Nhân dịp ra mắt cuốn sách So Good They Can’t Ignore You, tác giả Cal Newport giải thích lý do tại sao ông tin “hãy theo đuổi đam mê” là một lời khuyên tồi. 
“Không có nhiều bằng chứng cho thấy đây là cách hoạt động của niềm đam mê. ‘Hãy theo đuổi đam mê của bạn giả định rằng: a) bạn đã có niềm đam mê từ trước; và b) nếu bạn kết hợp niềm đam mê này với công việc của mình, thì bạn sẽ yêu thích công việc đó.” 
Khi Newport tiến hành nghiên cứu vấn đề, sự việc hóa ra không đơn giản tới thế:
“Hầu hết mọi người không có niềm đam mê từ trước. Và nghiên cứu về sự hài lòng tại nơi làm việc cho thấy mọi người thích công việc của họ vì nhiều lý do khác nhau hơn là chỉ đơn giản là họ có niềm đam mê với công việc đó.” 

Bí mật của Mark Cuban 

Lời khuyên ‘theo đuổi đam mê’ có thể xem là khẩu hiệu với người trẻ, tuy nhiên cũng phải thừa nhận một sự thật đắng lòng: 9 trên 10 người trẻ còn chẳng biết họ đam mê cái gì, hoặc chỉ có những sở thích rất chung chung như đọc truyện tranh, xem phim, chơi thể thao hay cày game cùng lũ bạn,... 
Lấy ví dụ thể thao chẳng hạn. Thể thao là đam mê của rất nhiều bạn trẻ, và Mark Cuban ngày đó cũng không phải ngoại lệ: 
“Tôi từng đam mê trở thành một cầu thủ bóng chày. Sau đó, tôi nhận ra tốc độ ném bóng của mình ở mức 70 dặm/giờ (các vận động viên chuyên nghiệp thường ném ở mức vượt quá 90 dặm/giờ).  Tôi từng đam mê trở thành một cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp. Sau đó, tôi nhận ra sức bật của mình chỉ dừng ở mức 7 inch (tất cả các ứng cử viên hàng đầu tại NBA hầu như đều có sức bật rơi vào tầm trên 40 inch). Có rất nhiều thứ tôi đam mê. Rất nhiều. Nhưng thứ mà tôi thực sự giỏi, cuối cùng chính là thứ mà tôi đã chấp nhận bỏ ra nhiều công sức nhất. Rất nhiều người nói ‘hãy theo đuổi đam mê’ nhưng đó không thực sự là thứ bạn nên tập trung vào. Thay vào đó, bạn nên tự hỏi mình câu hỏi sau: Mình nên dành thời gian vào việc gì? Vì khi bạn dành tặng nó đủ thời gian, bạn sẽ trở nên giỏi, rất giỏi trong lĩnh vực đó. Bạn giỏi vì bạn đã đánh đổi biết bao thời gian, công sức, những buổi đi chơi cuối tuần, những giờ nằm ì trên giường nhai bỏng xem phim hay đánh bài cùng lũ bạn,...”
Và khi bạn đã rất giỏi rồi, Mark Cuban tiết lộ thêm một bí mật:
“Không ai từ bỏ thứ mà họ đang làm tốt cả. Vì ‘giỏi giang’ là một chất gây nghiện. Vì bạn đang làm tốt, bạn sẽ có hứng thú hơn với công việc đó. Bạn thích mê cái cảm giác được mọi người xung quanh ngưỡng mộ, còn bạn thì làm chủ được công việc của mình. Đó là khởi nguồn của sự thỏa mãn trong công việc.” 
*Link video của Mark Cuban:

Câu chuyện về Steve Jobs 

Hãy theo đuổi đam mê. Hãy tìm kiếm thứ bạn thích và dấn thân. Đừng từ bỏ. Hãy nghe theo tiếng nói của con tim. Chà, quen quá nhỉ? Mấy câu nói này hẳn bạn đã nghe rất nhiều trong các cuốn sách self-help, được đánh bóng và trau chuốt trong các bài diễn văn tốt nghiệp và trở đi trở lại trong các bài phát biểu của người nổi tiếng. 
Trong bài phân tích của mình, Cal Newport cũng đề cập tới bài diễn văn nổi tiếng của Steve Jobs tại Đại học Stanford vào mùa hè năm 2005. Cụ thể, trong ba lời khuyên Jobs dành tặng tới toàn thể các cô cậu 19, 20 tuổi ngày hôm ấy có một lời nhắn nhủ đầy khích lệ như sau:
And most important, have the courage to follow your heart and intuition. They somehow already know what you truly want to become. Everything else is secondary.
Nhiều người giải thích câu nói này như một lời động viên, khuyến khích chúng ta hết mình vì đam mê và mọi chuyện sẽ đâu vào đấy. Cứ đi rồi sẽ đến, đến đâu thì tính sau.
Lý do câu nói này lại có sức nặng tới vậy bởi người nói là Steve Jobs. Trời ơi, thiên tài lập dị thành lập nên đế chế Apple thần thánh, khởi nghiệp từ gara của bố mẹ cùng người bạn thân và cuối cùng trở thành một tượng đài công nghệ toàn cầu.
Nhìn vào cuộc đời Steve Jobs, ai ai cũng nghĩ ông là một tấm gương điển hình cho việc theo đuổi đam mê đến cùng. Tuy nhiên, khi Newport nhìn vào khởi đầu của Jobs với ngành công nghiệp máy tính thì phát hiện ra một sự thật khá phũ phàng: Jobs khởi đầu với ham muốn kiếm tiền chứ không hoàn toàn sinh ra với đam mê và lòng thôi thúc phải tạo ra một công ty máy tính thần thánh. 
Năm 1974, Steve Jobs sau chuỗi ngày lang thang thiền thụng ở Ấn Độ trở về Mỹ, vất vưởng ở mấy xưởng điện tử tại California kiếm tiền tiêu qua ngày. Tháng Giêng năm 1975, ông tình cờ đọc được trên tờ Popular Mechanics bài đăng về bộ máy tính cá nhân đầu tiên tên Altair.
Altair không đắt lắm, chỉ khoảng 500 đô-la cho một khối các bộ phận được hàn với một tấm bảng mạch được làm một cách đơn giản – nhưng đối với dân chơi như Jobs lúc đó thì sự ra đời của Altair như báo hiệu buổi bình minh của một kỷ nguyên mới.
Cùng tờ báo đó, Bill Gates và Paul Allen đọc được bài viết này và bắt tay vào thử chạy phiên bản BASIC, một ngôn ngữ lập trình dễ sử dụng trên Altair rồi thành lập một công ty lấy tên là Microsoft. 
Quay trở lại với Steve Jobs, khi đọc xong bài báo đó, ông đánh hơi ngay thấy mùi tiền: Làm ra bảng mạch điện tử theo tiêu chuẩn của bộ máy tính Altair đó, rồi bán cho mấy thanh niên ham hố máy tính điện tử khác như một thú vui đồng thời kiếm ít tiền tiêu vặt.
Jobs đã lên kế hoạch thuê một chàng trai ông biết tại Atari vẽ những bảng mạch và sau đó in ra khoảng 50 bản, tốn tầm 1.000 đô-la rồi bán chúng với giá 40 đô-la một chiếc và lợi nhuận dự tính là 700 đô-la.
Quá ngon ăn, Jobs bèn tìm đến thanh niên Steve Wozniak đầu to kính cận để rủ làm cùng. Woz không quá phấn khởi trước cơ hội kiếm tiền, nhưng cực kỳ phấn chấn khi nghe Jobs nói tới việc hai người sẽ thành lập một công ty. 
“Trời ơi, hai người bạn thân cùng thành lập một công ty!”, Woz thốt lên.
“Trời ơi, hai người bạn thân cùng thành lập một công ty!”, Woz thốt lên.
Woz bắt tay vào làm nhưng ban đầu doanh số không mấy ấn tượng. Tuy nhiên, có một người quan trọng đang âm thầm nghe ngóng tình hình. Anh ta là Paul Terrell, chủ chuỗi cửa hàng máy tính tên Byte. Jobs đã vui mừng chào hàng tới Terrell. Terrell đồng ý đặt mua 50 bộ nhưng với một điều kiện: anh không muốn những bảng mạch in rời rạc mà khách hàng sẽ phải mua thêm chip và tự lắp ráp, thay vào đó anh muốn các bảng mạch được thiết kế hoàn chỉnh và sẵn sàng trả 500 đô mỗi bộ bằng tiền mặt, tức là phi vụ 25.000 đô-la béo bở đang lù lù trước mắt Jobs. 
Thời tới, Jobs hộc tốc chạy về xưởng thúc đít Wozniak làm máy tính, chạy vạy mọi nơi cầm đồ vay tiền. Máy tính làm ra tự dưng đắt khách, người người kéo nhau tới mua ầm ầm. 
Cái mà Jobs có ở đây là tài năng, sự nhạy bén, máu liều cùng ông cộng sự Woz đỉnh của chóp. Woz chỉ lớn hơn Jobs 5 tuổi nhưng kiến thức về điện tử thì vượt xa. Trong những ngày đầu tiên của Apple, Woz cân tất tần tật về khâu kỹ thuật và Jobs chủ yếu đảm nhiệm khâu bán hàng và marketing. 
Jobs càng làm càng hăng, làm ra iPhone được đón nhận quá trời đất rồi làm tiếp iPad, iPod, đủ các thể loại. Nhưng vốn dĩ ngay đầu Jobs đâu đam mê tới thế. Jobs chỉ muốn giàu có, muốn kiếm tiền, nhưng thời tới rồi cản không kịp.. Cái đam mê mà Jobs vẫn nói đi nói lại vốn dĩ không phải điểm xuất phát, nó là kết quả của một quá trình nỗ lực làm việc mà bắt nguồn từ ham muốn làm giàu. 
Jobs tiếp xúc với điện tử từ sớm và đạt tới độ thông hiểu nhất định về lĩnh vực này, nhưng đó chưa hẳn là "what you love" như ông đã gọi tên.
Jobs tiếp xúc với điện tử từ sớm và đạt tới độ thông hiểu nhất định về lĩnh vực này, nhưng đó chưa hẳn là "what you love" như ông đã gọi tên.
Cần nói tới ở đây là bố của Jobs là một thợ cơ khí, vậy nên từ bé Jobs đã sớm am hiểu điện tử và có một độ thông hiểu nhất định. Tuy nhiên chính trong tiểu sử của Jobs cũng không hề nhắc gì tới việc ông yêu thích các con chip thế nào, muốn gắn đời mình với điện tử ra sao. Thời điểm đó, nếu Jobs quyết tâm theo đuổi đam mê thì có lẽ ông đã cải đạo và sống tuốt ở bên Ấn rồi.

50% cầu thủ bóng rổ tại NBA thừa nhận không đam mê bóng rổ 

Tương tự như câu chuyện của Jobs, Patrick Beverley, cầu thủ bóng rổ đang chơi tại giải nhà nghề Mỹ (NBA) từng tiết lộ một sự thật phũ phàng trước báo chí: 50% đồng đội của anh, gồm cả những người thuộc hàng đỉnh nhất tại NBA thừa nhận không hề đam mê bóng rổ. Ngọn lửa nhiệt huyết với trái bóng cam từng thôi thúc họ tập luyện đã nguội lạnh, thay vào đó là những hợp đồng triệu đô với các đội bóng hay thương hiệu nổi tiếng. 
Trong tâm lý học, người ta dành riêng hẳn một thuật ngữ để miêu tả hiện tượng này: hiệu ứng thỏa mãn vượt ngưỡng. Hiệu ứng này cho rằng khi hành động của một người được gán một hay vài mục đích hay phần thưởng, họ sẽ bắt đầu bớt yêu thích việc đó.
Tôi sẽ lấy ví dụ đơn giản thôi. Bạn tới nhà bồ chơi, ăn một bữa cơm thật thân mật. Mâm cơm sum vầy tuyệt ngon, mọi người cười cười nói nói. Bạn còn không quên nịnh mẹ bồ về tay nghề nấu nướng của bà, và bà mỉm cười đầy sung sướng. Giờ thay vì khen bà một câu như thế, bạn đứng dậy phủi đít rồi vứt vài tờ 500k thay lời cảm ơn cho bữa ăn. Lúc này, sự sung sướng trong bà sẽ tắt ngúm và có khi ông chồng ngồi cạnh thì vào sẵn thế võ rồi.
Thế đấy, không chỉ riêng gì tiền, khi bạn vật chất hóa một hoạt động nào đó (mà vốn dĩ đến từ động lực nội tại bên trong) bằng một phần thưởng (tiền chẳng hạn) tới từ bên ngoài, niềm vui thích trong bạn có nguy cơ bị thui chột đi. 
Các cầu thủ bóng rổ kia đã từng yêu thích bóng rổ, họ từng chơi bóng rổ vì “mình thích thì mình chơi thôi”, nhưng giờ đây bóng rổ với họ là công ăn việc làm, sự nghiệp của họ phụ thuộc phần lớn vào việc chơi bóng rổ. Lúc này, đam mê buộc phải lùi lại để nhường chỗ cho nghĩa vụ và trách nhiệm, do vậy đứng dưới góc nhìn tâm lý học, phát biểu của Patrick Beverley dù nghe chua chát nhưng đó là cách mà thế giới này vận hành.
Hãy đào sâu thêm chút nữa. Vì là giải đấu bóng rổ hấp dẫn nhất hành tinh, các cầu thủ tại đây cũng không phải dạng vừa. Nếu bạn cao 1m90 tại Việt Nam, bạn là người khổng lồ. Được rồi giờ nhấc bạn sang NBA, bạn sẽ thấy hầu hết mọi người đều cao hơn bạn từ nửa tới một cái đầu.
Tại Mỹ, bóng rổ là môn thể thao vua. Đi ngoài đường, cách mấy dãy nhà bạn lại bắt gặp một cái trụ bóng rổ. Doanh thu hàng năm tới từ các giải đấu lên tới hàng tỷ đô, và các cầu thủ có cơ hội kiếm tiền ngay trong quãng thời gian đại học. Cơ hội luôn rộng mở, ông nào chẳng khao khát bước chân vào NBA. Mấy ông cầu thủ với sải tay còn dài hơn chiều cao của bạn chắc cũng từng tự hỏi mình có thể làm gì để kiếm tiền, và thứ duy nhất họ có thể nghĩ tới là bóng rổ. Nếu bạn thành danh ở NBA, không chỉ bạn đổi đời mà cả họ nhà bạn cũng được nhờ theo. Thứ khiến nhiều cầu thủ theo đuổi bóng rổ lại có gốc rễ sâu xa từ ham muốn thành danh, còn đam mê là kết quả sau một quá trình dài hai lăn lộn trong giải đấu. Tôi tin là trong trường hợp của Patrick Berveley, đam mê đó không hẳn đã mất, nó chỉ đơn giản bị thui chột đi ít nhiều.
Quay trở lại với Cal Newport, câu nói trên cũng chính là kết luận mà ông rút ra từ các nghiên cứu: Niềm vui trong công việc, hay ‘đam mê’ là cái bạn đạt được sau một quá trình nỗ lực rèn luyện, tích lũy kỹ năng và trở nên xuất chúng trong lĩnh vực mình chọn. Với tâm thế này, đam mê là một tác dụng phụ của nỗ lực. 
Tìm được niềm hân hoan phấn khởi trong công việc, mỗi sáng thức dậy đi làm là một ngày vui, ước mơ đó sẽ bớt xa vời hơn khi bạn tự đặt cho mình những câu hỏi thực tế hơn thay vì cứ cắm đầu vào tìm kiếm đam mê của mình. 
Việc gì có thể khiến bạn kiếm ra tiền nhỉ? Việc gì mà bạn giỏi ấy, hoặc có thể làm mà không quá chán ghét? Và bạn sẽ nâng cao tay nghề của mình kiểu gì đây? Ai sẽ là mentor của bạn? 
Rồi bằng cách bước đi từng chút một, chậm rãi mà chắc chắn, bạn dần dần phát triển các kỹ năng trong công việc đó. Bạn trở nên xuất sắc và nằm trong hàng ngũ những kẻ đỉnh nhất. Bạn đỉnh tới mức công việc tự tìm tới bạn, bạn được trả rất nhiều tiền để làm việc, thậm chí tới mức bạn có thể thẳng tay từ chối những dự án bạn không thích. Sự thành thạo giúp bạn làm chủ công việc, bạn thấy thật tự do, bạn kiếm đủ tiền để không phải lo nghĩ nhiều và cuối cùng, bạn tự dưng thấy thích cái công việc này làm sao! 
Bài viết được lấy ý tưởng và phát triển từ bài viết gốc của tác giả Golden Nguyen đăng tải trên Spiderum vào năm 2018:
Đọc bài viết gốc để ủng hộ mình tại đây.