tăng thiết giáp sẽ tiến hành chiến thuật truy kích quân đội Việt Minh ở Việt Bắc. Một kế hoạch phức tạp như thế sẽ đem đến rất nhiều rủi ro với quân Pháp đang gặp bất lợi về số lượng.
Tuy nhiên, kế hoạch của Valluy đã gặp được thuận lợi bước đầu bởi Võ Nguyên Giáp không lường trước được quân Pháp lại dám tiến hành một chiến dịch tham vọng và mạo hiểm đến như vậy. Quân Pháp tiến đánh vào căn cứ Bắc Kạn và suýt nữa đã bắt được bộ chỉ huy, may mắn là đã không thành công. Ngay sau đó, Võ Nguyên Giáp bắt đầu vạch ra kế hoạch phản công. Tận dụng địa hình rừng núi cùng lợi thế về số lượng, quân Việt Minh đã tiến hành bao vây quân Pháp và tấn công để triệt đường tiếp tế từ phía nam của địch.
Chiến dịch Léa cuối cùng kết thúc trong thất bại và là chiến thắng quan trọng đầu tiên của Võ Nguyên Giáp trước người Pháp. Còn với chiến dịch Ceinture, dù quân Pháp đạt được mục tiêu ban đầu là siết chặt vòng vây, nhưng cuối cùng vẫn không thành công tiêu diệt được đầu não của Việt Minh.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã bảo toàn thành công lực lượng quân sự và học được bài học quan trọng mà về sau đã trở thành nền tảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ: Đừng để trụ sở đầu não kháng chiến không được bảo vệ, nhất là trước các cuộc không kích. Từ đấy, trước quân Pháp và sau này là quân Mỹ, Võ Nguyên Giáp thường chú ý xây dựng căn cứ địa rộng lớn, dễ dàng di chuyển trong một chiến dịch có tính cơ động cao, đồng thời tích cực sử dụng các vũ khí phòng không để bảo vệ trụ sở.
Sau thất bại ở Việt Bắc, Valluy lệnh quân Pháp cố thủ quanh vùng đồng bằng và vùng bờ biển đi từ Hải Phòng đến biên giới Trung Quốc trong khi cánh quân khác kiểm soát các pháo đài dọc theo tuyến đường từ Lạng Sơn đến Cao Bằng. Cảm thấy thất vọng trước những gì mà Valluy đang làm, chính phủ Pháp cách chức ông và thay thế bằng tướng Blaizot, nhưng không thay đổi được nhiều. Trong khi đó, suốt các năm 1948 - 1949, Võ Nguyên Giáp tập trung vào việc xây dựng và tăng cường lực lượng, duy trì chiến tranh du kích và chuẩn bị cho các chiến dịch lớn.
Cũng trong năm 1948, Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng ngày 28 tháng 5. Đây là một quyết định có thể nói là gây bất ngờ với nhiều nhà báo quốc tế, khi ông không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, cũng không phải trải qua các cấp bậc quân hàm trong quân đội. Sau này, khi trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói một câu dí dỏm, nhưng cũng rất thực tế:
"Đánh thắng đại tá phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng phong thiếu tướng, thắng trung tướng phong trung tướng, thắng đại tướng phong đại tướng.”
Năm 1950, sau một thời gian nhận được viện trợ từ các nước khối Xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc và Liên Xô; đại tướng Võ Nguyên Giáp bắt đầu tính đến việc chuyển chiến lược từ thế phòng ngự du kích sang chủ động tấn công. Tất nhiên tình thế vẫn đầy hiểm nguy, do Mỹ đã bắt đầu can thiệp vào chiến trường Đông Dương, cũng ra sức viện trợ cho Pháp. Để lấy lại thế chủ động, Pháp thực hiện tăng cường hệ thống phòng ngự, khoá biên giới Việt-Trung. Việc này nhằm cô lập căn cứ địa Việt Minh với bên ngoài; bên cạnh đó, Pháp còn thiết lập hành lang Đông-Tây để cô lập chiến khu Việt Bắc với đồng bằng Bắc bộ, sau đó chuẩn bị lực lượng để tiêu diệt đầu não Việt Minh.

Bản đồ Việt Nam năm 1950
Vì vậy mà vào mùa thu năm 1950, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ Tổng tư lệnh Việt Minh quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm bẻ khóa và khai thông biên giới. Võ Nguyên Giáp lựa chọn tấn công các khu cứ điểm biệt lập của quân Pháp, từ từ phá thế gọng kìm cô lập, liên tục quấy rối không để Pháp tiếp viện được cho chiến trường. Đến cuối tháng 10, chiến dịch cơ bản kết thúc thắng lợi với việc quân Pháp buộc phải rút khỏi các cứ điểm còn lại dọc biên giới. Nhờ thắng lợi này mà các tuyến viện trợ vẫn được đảm bảo.
Đến đầu năm 1951, Đại tướng Võ Nguyên Giáp dự định triển khai một chiến dịch lớn để có thể giành lại được Hà Nội cũng như phá vỡ phòng tuyến quân sự của quân Pháp do tướng Jean de Lattre de Tassigny xây dựng. Tuy vậy, de Lattre tỏ ra là một đối thủ đáng gờm khi các chiến dịch của Quân đội nhân dân Việt Nam đều không thu được thắng lợi sau cùng.

Chân dung Jean de Lattre de Tassigny - một trong những đối thủ đáng gờm nhất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Đặc biệt trong số đó, chiến dịch Hòa Bình kéo dài từ tháng 11 năm 1951 đến tháng 2 năm 1952 đã trở thành một “cối xay thịt” với cả hai bên, khi thương vong rất lớn. Dù không đạt được mục tiêu cuối cùng, nhưng đã giúp bản thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói riêng và Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung nhiều kinh nghiệm quý báu, đặc biệt là trong tổ chức và quản lý - xây dựng quân đội.
Tổn thất trong các chiến dịch này cũng khiến Đại tướng Võ Nguyên Giáp chịu một số ý kiến chỉ trích trong nội bộ Đảng, nhưng vị thế chỉ huy của ông vẫn không hề suy suyển.
Tình thế trở nên khả quan hơn khi tướng de Lattre mất vì bệnh tật vào đầu năm 1952, và người thay thế là tướng Raoul Salan. Đến cuối năm 1952, Quân đội nhân dân Việt Nam mở chiến dịch Tây Bắc; giải phóng thị xã và hầu hết Sơn La cùng các khu vực Nghĩa Lộ, Yên Bái và Lai Châu. Tướng Salan cố gắng tổ chức phản công đánh vào Phú Thọ để cứu vãn tình thế, song thất bại. Salan đành phải rút về để củng cố cứ điểm Nà Sản. Ở miền Trung, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành công quan trọng. Vùng kiểm soát của Pháp ở Tây Nguyên đã bị thu hẹp lại chỉ còn vài vùng ven biển ở quanh Huế, Đà Nẵng, và Nha Trang. Nam Bộ gần như là khu vực duy nhất mà Pháp còn kiểm soát được toàn bộ.
Đến năm 1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trương mở rộng chiến trường sang Lào và thu được một số thắng lợi. Chính phủ Pháp đã mất kiên nhẫn với Salan, nên đã gọi ông này về nước và bổ nhiệm Henri Navarre thay thế. Được sự hứa hẹn về việc Mỹ tăng viện trợ quân sự, Navarre chuẩn bị cho một cuộc tổng phản công.
Ngày 15 tháng 10 năm 1953, Navarre mở Cuộc hành quân Moutte vào Ninh Bình và Thanh Hóa hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường chính. Mục đích chính lại là phá các căn cứ hậu cần tiền duyên của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc tiến công 1953-1954 được cho là sẽ diễn ra ở đồng bằng. Nhưng thực sự trong kế hoạch Quân đội Nhân dân Việt Nam được đề ra hồi tháng 9, đồng bằng Bắc Bộ chỉ là chiến trường phối hợp.
Tháng 11 năm 1953, Navarre mở cuộc hành quân Castor đánh chiếm Điện Biên Phủ - khu vực mà ông cho rằng có vị trí chiến lược chặn giữa tuyến đường chính của Quân đội Nhân dân Việt Nam sang Lào. Navarre sau đó cho củng cố và xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ thành một pháo đài kiên cố. Ông ta xem căn cứ này vừa là một vị trí khóa chặn, vừa là một cái bẫy để nhử đối phương vào một trận đánh lớn theo kiểu kinh điển và có tính chất quyết định mà tại đó Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ bị tiêu diệt bởi pháo binh và hỏa lực vượt trội của Pháp.

Điện Biên Phủ nhìn từ trên cao
Navarre coi đây là lời thách thức dành cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Rõ ràng là Navarre có quyền tự tin, vì trong suy nghĩ của ông ta, Việt Minh sẽ không có cách nào đem pháo vào được Điện Biên Phủ. Nhưng ai mà ngờ được Navarre tưởng là đã bẫy được Võ Nguyên Giáp, nhưng kỳ thực chính ông ta mới bị cho vào tròng. Việc xây dựng một tập đoàn cứ điểm ở vùng núi Tây Bắc hiểm trở đã hút đi của Pháp những đơn vị thiện chiến nhất. Điều đó tạo nên khoảng trống không thể bù vào ở đồng bằng Bắc Bộ.
Với Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có chiến lược - đó là tìm mọi cách kéo pháo băng rừng vượt núi vào Điện Biên Phủ. Trong thời đại của vũ khí hạt nhân khoa học, Đại tướng đã có thể hồi sinh được nghệ thuật công thành từ cả ngàn năm về trước.
Để làm được điều này, tướng Giáp đã mất hàng giờ xây dựng một kế hoạch chi tiết và đảm bảo được khâu hậu cần lẫn quân sự để có thể phá hoại được cứ địa của địch ở Điện Biên Phủ. Không thể phủ nhận rằng đây xứng đáng là kỳ công của quân dân Việt Nam, khi bằng những công cụ thô sơ và chủ yếu là sức người mà có thể đưa được hàng chục khẩu pháo hạng nặng vào chiến trường.
Thế nhưng chiến dịch Điện Biên Phủ cũng là bài thử thách cực lớn với Võ Nguyên Giáp, khi ông đã phải đưa ra quyết định quan trọng bậc nhất đời binh nghiệp của mình - đó là chuyển chiến lược từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc” và dời lịch tấn công cứ điểm xuống muộn hơn. Quyết định này được đưa ra không phải dễ, khi lúc ấy các đơn vị đã gần như sẵn sàng chỉ đợi lệnh tấn công; nhưng sau khi suy xét kỹ tình hình và lực lượng quân Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn kiên quyết thay đổi chiến lược, tránh lặp lại những sai lầm trong các chiến dịch năm 1951

Kéo pháo bên Điện Biên Phủ
Lịch sử đã chứng minh quyết định thay đổi chiến lược của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là hoàn toàn hợp lý và đóng vai trò bản lề trong chiến thắng Điện Biên Phủ. Chiến dịch diễn ra từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, với kết quả cuối cùng là lực lượng Việt Minh đánh hạ thành công cứ điểm Điện Biên Phủ - nơi được gọi là “pháo đài bất khả xâm phạm”. Mặc dù điều kiện hậu cần và chiến đấu rất gian khổ, tuy nhiên Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn luôn dành sự quan tâm nhất định đến với binh sĩ.
Và kết quả sau cùng là trái ngọt: Việt Minh bắt sống được Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm của Pháp. Chiến thắng ở Điện Biên Phủ đã gây chấn động toàn cầu khi một nước từng là thuộc địa, với lực lượng và vũ khí thua kém rất nhiều, lại đánh thắng một đế quốc hùng mạnh. Thắng lợi này góp phần không nhỏ vào việc ký kết Hiệp định Geneve, chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương lần 1.
Cũng nhờ thắng lợi ở Điện Biên Phủ, mà Võ Nguyên Giáp đã trở thành một cái tên nổi tiếng toàn cầu. Như nhiều người về sau đã khẳng định, Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ thể hiện bản thân là một chiến lược gia lẫn nhà tổ chức hậu cần xuất sắc, mà còn là một thiên tài trong quản lý và tổ chức quân sự lẫn dân sự. Ở tuổi 43, ông đã đi vào lịch sử thế giới như một danh tướng lịch sử Việt Nam, một người hùng của các nước đang bị thực dân đô hộ và là một nhân vật nổi bật trong nền quân sự quốc tế.
Ngày 10 tháng 10 năm 1954, vị Đại tướng cùng với quân đoàn 308 tự hào hành quân về Hà Nội, mở đường cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trở lại thủ đô. Và sau gần chín năm trường kỳ kháng chiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cuối cùng cũng có thể đoàn tụ với gia đình của ông, cũng như gặp người con trai mới sinh mà ông đã đặt cái tên Võ Điện Biên - cái tên tượng trưng cho chiến tích huy hoàng của ông.
Cuộc đối đầu với siêu cường thế giới

Sau khi ký kết Hiệp định Geneve, những tưởng Việt Nam sẽ mau chóng được thống nhất và độc lập toàn vẹn nhờ một cuộc Tổng tuyển cử, nhưng các nước đế quốc nhanh chóng can thiệp. Lần này, Mỹ trực tiếp nhảy vào can thiệp, khi hậu thuẫn để thành lập chính thể Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam, do Ngô Đình Diệm đứng đầu. Cũng vì Mỹ can thiệp, nên Việt Nam vẫn bị chia cắt ở vĩ tuyến 17.
Từ năm 1954 đến năm 1956, Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa chủ trương đấu tranh hòa bình, yêu cầu chế độ Việt Nam Cộng hòa thực hiện Hiệp định Geneve vì một Việt Nam thống nhất, không chia rẽ về tình cảm và chính trị. Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm đã thẳng thừng bác bỏ đề nghị này và đẩy mạnh Chính sách tố Cộng diệt Cộng. Từ năm 1957 đến năm 1958, Đảng Lao động đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam nhưng chủ trương, biện pháp đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách mạng tiếp tục bị đàn áp và tổn thất nặng nề.
Đến tháng 1 năm 1959, khi hy vọng thực thi Hiệp định Geneve đã không còn, tại cuộc họp Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định rằng việc giải phóng miền nam phải là bằng đấu tranh vũ trang. Vì thế, Nghị quyết 15 Bộ Chính trị được ban hành, cho phép những cán bộ kháng chiến còn lại ở miền nam được tổ chức hoạt động vũ trang.
Cũng trong năm 1959, được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã quyết định thành lập Đoàn 559 mở đường mòn dọc dãy Trường Sơn để tiếp ứng phong trào cách mạng miền nam Việt Nam. Nhờ việc mở đường mòn Hồ Chí Minh dọc dãy Trường Sơn, phong trào cách mạng và hoạt động du kích miền Nam phát triển rất mạnh. Sau 4 năm, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thành lập được một số đơn vị cấp trung đoàn.

Đường mòn Hồ Chí Minh
Từ năm 1961, Mỹ bắt đầu sử dụng hàng loạt chiến dịch như chiến tranh đặc biệt với thiết xa vận cùng trực thăng vận; dùng người Việt để đánh người Việt và phá hoại tầm ảnh hưởng của quân giải phóng ở các vùng nông thôn. Mặc dù chịu tổn thất lớn, quân giải phóng miền nam với sự trợ giúp từ miền Bắc đã phản công bằng một loạt cuộc tập kích, khiến cho quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa buộc phải lui về các thành phố lớn.
Ngày 2 tháng 8 năm 1963 xảy ra sự kiện vịnh Bắc bộ khi Mỹ buộc tội miền bắc Việt Nam đã đánh chìm các tàu chiến Mỹ trong khu vực. Đây là cái cớ để Mỹ đưa ra các biện pháp trả đũa Bắc Việt bằng các cuộc không kích và ném bom. Vì vậy đến năm 1964, được Bộ Chính trị đồng ý, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã bí mật cử các tướng tài như Nguyễn Chí Thanh hay Lê Trọng Tấn vào chiến trường Đông Nam Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam.
Năm 1965, quân Mỹ bắt đầu thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ, đổ cả sức người lẫn các loại vũ khí tiên tiến vào chiến trường miền nam hòng đánh quỵ lực lượng quân giải phóng. Với quân Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp biết rằng kẻ địch của mình là một siêu cường trên thế giới với tiềm lực quân sự khổng lồ, vượt xa thực dân Pháp. Tuy vậy, ông vẫn kiên trì xác định rõ rằng đường lối chiến tranh nhân dân và trường kỳ kháng chiến là sách lược phù hợp nhất. Kết quả là hai cuộc tiến công mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ đã thất bại, họ đã không thể tiêu diệt được quân Giải phóng và bình định miền Nam Việt Nam trong 18 tháng như kế hoạch ban đầu, và quân Mỹ bắt đầu sa lầy vào một cuộc chiến hao tổn, mệt mỏi và không có dấu hiệu kết thúc.

Lược đồ cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968
Năm 1968, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tại Hà Nội phát động cuộc Tổng Tấn công và Nổi dậy Tết Mậu Thân. Một số nguồn tin nước ngoài cho rằng Đại tướng Võ Nguyên Giáp không tán thành chủ trương tổng tấn công trên toàn chiến trường miền Nam. Thế nhưng các tài liệu lịch sử ghi chép về hoạt động của Bộ Chính trị cho thấy ông đã trực tiếp tham gia vào việc lập kế hoạch và chỉ đạo chiến dịch, tuy có một số thời điểm ông phải đi chữa bệnh ở Hungary nên không thể dự họp. Ngày 25 tháng 1 năm 1968, trên đường từ Hungary về, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghé qua Bắc Kinh xin chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang thăm Trung Quốc về chiến dịch Tết Mậu Thân. Hai người cùng chờ đợi đài phát thanh thông báo về việc mở màn chiến dịch Tết Mậu Thân vào đêm giao thừa. Sau khi biết tin cuộc tiến công đã diễn ra đúng thời gian đã định, ông về nước vào đầu tháng 2 năm 1968. Hội nghị Trung ương lần thứ 14 vào tháng 1 năm 1968 cũng đã thông qua quyết định của Bộ Chính trị và quyết định Tổng tiến công.
Sau khi trở về, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên cương vị là Tổng tư lệnh tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các đợt tấn công vào dịp Tết và cả chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Chiến dịch Mậu Thân đã làm cho quân đội Hoa Kỳ bất ngờ và chịu nhiều tổn thất, thúc đẩy phong trào phản chiến ở Mỹ và trên khắp thế giới. Tuy vậy, cũng phải nói thêm rằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã không đạt được mục tiêu lớn nhất, và phía quân giải phóng cũng thiệt hại không hề nhỏ.
Sau này, vào năm 1990, khi có dịp trò chuyện với nhà sử học Stanley Karnow về chiến dịch Tết Mậu Thân; Đại tướng Võ Nguyên Giáp có chia sẻ rằng:
"Chúng tôi muốn chứng minh cho người Mỹ thấy rằng chúng tôi không hề kiệt sức, chúng tôi có thể tấn công kho vũ khí, thông tin liên lạc, các đơn vị tinh nhuệ và thậm chí cả trụ sở, đầu não cuộc chiến của họ".

Trận Khe Sanh năm 1968
Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1994, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng cho biết: so sánh tương quan lực lượng hai bên ở Khe Sanh là quá chênh lệch, hỏa lực của không quân Mỹ mạnh hơn Pháp hàng chục lần nên ông nhận thấy việc diệt gọn cứ điểm Khe Sanh (giống như trận Điện Biên Phủ) là không thể.
Mục tiêu thực tế mà phía Việt Nam theo đuổi là bao vây, tập kích nhỏ nhưng liên tục để khiến quân Mỹ chịu thương vong lớn, dần suy sụp ý chí và cuối cùng phải rút chạy.
Trong giai đoạn sau chiến dịch Tết Mậu thân 1968, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục ứng phó với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - chính là từng bước chuyển trọng trách chiến đấu cho quân đội Việt Nam Cộng hòa, tiếp tục viện trợ và cố vấn quân sự. Tuy phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng hứng chịu mất mát lớn là việc Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời năm 1969, nhưng trung ương vẫn quyết tâm kháng chiến, đồng thời bắt đầu thúc đẩy ngoại giao để đàm phán hòa bình.
Năm 1972, sau đại thắng tại Chiến dịch Đường 9 Nam Lào, với binh lực liên tục được bổ sung, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trương thừa thắng tiếp tục bằng một kế hoạch quân sự ở Tây Nguyên; nơi có khả năng triển khai lực lượng lớn, đánh lớn, gây những khó khăn lớn hơn cho quân đội Sài Gòn. Tuy nhiên, kế hoạch này đã bị Quân ủy trung ương bác bỏ do Tổng cục tình báo 2 nhận được thông tin là Mỹ và quân đội Sài Gòn đã sớm biết và đã đón lõng tại Tây Nguyên.
Một phương án mới được đưa ra. Quân Giải phóng sẽ chia quân mở 3 chiến dịch tại Trị-Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sau 2 tháng, trước những thắng lợi lớn trong Chiến dịch Trị Thiên và quân Giải phóng đã áp sát Huế, các lực lượng bổ sung được tiếp tục đưa vào đây, còn mặt trận Tây Nguyên thì buộc phải ngừng tiến công do thiếu nhiên liệu, đạn dược dự trữ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề xuất vòng qua phía tây Huế, chia lực lượng và hỏa lực đánh vào Vùng Chiến thuật I. Tuy nhiên các đơn vị công binh mở đường do thiếu phương tiện nên thực hiện quá chậm, không kịp phục vụ mục tiêu chiến dịch.
Cũng trong năm 1972, tình hình đàm phán ngoại giao dần chuyển sang hướng có lợi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đặc biệt sau chiến dịch phòng thủ thành cổ Quảng Trị và nhờ phong trào phản chiến dâng cao ở Mỹ. Tuy vậy, Mỹ vẫn muốn đánh cược một ván bài cuối cùng bằng việc mở một chiến dịch không kích quy mô lớn vào Hà Nội để ép Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải xuôi theo những yêu sách của Mỹ khi ký hiệp định.
Những ngày cuối tháng 12 năm 1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tham gia vào việc chỉ huy chiến dịch 12 ngày đêm chống lại những cuộc ném bom oanh tạc miền Bắc bằng B-52 của không quân Mỹ. Dù huy động lực lượng hùng hậu, Mỹ vẫn phải nhận trái đắng khi thất bại hoàn toàn trong các mục tiêu và để mất lượng không nhỏ máy bay chiến đấu các loại - trong đó có đến hàng chục pháo đài bay B-52 bị bắn hạ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã biểu dương các đơn vị lập công và ra lời kêu gọi: "Kẻ địch thua đau và nhất định sẽ bị thất bại hoàn toàn. Nhưng, chúng vẫn ngoan cố kéo dài cuộc tập kích. Các đơn vị hãy bắn rơi nhiều B 52 nữa, hãy giáng cho quân Mỹ một đòn "Điện Biên Phủ" ngay trên bầu trời Hà Nội, Thủ đô thân yêu của chúng ta." Thất bại trong chiến dịch này buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris với những điều khoản nhân nhượng mà chính Mỹ trước đó đã từ chối ký.
Năm 1974, để nắm vững tình hình thực tế chiến trường và có quyết sách đúng đắn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Tư lệnh trưởng Đoàn 559 là Đồng Sĩ Nguyên và chính ủy Đặng Tính đã vượt hàng trăm cây số đi thăm bộ đội Trường Sơn trên đường mòn Hồ Chí Minh và kiểm tra sự chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy dự kiến vào mùa xuân năm 1975. Cuối năm 1974, tại bản "Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà", Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ ra rằng: "Mặc dù các năm 1975 và 1976 đều quan trọng nhưng năm 1975 là năm bản lề tạo điều kiện quyết định để năm 1976 đạt mục tiêu cuối cùng. Nếu thời cơ đến vào năm 1975 thì lập tức tiến hành tổng tấn công, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975".
Năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo về việc chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược. Sau đó ông xin ý kiến Bộ Chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn "điểm huyệt" vào hệ thống phòng ngự của quân đội Sài Gòn tại Buôn Mê Thuột. Chính ông nhân đà thắng trận Buôn Ma Thuột, trực tiếp ra lệnh cho Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Và cũng chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh, cử Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh; Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh; chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông trong việc chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh chính là:
"Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng".
Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc với thắng lợi tuyệt đối của quân giải phóng; Sài Gòn được giải phóng và chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau ba thập kỷ chiến tranh không ngừng với bao mất mát, đất nước Việt Nam cuối cùng đã lại một lần nữa độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Cuộc sống sau thời chiến

Đất nước mới vừa thống nhất ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã bị quân Khmer Đỏ vượt biên giới Tây Nam tiến vào Việt Nam và xảy ra xung đột trong một thời gian dài. Khmer Đỏ được hậu thuẫn từ Trung Quốc và sau đó có Thái Lan, gây xung đột biên giới với Việt Nam từ năm 1975 mãi đến năm 1990 mới chấm dứt; mà đỉnh điểm là cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung đầu năm 1979. Tại thời điểm này Đại tướng Võ Nguyên Giáp giữ cương vị Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Sau khi cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc kết thúc, không có thay đổi lãnh thổ đáng kể giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ngày 7 tháng 2 năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục giữ chức Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật.
Sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam đối mặt với nguy cơ bùng nổ dân số. Dân số tăng nhanh đã dẫn đến nhiều vấn đề trong quản lý tài chính lẫn ổn định công việc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi ấy đã được tin tưởng để trở thành chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Chuyện sinh đẻ vẫn thường được coi là chuyện tế nhị, và trong dư luận đã không ít người đồn thổi về việc các lãnh đạo khác “ghen tị” với tài năng và khả năng của Đại tướng nên đã ép ông vào một vị trí gây “mất thể diện” như thế.
Nhưng trên thực tế, các lãnh đạo cùng ban ngành khác bên cạnh ông vẫn tích cực tham gia công tác quản lý dân số. Đảng đã phân công nên bản thân phải biết hoàn thành tốt nhiệm vụ - đấy là tôn chỉ mãi về sau của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nhà sử học Dương Trung Quốc có lần đã mạnh dạn hỏi Đại tướng về vấn đề này. Thế nhưng ông chỉ cười và bảo rằng đấy là do Thủ tướng Phạm Văn Đồng (người từng làm trưởng ban sinh đẻ kế hoạch suốt 15 năm trước đó) quá bận việc nên trực tiếp nhờ cậy ông làm giúp, chứ chẳng hề có "âm mưu" nào như dư luận đồn thổi cả:
"Kế hoạch hóa gia đình cũng như vấn đề dân số là rất quan trọng với toàn thế giới chứ không riêng đất nước mình. Nhiều nước Thủ tướng phụ trách việc này. Hồi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng bận nhiều việc nên vừa là phân công vừa là nhờ cậy tôi đảm nhận. Mà đã là nhiệm vụ thì nhiệm vụ nào cũng phải vượt qua như truyền thống của bộ đội cụ Hồ.”
Những năm tháng sau đó có rất nhiều đổi thay. Võ Nguyên Giáp tham gia vào công tác dinh dưỡng, cũng như lắng nghe các báo cáo về khí tượng - thủy văn. Năm 1986, ông tham gia vào hội thảo quốc tế tại Hà Nội về vấn đề dinh dưỡng cũng như tham dự vấn đề môi trường. Mặc dù đã không còn là người có nhiều vai trò, nhưng người dân toàn quốc vẫn rất kính trọng ông. Năm 1988, khi đất nước đã đổi mới được 2 năm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao trách nhiệm quản lý giáo dục. Tuổi đã già và mái tóc đã bạc phơ, ông vẫn tích cực tham gia vào quan hệ đối ngoại với Trung Quốc, đồng thời hỗ trợ bình thường hóa quan hệ với nước này sau cuộc chiến năm 1979.

Tướng Võ Nguyên Giáp gặp gỡ bạn bè quốc tế
Đến năm 1991, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi chức ủy viên Trung ương, Phó Thủ tướng, nghỉ hưu ở tuổi 80. Thời gian sau này, ông vẫn quan tâm và đưa ra một số bình luận trên báo chí về tình hình đất nước. Năm 2007, ông cũng gửi thư bày tỏ sự phản đối chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích số 18 Hoàng Diệu. Nguyên nhân đến từ việc xây dựng đồng nghĩa với việc sẽ gây ảnh hưởng đến Quảng trường Ba Đình. Ông cũng thường xuyên được các chính khách hàng đầu thế giới đến thăm hỏi và cũng nhiều lần tiếp đón các nhà báo và nhà sử học quốc tế. Trên phương diện thế giới, ông là một biểu tượng lớn của cách mạng Việt Nam.
Một nhận định về vị Đại tướng
Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời vào hồi 18 giờ 9 phút ngày 4 tháng 10 năm 2013 tại Bệnh viện Trung ương quân đội 108; nơi ông thường xuyên tới điều trị từ năm 2009, hưởng thọ 103 tuổi. Sự ra đi của Đại tướng là một mất mát lớn với nhân dân Việt Nam. Đã có hàng chục vạn người từ khắp nơi đổ về Hà Nội trong nhiều ngày để được vào viếng Đại tướng ở số 30 Hoàng Diệu - nhà riêng của gia đình ông.
Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông báo lễ tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp được tổ chức trọng thể theo nghi thức Quốc tang trong hai ngày 12 và 13 tháng 10 năm 2013. Ông được an táng tại quê hương Quảng Bình, theo ý nguyện của ông và gia đình. Địa điểm an táng là khu vực Vũng Chùa - Đảo Yến thuộc xã Quảng Đông, Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình.
Như nhiều trường hợp khác trong lịch sử, ta rất dễ để coi tướng Võ Nguyên Giáp là một thiên tài quân sự, và đấy là một nhận định hoàn toàn chính xác. Ông là một trong những nhà quân sự vĩ đại nhất của thế kỷ 20 nói riêng và lịch sử thế giới nói chung.
Điều đấy không chỉ đến từ sự sáng tạo, khôn khéo hay sự chi tiết, tỉ mỉ mà ông đặt ra cho từng chiến dịch, hay khả năng truyền cảm hứng và lãnh đạo của chính trị gia, mà bởi những thành quả mà ông đã đặt được. Trong lịch sử thế giới hiện đại, thật khó có thể kiếm được một đại tướng nào đã đưa một đội quân đi từ vỏn vẹn 34 người sang thành hệ thống quân đội đánh bại được tàn dư của đế chế Nhật, đả bại được Pháp và Hoa Kỳ.
Bất chấp nguồn nhân lực, tài nguyên khổng lồ từ Hoa Kỳ, tướng Giáp Đã đạt được điều mà rất ít người có thể đạt được: Chiến thắng. Ông là người quán xuyến quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Suốt 30 năm, ông đã biến một đội quân nhỏ bé của một quốc gia lạc hậu thành một đội quân hùng hậu, hiện đại và có thể tác chiến thoải mái trên cả phương diện du kích lẫn phương diện quy ước, cũng như tổ chức cả một quốc gia bước vào giai đoạn chiến tranh suốt 30 năm và giành được chiến thắng sau cùng.
Nhưng một thiên tài, dù xuất chúng đến mấy vẫn không thể thiếu đi được nghị lực và ý chí phi thường. Và đây là điều tướng Giáp không hề thiếu. Ông mất đi người vợ đầu và quãng thời gian cần thiết bên gia đình. Ông hứng chịu nhiều thất bại, nhất là những chiến dịch năm 1951 chống lại người Pháp hay chiến sự tại thung lũng la Drang năm 1965.
Ấy vậy mà tướng Giáp không để điều đấy cản lối bản thân. Ông dành trọn đời phục vụ cho lý tưởng, cho Đảng và quyết tâm giải phóng Việt Nam và đấu tranh cho nền độc lập, tự do của toàn đất nước.
Từ những thất bại mà bản thân hứng chịu, Võ Nguyên Giáp đã học hỏi và rút kinh nghiệm từ điều đấy để đưa ra nhiều chiến thắng sau này như Điện Biên Phủ. Một thầy giáo lịch sử không hề được dạy dỗ chính quy mà lại có thể đưa ra những phán đoán quân sự chuẩn xác như thế, đấy chỉ có thể gọi là thiên phú. Một người chịu nhiều thất bại mà vẫn đứng lên chiến đấu, đấy chỉ có thể gọi là nghị lực cùng ý chí kiên định đến cùng. Cái tên Napoleon Đỏ mà người Mỹ đặt ra cho ông không chỉ bởi vì bản thân ông là một chiến sĩ cộng sản kiên trung đến cùng với cách mạng, mà còn bởi một tài năng ít ai bì kịp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp bàn bạc chiến lược
Phần kết
Và vừa rồi là toàn bộ nội dung của bài viết. Cảm ơn các bạn vì đã đọc đến đây.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất











