Đá có tính luân hồi?
Hành tinh của chúng ta có một lò phóng xạ ở nhân. Các phản ứng phóng xạ này sinh ra năng lượng chủ yếu dưới dạng nhiệt năng. Nhiệt...

Hành tinh của chúng ta có một lò phóng xạ ở nhân. Các phản ứng phóng xạ này sinh ra năng lượng chủ yếu dưới dạng nhiệt năng. Nhiệt năng luôn được truyền từ nơi nóng sang nơi lạnh hơn giống như truyền nhiệt trong không khí tạo thành gió, trong đại dương tạo thành các dòng hải lưu, Nhiệt lượng này được truyền từ nhân sang lớp manti cận kề và tiếp tục được truyền từ nhân nóng ra ngoài bề mặt Trái đất lạnh hơn. Thực chất của quá trình này là mang năng lượng từ trong nhân ra ngoài bề mặt giống như truyền năng lượng từ bếp lên bề mặt nước trong ấm nước. Khác với nước là dòng chất lỏng thì vật chất trong manti là dòng plasma đặc quánh. Dòng plasma này sẽ cố vượt qua bề mặt thạch quyển như bong bóng nước khi xảy ra hiện tượng sôi. Tùy vào năng lượng mang theo sẽ có hai trường hợp xảy ra mà sinh ra hai loại đá khác nhau. Nếu năng lượng đủ lớn thì magma sẽ phá vỡ lớp thạch quyển này và đưa vật chất cùng năng lượng ra ngoài bề mặt dưới dạng dòng nhung nham nóng chảy, quá trình này được gọi là hiện tượng phun trào núi lửa, vật chất nhanh chóng nguội lạnh, không kịp kết tinh và tùy vào thành phần vật chất mà hình thành đá phun trào khác nhau như bazan (phổ biến), ryolit, andesit…Còn nếu năng lượng không đủ thắng nổi bề dày của lớp thạch quyển, dòng magma sẽ nguội dần một cách chậm chạp, quá trình nguội dần sẽ xảy ra hiện tượng kết tính các khoáng vật silicat và sau đó bị các đợt truyền vật chất sau đẩy lên bề mặt nhưng khác với đá phùn trào nó đã nguội lạnh và ở dạng kết tinh. Tùy vào thành phần vật chất mà tạo thành đá xâm nhập khác nhau như đá granit (phổ biến), gabro, granodiorit, diorit... Hai nhóm đá trên được gọi chung là đá magma. Trước khi bàn về hai nhóm đá còn lại chúng ta sẽ nói về đất trước. Các đá trên khi tiếp xúc với không khí, nước sẽ biến đổi về mặt vật lý (nứt nẻ) và mặt hóa học (khoáng vật) cho phù hợp với điều kiện trên mặt và được gọi chung là bị phong hóa. Đối với vùng khí hậu hàn đới thì nứt nẻ là chủ yếu, đối với vùng nhiệt đới thì biến đổi về mặt hóa học là chủ yếu. Sản phẩm của quá trình phong hóa này là đất. Tùy thuộc vào thành phần đá và vùng địa lý mà tạo thành nhiều loại đất khác nhau như sét, cát, cát pha, bột … Và các loại đất này bị xói mòn, rửa trôi và vận chuyển (bị tuyển chọn) dưới tác dùng của dòng chảy (sông, suối) và bị lắng động ở hồ, đầm lầy, biển tạo thành vật liệu trầm tích. Các trầm tích mới thì phủ lên các trầm tích cũ hơn. Trãi qua hàng triệu năm thì các lớp trầm tích này có thể dày đến hàng chục km. Các lớp trầm tích dưới chịu áp lực của các lớp trầm tích trên và nhiệt độ cao do ở dưới sâu nên biến đổi về mặt vật lý (mất nước và cứng hơn. Đến một nhiệt độ và áp suất nhất định sẽ tạo thành đá trầm tích. Tùy vào kích cở hạt vật liệu trầm tích và hàm lượng hữu cơ mang theo mà trạo thành các loại đá trầm tích khác nhau như đá cát kết, đá sét kết, đá bột kết, than đá, đá vôi…Nếu đá bị nhấn chìm sâu hơn nửa với áp suất và nhiệt độ cao hơn (nhiệt độ từ 50 đến 200°C và áp suất trên 1500 bar) thì khoáng vật trong đá được sắp xếp lại hoặc tái kết tinh. Đá này được gọi là đá biến chất. Và tùy vào loại đất ban đầu (đá magma, đá trầm tích và cả đá biến chất) và điều kiện biết chất mà tạo thành các loại đá biến chất khác nhau như đá phiến, đá hoa, đá quartzit… Ta thấy đá cũng không ổn định như ta tưởng mà luôn chịu biến đối từ loại đá này sang đá khác (đôi lúc là đất) cho phù hợp với điều kiện nhiệt độ và áp xuất xung quanh nó. Đá có 5 kiếp: kiếp xâm nhập, kiếp phun trào, kiếp đất, kiếp trầm tích, kiếp biến chất. Vậy ta có thể khẳng định đá có tính luân hồi.

Science2vn
/science2vn
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này