Cùng gấu tìm hiểu về các họ cổ trong dân tộc Việt Nam Họ Lỗ Ở Việt Nam (Lỗ Hán tự: 魯, Bính âm: Lu)
Cùng gấu tìm hiểu về các họ cổ trong dân tộc Việt Nam Họ Lỗ Ở Việt Nam (Lỗ Hán tự: 魯, Bính âm: Lu)
Núi Đinh và sự tích bảy anh em họ Lỗ.

Đến thế kỷ XIX, Cao Bá Quát (1808 - 1855), một danh sĩ có tài văn chương nổi tiếng một thời, trong một lần đi chu du đến địa danh Vĩnh Phúc đã lên đền chùa Tây Thiên (Tam Đảo), chùa Ngũ Phúc (trên đồi An Sơn) của 5 làng Tích Sơn có đền thờ Thất vị, núi Đanh (nơi Thất vị hóa)… Đến đâu ông cũng vừa vãn cảnh, mượn rượu làm bầu bạn để đề thơ, trong đó có bài vịnh về núi Đinh, nguyên bản chữ Hán, phiên âm như sau:
Dương lâu cao kiến Lỗ Đinh sơn
Hiệp cốt do văn ký bích man
Hải nội tức kim vô chiến lũy
Thặng lưu anh khí tại nhân gian
Tạm dịch là:
Ngồi trên lầu cao vẫn như thấy họ Lỗ ở núi Đinh
Biết rằng xương trắng đã tan trong vách đá
Nơi chiến lũy ngày nay không còn nữa
Nhưng khí anh linh vẫn còn mãi chốn nhân gian.
(Trích trong “Tam Dương Đông lâu bát vịnh đồng Minh Trọng tác” - Tám khúc vịnh ngồi trên lầu phía Đông huyện Tam Dương cùng làm với Minh Trọng - Nguyễn Quý Đôn dịch)

Theo nhiều tài liệu lịch sử tại Viện Thông tin khoa học xã hội (Hà Nội), Bảo tàng tỉnh, Thư viện tỉnh, có nhiều di tích lịch sử trên địa bàn Vĩnh Phúc thờ Thất vị Đại vương (Lỗ Đinh sơn thất vị thượng đẳng thần, tức bảy vị thượng đẳng thần họ Lỗ ở núi Đinh) có công đánh giặc Nguyên Mông xâm lược, bảo vệ đất nước thời Trần.
Xưa kia, tại sách Bồ Lý (tổng Lã Lương, động Tam Dương) có gia đình họ Lỗ tên Trọng, dòng dõi thế tộc, vợ là Khổng Thị Liên, vốn nhà thiện đức. Ông bà luôn chuyên cần tìm thuốc chữa bệnh cứu giúp cho dân, nên mọi người trong vùng đều kính nể. Tuy vậy, tuổi đã cao mà hai vợ chồng vẫn chưa có con.

Một hôm, ông Lỗ Trọng lên núi Phù Mây hái thuốc nam thì gặp một vị tiên chỉ cho nơi đất tốt, bảo đem mồ mả tổ tiên táng ở đó sẽ gặp điềm lành. Ông Lỗ Trọng liền về làm đúng như lời thần tiên đã dặn. 100 ngày sau, vợ ông lại mộng thấy 6 con hổ xông vào nhà và chim phượng hoàng vào theo.

Bà Khổng Thị Liên bàng hoàng kể lại với chồng. Lỗ Trọng nghe thầm nghĩ đó là điềm lành, trời ban phúc. Cũng từ đó, vợ ông có thai, đến kỳ 25 tháng 10 năm Đinh Mùi, bà sinh một 3 con trai đặt tên là Lỗ Văn Cường, Lỗ Văn Dũng, Lỗ Văn Mẫn.
Hai năm sau, ngày 10 tháng 7 năm Kỷ Dậu, bà Liên lại sinh được 3 cậu con trai Lỗ Văn Dực, Lỗ Văn Vũ và Lỗ Văn Đài. Cả 6 người con trai đều có tướng mạo khỏe mạnh, mắt phượng, mày ngài, hàm én, hơn hẳn người thường.
Đến 2 năm sau - đúng năm Tân Hợi, ngày 10 tháng 4, bà Liên lại sinh được 1 cô con gái vô cùng xinh đẹp, đặt tên là Lỗ Thị Bảy. Năm tháng qua đi, 7 anh em họ Lỗ lớn lên đều tài giỏi, đức độ và được Nhân dân trong vùng rất mến phục.
Khi lớn lên, bảy anh em đã có một thời không thần phục triều Trần, nhưng rồi được Thái sư Trần Thủ Độ thu dùng, sáu anh trai được phong chức quan Điển binh thị nội, người em út Lỗ Thị Bồ được phong làm Tham mưu việc quân.
Tháng Chạp năm Đinh Tị (đầu năm 1258), tướng giặc Nguyên Mông là Ngột Lương Hợp Thai dẫn quân theo đường lộ Đại Lí (Vân Nam, Trung Quốc) xâm lăng nước Đại Việt, tiến đến Sông Thao. Bảy anh em nhà họ Lỗ nhập vào đoàn quân cứu nước do Trần Thủ Độ chỉ huy và đều được phong chức Tướng quân.

Ngày 12 tháng Chạp, quân Nguyên Mông tiến đến địa điểm Bình Lệ Nguyên (nay thuộc xã Đạo Đức, huyện Bình Xuyên). Vua Trần Thái Tông tự thân đốc chiến. Bảy anh em nhà họ Lỗ khi ấy cũng đang đón đánh giặc ở sông Lô (sông Hồng ngày nay), liền đem quân đến cứu, nhận lệnh đóng quân cản giặc ở động Tam Dương, huyện Tam Dương. Còn đại binh của quân Nguyên Mông đã tiến đến xã Nhật Chiêu. huyện Yên Lạc.
Ngày mồng 2 Tết năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần Thái Tông ban cho sáu người anh mỗi người một thanh long đao, người em út được một đôi bảo kiếm. Mỗi người được một con ngựa chiến và một áo chiến bằng gấm, cùng một vạn quân tinh nhuệ để ra trận. Đến buổi đêm, bảy anh em cho quân sĩ giết gà, lập đàn thề ước, tuyển mộ thêm quân sĩ ở quê hương là các xã Bồ Lí, Hữu Thủ bổ sung quân cho nhà vua.
Sáng ngày mồng 3, đến xã Nhân Ngoại, huyện Tam Dương đội quân được nhân dân tưng bừng tiếp đón, mổ lợn khao quân, đương lúc tưng bừng thì được tin tiền đạo quân Nguyên Mông đang tiến đến gần, bảy vị Tướng quân kịp truyền lệnh dùng số thịt lợn còn chưa được nấu chín đỏ khao quân, còn tiết lợn thì dùng xoa lên trán quân sĩ để tỏ lòng quyết chiến tới cùng.
Trận chiến diễn ra vô cùng quyết liệt, quân Nguyên Mông phải rút chạy về cố thủ ở xã Nhật Chiêu. Đạo quân của bảy vị tướng quân cấp tốc vây kín quân giặc, chém được hơn 1.000 tên. Số quân giặc do khiếp sợ nhảy xuống sông chết đuối, khiến dòng nước sông Lô có lúc tắc lại.
Ngày ca khúc khải hoàn, bảy vị đều được vua Trần phong tước Đại vương. Riêng bà Lỗ Thị Bẩy được ban tước hiệu: Đô dũng thống chế đại vương, đại tướng quân, lại còn được ban thưởng rất hậu và phong đất ngụ lộc ở vùng Đinh Sơn (Núi Đanh), nên gọi là Thất vị Lỗ Đinh Sơn.
Về sau, cả bảy vị đều mất ở núi Đanh. Tuy ngày mất có khác nhau, nhưng triều đình cho lấy ngày mồng 4 tháng giêng là ngày cúng giỗ chung. Sắc phong đề là Lỗ Đinh Sơn thất vị Đại vương. Lại phong riêng cho bà Bẩy là Ả lợi chàng lê hùng nữ công chúa.
Bộ Lễ triều Lê chép sự tích bảy anh em họ Lỗ vào mục Sơn thần của nước Nam được tôn thờ. Đền thờ chính: Xã Tích Sơn Thành Phố Vĩnh Yên . Có 5 di tích: Đình Cả thôn Vĩnh Ninh (về sau là phố Đồng Thái) thờ ba vị: Lỗ Văn Cường, Lỗ Văn Dũng và Lỗ Văn Mẫn; Miếu Đậu thôn Đậu thờ vị Lỗ Văn Dực; Miếu Khâu làng Khâu (thôn Sơn Đồng) thờ vị Lỗ Văn Vũ; Miếu Sậu làng Sậu (sau là phố Sơn Tuyền) thờ vị Lỗ Văn Đài; Miếu Tướng xóm Tiếc thôn Vĩnh Ninh thờ vị Lỗ Thị Bồ, hiệu: Đô dũng thống chế đại vương, Lỗ Thị Bồ đệ nhất đại tướng quân. Nay đều thuộc về thành phố Vĩnh Yên. Xã Nhân Ngoại: nay là làng Nhân Mĩ, xã Thanh Vân, huyện Tam Dương.

Các di tích khác cùng thờ cúng có: Làng Miêu Duệ thờ ở đình Láng, Làng Hữu Thủ thờ ở đình Hữu Thủ, Làng Hướng Đạo thờ ở đình Hướng Đạo, Làng Hán Nữ, Làng Định Trung thờ ở thôn Yên Lập và đình thôn Thiện Kế, Làng Xuân Trường thờ ở đình thôn Mĩ Hổ, đều là vùng xung quanh núi Đanh có tới 18 điềm thờ tự.
Vua Trần Thái Tông làm lễ phong thưởng cho các tướng soái có công, 7 anh em họ Lỗ được ban cai quản tại sách Bồ Lý, động Tam Dương và đất núi Đinh tổng Miêu Duệ. Về sau, 7 anh em họ Lỗ hóa thân đều táng ở chân núi Đinh. Nhân dân ở đây và nhiều nơi vùng xung quanh núi Đinh đã lập đình, đền và miếu thờ các vị.

Theo tài liệu của Bảo tàng tỉnh, hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 13 đình, đền, miếu thờ Thất vị Đại vương Lỗ Đinh sơn tại các huyện Tam Dương, Bình Xuyên và thành phố Vĩnh Yên như các đình Lai Sơn, Yên Lập, Mỹ Hổ, Hữu Thủ, Sơn Bi, Thanh Giã; đền Bồ Lý; miếu Đậu; miếu Chám… Các di tích này hầu hết đã được xếp hạng cấp tỉnh.
Hằng năm, vào tháng Giêng, các làng đều dâng hương, mở tiệc tưởng nhớ công lao của Thất vị Đại vương Lỗ Đinh sơn. Tuy mỗi di tích có một kiến trúc khác nhau nhưng đều mang dáng vẻ trầm mặc, uy linh như lịch sử hào hùng để lại.

Cụ Bùi Quang Quyền (86 tuổi) - người trông nom di tích đình Hữu Thủ, xã Kim Long, huyện Tam Dương cho biết: “Ngôi đình này đã được xây dựng cách đây khoảng 300 năm. Trải qua các cuộc chiến tranh, ngôi đình cùng nhiều cổ vật bị phá hủy, Nhân dân trong làng đã cùng khôi phục, tu bổ lại. Gần đình còn có lăng của Thất vị đại vương do Nhân dân lập. Hằng năm cứ đến ngày 15 tháng hai Âm lịch, Nhân dân lại tổ chức tiệc làng tưởng nhớ đến Thất vị đại vương và dâng lễ, rước kiệu trang nghiêm. Khi đó, kiệu sẽ được rước từ lăng về đình, lễ tế xong, Nhân dân cùng nhau ôn lại lịch sử chiến công của các vị thần, sau đó cùng hưởng lộc trong không gian đầm ấm, đoàn kết. Tại đây, các trò chơi dân gian cũng được diễn ra sôi nổi như kéo co, đập niêu, đập lọ, vật…”.
Ngôi đình giờ đây đã thêm "năm tuổi” nhưng cây đa, hàng gạch, lối đi trước sân vẫn cổ kính như tái hiện một thời lịch sử oanh liệt, sự hy sinh, nghĩa khí của các anh hùng dân tộc ngày nào. Các thế hệ con cháu qua bao đời vẫn trân trọng, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa, lịch sử quý báu của cha ông để lại như ngọn núi Đinh thiêng liêng giữ “hồn dân tộc” mãi vững bền với thời gian.


Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
