Trần Quân Tuyền (GS, TS Viện khoa học xã hội Trung Quốc) Tạp chí Triết học (2007)
http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Phuong-Tay/Gia-tri-lao-dong-va-gia-tri-tri-thuc-425.html
Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra sự phân tích và luận chứng khoa  học để, một mặt, phê phán quan điểm của phương Tây cho rằng lý luận giá  trị lao động của C.Mác đã không còn ý nghĩa; mặt khác, chứng minh một  cách thuyết phục lý luận giá trị thặng dư của C.Mác không hề lỗi thời,  mất tác dụng. Theo tác giả, nghiên cứu sâu hơn vai trò của lao động trí  óc (hay nói cách khác – giá trị tri thức) là chủ đề lớn mà những nhà  mácxít hiện nay có trách nhiệm phải làm sáng tỏ. Cuối cùng, bài viết  khẳng định rằng, nếu không nghiên cứu tỉ mỉ lý luận giá trị lao động mà  đã phủ định nó một cách đơn giản thì đó không phải là một thái độ khoa  học.

Ph.Ăngghen cho rằng, C.Mác có hai phát hiện lớn: một là, phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử; hai là, phát hiện về giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị thặng dư là hòn đá  tảng của lý luận kinh tế chính trị của C.Mác. Nó đã bóc trần bí mật  trong sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Trong đó, thuyết giá trị lao động  của C.Mác lại là cơ sở cho thuyết giá trị thặng dư của ông.
C.Mác  chỉ ra rằng, những giá trị sử dụng của các loại hàng hoá là muôn hình  vạn trạng, không thể dùng số lượng để đo lường chúng là bao nhiêu. Ông  nói: "Nếu bóc tách riêng giá trị sử dụng của hàng hoá ra, hàng hoá chỉ  còn lại một thuộc tính, đó là thuộc tính sản phẩm lao động"(1). Tức là,  giá trị của hàng hoá chính là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá  đó. Cho nên, chúng ta thường nói rằng, lao động tạo ra giá trị.
Trong  chế độ tư bản chủ nghĩa, để đạt được giá trị thặng dư, nhà tư bản bắt  buộc phải tìm trên thị trường loại hàng hoá mà bản thân giá trị sử dụng  của nó có một thuộc tính đặc biệt làm nguồn gốc cho giá trị, quá trình  sử dụng nó đồng thời là quá trình tạo ra giá trị. Loại hàng hoá đặc thù  đó chính là sức lao động của con người. Điều cần đặc biệt chú ý là, "lao  động" và "sức lao động" là hai khái niệm không giống nhau. Sức lao động  là năng lực tiến hành lao động của con người. Sử dụng sức lao động mới  là lao động, mà lao động tức là tạo ra giá trị. Giá trị của bản thân sức  lao động bị quyết định bởi thời gian lao động bắt buộc (tức giá trị chi  phí trang trải sinh hoạt mà công nhân và người nhà của họ cần đến)  trong xã hội có nhu cầu về sức lao động sản xuất. Nhà tư bản mua lại sức  lao động theo giá trị sức lao động trên thị trường, nghĩa là có quyền  sử dụng sức lao động đó trong sản xuất, và cưỡng bức người lao động phải  làm việc cả ngày. Ví dụ như để họ làm việc 12 tiếng, thì trong vòng 6  tiếng (thời gian lao động "bắt buộc"), người lao động đã có thể tạo ra  sản phẩm đủ bù cho chi phí đời sống của họ, 6 tiếng còn lại (thời gian  lao động "dư thừa") họ tạo ra sản phẩm "dư thừa" mà nhà tư bản không  phải trả thù lao nữa, tức là giá trị thặng dư.
Trong  lịch sử loài người, do có lao động thặng dư mới sinh ra khả năng bất  bình đẳng, người bóc lột người. C.Mác chỉ rõ: lao động thặng dư không  phải xuất hiện từ khi có tư bản. Trong xã hội được tạo nên bởi kẻ bóc  lột và người bị bóc lột, giai cấp thống trị đều thu được lao động thặng  dư trên thân thể của số đông người lao động bị bóc lột. Ông nói: "Sự  phân biệt các kiểu hình thái kinh tế - xã hội khác nhau như xã hội nô lệ  và xã hội thuê mướn lao động, chỉ là các hình thức khác nhau của việc  tước đoạt lao động thặng dư trên thân thể người sản xuất, người lao  động"(2). Đặc điểm của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là ngày  càng bóc lột nhiều hơn lao động thặng dư, dùng những thủ đoạn tinh vi  hơn, khéo léo hơn, lừa bịp hơn để đoạt lấy lao động thặng dư.
Chủ  nghĩa tư bản đương đại vẫn là xã hội sở hữu tư nhân tư bản, về mặt bóc  lột lao động thặng dư, nó không khác gì về bản chất so với chủ nghĩa tư  bản tự do, bởi sự phân tích của C.Mác đã được cơ bản thực hiện một cách  tổng thể đối với chủ nghĩa tư bản, nên vẫn còn thích hợp với chủ nghĩa  tư bản đương đại. Nhưng, do sự phát triển của khoa học - kỹ thuật hiện  đại cùng những ngành nghề sản xuất dựa trên nó, quá trình tự động hoá  trong sản xuất tạo ra hiện tượng vai trò của lao động trực tiếp của  người lao động ngày càng mờ nhạt. Vì thế, có học giả phương Tây đã đưa  ra kết luận rằng, lý luận về giá trị lao động và học thuyết thặng dư của  C.Mác nhằm vạch trần thực chất nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi  thời và mất tác dụng.
Ví dụ như nhân  vật đại biểu cho học phái Fankfurt, Marcuse đã có tuyên ngôn từ rất sớm:  sự phát triển nhanh chóng của khoa học - kỹ thuật dần dần tự động hoá  sản xuất, "khiến số lượng và cường độ của thể lực cần tiêu hao trong sản  xuất ngày càng giảm đi". "Sự thay đổi này dường như đánh đổ khái niệm  “cấu thành hữu cơ tư bản” và lý luận về sự hình thành giá trị thặng dư  của C.Mác… Ngày nay, tự động hoá dường như đã làm thay đổi về tính chất  quan hệ giữa lao động quá khứ và lao động sống; nó đã đạt đến mức cái  quyết định sức sản xuất “không còn là hàng hoá riêng lẻ, mà là máy móc”.  Hơn nữa, “việc đo lường chuẩn xác hàng hoá riêng lẻ đã biến thành việc  không thể có”(3). Hoặc như nhà triết học nổi tiếng người Đức - Habermas  cũng tuyên bố: “Khi sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật biến thành một  thứ nguồn giá trị thặng dư độc lập, mà lại dựa vào nền tảng giá trị sức  lao động giản đơn để tính toán tổng mức đầu tư tư bản trên phương diện  nghiên cứu và phát triển, là việc làm không mấy ý nghĩa; hơn nữa, nếu  đem so với nguồn giá trị thặng dư độc lập ấy, thì nguồn giá trị thặng dư  mà C.Mác rút ra qua khảo sát, tức sức lao động của người sản xuất trực  tiếp, càng ngày càng trở nên không quan trọng nữa”. Vì thế, ông cho  rằng, “điều kiện để vận dụng học thuyết giá trị lao động của C.Mác đã bị  mất đi”(4).
Những  người như Marcuse, Habermas lập luận nghe ra có vẻ sắc sảo, cho rằng  như thế đã có thể nhẹ nhàng đánh đổ lý luận giá trị lao động của C.Mác.  Nhưng cần biết rằng, những ngôn luận ấy dựa trên sự suy nghĩ chưa thấu  đáo.
Sự phát triển của khoa học - kỹ  thuật, tiến hành tự động hoá sản xuất đã thúc đẩy sức sản xuất tăng cao  không ngừng. Trong sản xuất lớn hiện đại hoá, người sản xuất đã coi các  bộ phận, khí quan của cơ thể mình như một thành phần của hệ thống tự  động hoá, khiến cho việc dùng sức lực trực tiếp cho sản xuất ngày càng  ít đi rất nhiều, có những ngành mà người sản xuất trực tiếp biến thành  người quản lý, người điều tiết quá trình sản xuất. Vậy trong tình hình  ấy, lý luận giá trị lao động của C.Mác có còn phù hợp với chủ nghĩa tư  bản đương đại không, nguyên lý lao động tạo ra giá trị có phải đã quá  thời, mất đi tác dụng? Đây là vấn đề lý luận rất lớn cần được nghiên  cứu, giải đáp. Đương nhiên, đối với cách lý giải sai lạc lý luận giá trị  lao động của C.Mác của các học giả phương Tây như Marcuse, Habermas,  chúng ta đồng thời có lý do phản bác.
C.Mác  chỉ ra rằng, sức lao động là năng lực của người tiến hành lao động, là  “tổng hoà của thể lực và trí lực tồn tại trong thân thể con người hay  trong cơ thể con người  sống, được vận dụng mỗi khi con người sản xuất  ra giá trị sử dụng nào đó”(5). Sử dụng sức lao động chính là lao động.  Nhìn chung, “quá trình lao động đều kết hợp lao động trí óc và lao động  thể lực”(6). Theo C.Mác, lao động tạo ra giá trị bao gồm lao động thể  lực và cả lao động trí óc, thêm nữa, hai loại lao động này được kết hợp  với nhau trong quá trình sản xuất. Cái gọi là giá trị, chính là lao động  trong quá khứ được ngưng kết trong hàng hoá. “Bản thân giá trị sử dụng  (của sức lao động) đã có thuộc tính đặc thù để trở thành nguồn gốc của  giá trị. Do đó, việc sử dụng nó thực tế chính là quá trình vật hoá lao  động, từ đó sáng tạo nên giá trị”(7). C.Mác chưa từng nói chỉ có mỗi lao  động thể lực của con người mới làm nên giá trị, ông không hề coi thường  vai trò của lao động trí óc và nhân tố trí tuệ trong việc tạo ra giá  trị.
Ngược lại, C.Mác rất đề cao vai  trò quan trọng của lao động trí óc và yếu tố trí tuệ của con người trong  quá trình sản xuất. Ông còn nhấn mạnh rằng, chính phương thức sản xuất  tư bản chủ nghĩa mới tạo ra sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động  thể lực. Ông nói: “Đặc điểm của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa  là ở chỗ nó chia tách các loại lao động khác nhau, do đó nó tách lao  động trí óc và lao động thể lực, hoặc có thể nói, chia tách các loại lao  động lấy lao động lấy trí óc làm chủ đạo hay lấy lao động lấy thể lực  làm chủ đạo, phân phối cho những người khác nhau. Nhưng, … sự phân tách  đó không thể xoá đi được một điểm: quan hệ của mỗi người trong số họ đối  với tư bản đều là quan hệ với người thuê mướn lao động, đều là quan hệ  công nhân sản xuất theo ý nghĩa đặc thù đó”(8). C.Mác còn chỉ ra rằng,  trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do, tồn tại một hiện tượng “biến trẻ  vị thành niên trở thành những máy móc đơn thuần tạo ra giá trị thặng  dư, khiến trí lực của chúng bị suy thoái một cách nghiêm trọng”. “Sự suy  giảm về trí lực của trẻ em làm cho Nghị viện Anh cuối cùng không thể  không tuyên bố, trong tất cả các ngành công nghiệp chịu chế ước của luật  công xưởng, điều kiện pháp định cho việc sử dụng trẻ em dưới 14 tuổi  ‘trong sản xuất’ là chúng phải được giáo dục sơ đẳng”(9).  Chính vì C.Mác coi trọng tác dụng của lao động trí óc và thành quả của  nó (tri thức), ông mới chỉ ra cho số đông quần chúng công nhân thấy  rằng, "Công nhân có một nhân tố thành công đó là số lượng đông đảo;  nhưng, chỉ khi nào quần chúng được tổ chức lại cùng với sự chỉ đạo của  tri thức, số lượng đông đảo ấy mới phát huy vai trò quyết định thắng bại  của nó"(10).
Trong  nền sản xuất tương lai, vai trò của yếu tố trí tuệ ngày càng gia tăng;  trong các xã hội tri thức nói chung, nó sẽ càng có khả năng chuyển biến  thành sức sản xuất trực tiếp. C.Mác đã nhìn thấy trước viễn cảnh phát  triển như vậy của sản xuất. Nhưng sau khi suy tư về viễn cảnh phát triển  sản xuất đó, ông vẫn kiên trì quan điểm lao động sáng tạo giá trị. Dưới  đây, chúng ta sẽ xem xét lý do mà ông nêu ra là gì.
Điều  cần chú ý là, quá trình sản xuất lớn hiện đại hoá vẫn phải trông cậy  vào người sản xuất cầm cương điều khiển; sự tăng trưởng của giá trị hàng  hoá vẫn chủ yếu dựa vào người sản xuất, chứ không phải tư bản và máy  móc. C.Mác từng châm biếm rằng, “... Tư bản chỉ có một loại bản năng  sống, đó là làm cho bản thân sinh sôi, đoạt lấy giá trị thặng dư, sử  dụng bộ phận bất biến của mình là tư liệu sản xuất để vơ vét hết khả  năng lao động thặng dư. Tư bản là lao động chết, nó giống như con quỷ  hút máu, chỉ có hút máu lao động sống nó mới có sinh mệnh, hút được càng  nhiều lao động sống bao nhiêu thì sức sống của nó càng mạnh mẽ bấy  nhiêu"(11). Hệ thống cơ khí tự động hoá chỉ vỏn vẹn là công cụ của lao  động sản xuất, nó là tư bản bất biến, nếu như không có người sản xuất sử  dụng nó vào trong quá trình sản xuất, thì nó chẳng những không có cách  gì để chuyển dịch giá trị tự thân của mình, chứ đừng nói đến việc làm  sinh sôi được giá trị hàng hoá.
Ứng  dụng của khoa học - kỹ thuật vào quá trình sản xuất, tiến hành tự động  hoá sản xuất chỉ biểu hiện kết cấu sức lao động đã có sự biến chuyển  lớn. Giá trị hàng hoá sinh sôi càng ít dựa vào lao động thể lực của  người sản xuất, thì lại dựa càng nhiều vào lao động trí óc của họ. Lao  động thể lực của công nhân giảm đi, nhưng lao động trí óc họ phải bỏ ra  nhiều hơn. Việc tạo ra giá trị hàng hoá công nghệ cao thể hiện trong tất  cả quá trình nghiên cứu, thiết kế, sản xuất và tiêu thụ. Trong toàn bộ  quá trình đó, khoa học - kỹ thuật, tri thức, thông tin phát huy vai trò  to lớn; nhưng suy đến cùng, chúng đều là sản phẩm của lao động trí óc  mang tính sáng tạo của con người. Do đó, tình hình mới của phát triển  sản xuất không hề làm thay đổi sự thực là lao động tạo ra giá trị.
Đồng  thời, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật hiện đại chỉ thúc đẩy sự  thay đổi của cấu thành hữu cơ (tỉ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả  biến) trong tư bản, chứ không thể thay đổi thực tế sự phát triển kinh tế  của chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn phải dựa vào việc theo đuổi giá trị  thặng dư. Hơn nữa, khi người lao động trí óc sáng tạo và sử dụng khoa  học - kỹ thuật, họ cũng phải bỏ ra rất nhiều lao động. Trong quá trình  sản xuất hiện đại hoá, số lượng người lao động trí óc tăng lên rất  nhiều, họ cũng bị nhà tư bản thuê, sáng tạo một lượng lớn giá trị thặng  dư. Từ đó để thấy rằng, lý luận giá trị thặng dư của C.Mác không hề lỗi  thời và mất đi tác dụng.
Đương nhiên,  trong thời đại cách mạng công nghiệp, C.Mác vẫn chưa thể bóc tách riêng  lao động trí óc ra, chuyên đi sâu nghiên cứu vai trò của nó trong việc  tạo ra giá trị. Đây là chủ đề mà trước mắt chúng ta cần cấp thiết nghiên  cứu. Những năm 60 của thế kỷ XX tới nay, tri thức khoa học tăng trưởng  rất lớn, sự thẩm thấu và kết hợp lẫn nhau giữa khoa học tự nhiên và khoa  học xã hội, giữa khoa học và kỹ thuật khiến cho khoa học - kỹ thuật  hiện đại trở thành một hệ thống tri thức thống nhất với nhiều bộ môn  khoa học và nhiều tầng bậc chuyên môn. Trong lịch sử, tri thức luôn là  một nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng từ trước đến  nay chưa hề có nhiều lao động tri thức như bây giờ, và cũng chưa từng có  việc truyền bá tri thức nhanh như bây giờ thông qua máy tính và mạng  internet. Nhìn chung, cung cấp tri thức không gây ra cho người cung cấp  sự nghèo đói, mà ngược lại, chia sẻ tri thức thường lại có thể là nguồn  gốc đem lại sự giàu có. Tri thức hiện tại được coi như một động lực thúc  đẩy cho sự phát triển sức sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
Năm  1962, nhà kinh tế học người Mỹ, giáo sư Fritz Marchlup đã đưa ra khái  niệm mới về ngành "công nghiệp tri thức", trình bày vai trò quan trọng  của thông tin và tri thức trong việc làm giàu. Nhà xã hội học nổi tiếng  Alexander Grahem Bell gọi xã hội hậu công nghiệp là "xã hội tri thức",  cho rằng một trong những đặc trưng quan trọng của nó là "tri thức lý  luận chiếm vai trò trung tâm"(12).  Ông còn cho rằng, cần phải để tri thức trở thành hạt nhân cho phát  triển kinh tế. Năm 1982, nhà tương lai học người Mỹ - John Naisbitt thậm  chí coi thuyết giá trị lao động ra đời trong thời điểm sơ kỳ của kinh  tế công nghiệp đã không còn phù hợp với nền kinh tế thông tin đang đến  gần. Hiện nay "cần thiết phải tạo ra thuyết giá trị tri thức thay thế  cho thuyết giá trị lao động"(13).
Phải  thừa nhận rằng, lao động trí óc là nguồn gốc quan trọng của sức sản  xuất phát triển, nó cũng tạo ra giá trị. Trong điều kiện của cách mạng  khoa học - kỹ thuật và sản xuất hiện đại hoá, lao động trí óc của con  người và thành quả của nó (tri thức) trong quá trình tạo ra sự giàu có  và giá trị đã phát huy vai trò ngày càng quan trọng. Bây giờ xem ra  trong quá trình sản xuất vật chất, vai trò của ba yếu tố lao động, tư  bản và đất đai không phải là quan hệ ngang hàng nữa. Mà trong đó, lao  động là yếu tố sản xuất quan trọng nhất, hai yếu tố còn lại bị phụ thuộc  vào nó. Mà trong yếu tố sản xuất lao động này, lao động trí óc và thành  quả của nó (tri thức) lại là nguồn gốc chủ yếu làm nên sự giàu có và  giá trị.
Cách mạng khoa học - kỹ thuật  hiện đại, đặc biệt là sự phát triển của kỹ thuật thông tin đã khơi dậy  sự phát triển nhanh chóng của một ngành công nghiệp mới - công nghệ  thông tin. Sự sản xuất, lưu thông và tiêu dùng thông tin trong xã hội  hiện đại đã trở thành hoạt động kinh tế cực kỳ quan trọng. Thế nhưng,  sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hoá thông tin so với hàng hoá vật  chất có sự khác biệt căn bản. Đặc điểm của hàng hoá thông tin khiến giá  trị của nó không thể đo đếm được; do đó, trước mắt, trong những dòng  kinh tế học chủ lưu, nó vẫn chưa được xem như là một loại hàng hoá độc  lập để phân tích. Cần phải nói rằng, tất cả hàng hoá thông tin, bao gồm  cả hàng hoá tri thức, không giống với các hàng hoá thông thường, không  chỉ giá trị sử dụng của nó không có tính xác định, mà giá trị của nó còn  thiếu cả thước đo thống nhất trong xã hội. Đặc biệt là lao động trí óc  mang tính sáng tạo và thành quả của nó (như tri thức khoa học, phát minh  kỹ thuật và tác phẩm văn học nghệ thuật v.v.), việc đo đếm sức sản xuất  và lượng giá trị của chúng là một vấn đề cực kỳ khó khăn và phức tạp.  Do đó, có thể thấy, không dễ gì mà có được cái gọi là "lý luận giá trị  tri thức".
Điều kỳ quặc là, có một số  học giả phương Tây cùng với việc đưa ra vấn đề giá trị tri thức, lại tìm  đủ mọi cách để phủ định luôn lý luận giá trị lao động của C.Mác. Điều  này khiến người ta thấy thật khó hiểu. Họ có biết rằng, hơn 140 năm  trước, C.Mác đã đặt ra sớm hơn họ vấn đề khó khăn không dễ giải quyết  này. Ông nói: "Việc đánh giá sản phẩm của lao động trí óc, tức là khoa  học, đều thấp hơn giá trị của nó rất nhiều, bởi vì thời gian lao động  bắt buộc để tái sản xuất khoa học không thể đem so được với thời gian  lao động cần thiết của sản xuất khoa học lúc ban đầu, ví như học sinh  trong 1 giờ đồng hồ có thể nắm được hai dạng thức định lý"(14).  Gần đây, nhà kinh tế học trứ danh Joseph E. Stiglitz cũng thừa nhận,  một khi tri thức được phát hiện và công khai, số lượng người sử dụng nó  càng gia tăng khiến cho vốn liếng (tri thức) trở thành không giới hạn.  Có thể nhận thấy cách nhìn của C.Mác trước đây có tầm sâu sắc và xa rộng  đến thế nào.
Chúng tôi thấy rằng, hàng  hoá tri thức, hàng hoá thông tin tuy không giống với hàng hoá vật chất  trên nhiều mặt, nhưng chúng đều là sản phẩm của lao động của con người  trong xã hội có phân công lao động, đều là sản phẩm do lao động của nhân  loại đã bỏ ra mới có được giá trị. Cái gọi là giá trị tri thức chính là  lao động loài người kết tinh trong hàng hoá tri thức, hàng hoá thông  tin. Trên cơ sở cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là  thành tựu của cuộc cách mạng thông tin, chúng ta buộc phải căn cứ vào  nguyên lý cơ bản, thuyết giá trị lao động của C.Mác để phân tích, nghiên  cứu sâu hơn giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá tri thức, hàng hoá  thông tin, mới có thể giải quyết từng bước vấn đề mang tính thời đại  này. Không tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ mà đã phủ định một cách đơn giản  lý thuyết giá trị lao động, đó không phải là một thái độ khoa học.r
Người dịch: TRẦN THỊ THUÝ NGỌC
Người hiệu đính: THS.NGUYỄN TÀI ĐÔNG                                              
  
 
(*) Bài viết đăng trên "Nghiên cứu triết học", số 11 năm 2001. Đăng lại trên “50 năm nghiên cứu triết học Trung Quốc mới”, quyển thượng, tr.92 - 97.
(**) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc.
(1) C.Mác – Ph.Ăngghen. Toàn tập, q.23. Nxb Nhân dân. Bản tiếng Trung in lần thứ nhất, tr.50.
 
(2) C.Mác – Ph.Ăngghen. Sđd., tr.244.
(3) Con người một chiều. Nxb Trùng Khánh, 1988, tr.22, 26.
(4) Khoa học và kỹ thuật cho “Hình thái ý thức”. Nxb Học Lâm, 1999, tr 62.
(5) C.Mác – Ph.Ăngghen. Sđd., q.23, tr.190.
(6) C.Mác – Ph.Ăngghen. Sđd., q.26, tr.555.
(7) C.Mác – Ph.Ăngghen. Sđd., q.26, tr.190
(8) C.Mác – Ph.Ăngghen. Sđd., q.26, tr.444.
(9) C.Mác – Ph.Ăngghen. Sđd., q.23, tr.438 - 439.
(10) C.Mác – Ph.Ăngghen. Tuyển tập., q.2. Nxb Nhân dân, 1995, tr.606 - 607.
(11) C.Mác – Ph.Ăngghen. Toàn tập. Sđd., q.23, tr.260.
(12) Xem: Xã hội hậu công nghiệp đang đến gần.Thương vụ ấn thư quán, 1984.
(13) Xu thế lớn. Nxb Khoa học xã hội Trung Quốc, 1989, tr.15 – 16.
(14) C.Mác – Ph.Ăngghen. Sđd., q.26, tr.377.
Bản quyền bài viết thuộc về Viện Triết học, Viện Hàn lâm KHXH Việt  Nam. Việc đăng lại bài viết này tại các website hoặc các phương tiện  truyền thông khác mà không xin phép và ghi rõ nguồn  http://philosophy.vass.gov.vn là vi phạm bản quyền.

Quản trị tri thức để tránh bẫy tri thức: liên hệ so sánh giữa vài quốc gia Đông Nam Á


  1.  Đặt vấn đề: Tri thức cho sự phát triển


Giữa thế kỷ 20 diễn ra một bước ngoặt  trong chính sách phát triển. Câu hỏi đặt ra là: quốc gia nghèo tài  nguyên làm thế nào để phát triển trong một thế giới mà nhu cầu và giá cả  của nguyên liệu thô, nhất là nhiên liệu hóa thạch, ngày càng tăng? Làm  thế nào để mua được năng lượng hóa thạch và kim loại nặng với giá ngày  càng cao trong quá trình phấn đấu lên vị trí một nước công nghiệp hóa?  Trong khu vực Đông Nam Á, câu hỏi này được đặt ra đối với Việt Nam,  Malaysia và Thái Lan, trong khi không hề được đặt ra ở Brunei Darussalam  (một quốc gia nhiều dầu lửa).
Cần sử dụng nguồn lực con người như thế  nào để đất nước vượt khỏi mức thu nhập thấp? Báo cáo Phát triển của Ngân  hàng Thế giới năm 1998 – 1999 đã tổng kết ý tưởng khi nhận diện “tri  thức” là nhân tố mới của sản xuất. So sánh con đường phát triển của Hàn  Quốc và Ghana, Ngân hàng Thế giới kết luận rằng các yếu tố đầu vào  truyền thống cho sản xuất như đất đai, vốn, lao động cơ bắp, chỉ giải  thích được một phần nhỏ sự khác nhau trong trình độ phát triển giữa hai  quốc gia. Phần còn lại được quy cho đầu vào/đầu ra cao hơn của “tri  thức” trong những nỗ lực phát triển của Hàn Quốc. Đây cũng là điều giải  thích vì sao Hàn Quốc đã vươn lên thành một trong những nước công nghiệp  hàng đầu thế giới, còn Ghana thì tụt hậu. Lập luận này thực ra hơi đơn  giản, nhưng kể từ đó đến nay nó đã thúc đẩy sự tăng cường đầu tư nghiên  cứu đối với “tri thức cho phát triển” (knowledge for development, K4D)  và cho một loạt các chương trình phát triển.
Nhiều người thường dẫn chứng Singapore  như là hình mẫu về một quốc gia từ chỗ không có tài nguyên thiên nhiên  trở thành một quốc gia công nghiệp công nghệ cao do quyết liệt thực hiện  liên tục một chính sách tri thức và khoa học nhất quán. Phương pháp  đánh giá tri thức (Knowledge Assessment Method, KAM) của Ngân hàng Thế  giới và ngân hàng dữ liệu này đã trở thành công cụ giá trị cho các nhà  lập kế hoạch phát triển trên toàn thế giới. Ý tưởng này tự nó không phải  là mới. Ngay từ đầu những năm 1930, khi chứng kiến Đế chế Anh đang tan  rã, Winston Churchill trấn an “những đế chế của tương lai sẽ là những đế  chế của tinh thần”. Lịch sử thế giới sau đó cho thấy điều tự an ủi này  đã thành một lời tiên tri.
Sau một thời kỳ ngắn ngủi chấp nhận và  lao vào chiến lược phát triển tri thức có phần vội vàng, thiếu suy xét,  ngày nay người ta có điều kiện đánh giá thực tế hơn và đầy đủ hơn việc  này. Trong một số nghiên cứu, chúng tôi đã phát biểu về nan đề của việc  “thu hẹp sự phân cách số hóa (digital gap)” (mục tiêu “thu hẹp” này do  UNESCO đề xướng). Từ đó, chúng tôi đã cảnh báo các nhà kế hoạch phát  triển về “bẫy tri thức” trên con đường tiến đến một nền kinh tế và xã  hội dựa trên tri thức (Evers and Gerke, 2005).
  1.  Bẫy trí thức và sự tụt lại


Với đặc tính của một hàng hóa, tri thức  có đặc tính phân biệt với các hàng hóa khác. Một trong những đặc tính đó  là việc sản xuất tri thức mới cũng làm tăng không – tri thức  (non-knowledge) hoặc “sự không biết” (ignorance) (Hình 1).
Hình 1. Tăng trưởng của sự biết (tri thức) và sự không biết
Ghi chú: Sơ đồ minh họa, không phản ánh số liệu thực.


Một công trình nghiên cứu tạo ra tri thức  mới nhưng cũng làm tăng tri thức về cái mà ta không biết. Thông thường,  báo cáo của một dự án nghiên cứu luôn có câu “như vậy, vấn đề nghiên  cứu chúng tôi đặt ra đã được giải quyết”. Có nghĩa là tri thức về một  chủ đề nhất định đã tăng lên. Sẽ là nhận xét “nghiên cứu này cho thấy  nổi lên những vấn đề mới cần phải nghiên cứu tiếp”. Với mỗi vấn đề được  giải quyết, nhiều vấn đề khác lại bật ra. Tri thức tăng lên kèm theo  việc tăng lên mạnh hơn tri thức về cái ta không biết, tức là tri thức  tăng lên làm gia tăng cái không biết. Chúng tôi gọi điều này là “sự tụt  lại có tính nhận thức luận” (epistemological backlash). Tình trạng tăng  “cái không biết” kèm theo việc tăng rủi ro và tăng kinh phí nghiên cứu  cần thiết cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Đây là một khía cạnh của  “bẫy tri thức”.
Một khía cạnh khác của “bẫy tri thức” là  một sự tăng đầu vào tri thức vào nền kinh tế và xã hội sẽ chỉ diễn ra  nếu có sự tăng lên trong sử dụng tri thức. Động năng của tri thức theo  một đường cong cung – cầu đặc thù. Cầu về tri thức tăng lên cùng với sự  gia tăng của cung tri thức. Đó là vì khi ta sản xuất và sử dụng tri thức  cho mục tiêu sản xuất, lại cần có thêm nhiều tri thức nữa với tính cách  là một nguồn tài nguyên. Điều này thường biểu hiện ra ở hiện tượng tăng  cầu về nhân lực trình độ cao và nhu cầu thành lập các viện nghiên cứu,  các think tank. Đáp ứng được cả hai yêu cầu ấy đều khó và ngày càng đắt.  Kinh nghiệm vừa qua cho thấy, nhiều quốc gia kẹt vào “bẫy tri thức”,  một khi họ không thể đáp ứng hai yêu cầu trên do hệ thống giáo dục cấp  cao trong nước yếu kém hoặc không có tài chính để thu hút tài năng đắt  tiền và mua trang thiết bị cho các viện nghiên cứu tiên tiến.
Singapore tránh được “bẫy tri thức” do có  tiềm lực tài chính để nhập khẩu chất xám nghiên cứu viên nước ngoài và  tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng nghiên cứu (Đại học Quốc gia Singapore  và A*Star, chẳng hạn). Trong khi đó, sau một thời kỳ bùng nổ, ngày nay  Malaysia tỏ ra đang mắc kẹt trong “bẫy tri thức” vì chính sách tuyển  chọn cán bộ nghiên cứu và đại học thiên vị tộc người và thiếu tài chính  cho giáo dục cấp cao. Ở Malaysia, nhiều người đang nói đến tình trạng  tài năng hiện không được sử dụng hết năng lực và không đủ tri thức cũng  như nguồn lực để sản xuất ra tri thức mới trong các cơ sở đại học và  viện nghiên cứu.
Việt Nam cũng rơi vào tình trạng chính  sách tuyển chọn cán bộ không đạt tiêu chuẩn, chế độ biên chế suốt đời ít  căn cứ vào kết quả công tác, chế độ thành tích và đãi ngộ mang nặng  tính bình quân và cào bằng, kết hợp với tình trạng lãng phí kinh phí.  Nói cách khác, tương tự những dấu hiệu thể hiện nguy cơ rơi vào “bẫy thu  nhập trung bình”, Việt Nam cũng đang có những dấu hiệu phản ánh nguy cơ  mắc kẹt trong “bẫy tri thức”.
Là một nước giàu tài nguyên nhưng ít dân,  Brunei Darussalam không phải chịu áp lực phát triển cơ sở tri thức  riêng của mình và điều hành nền kinh tế chủ yếu bằng cách thuê ngoài cho  hoạt động nghiên cứu phát triển (outsourcing R&D). Brunei đã thay  đổi chính sách nhằm tránh “bẫy tri thức”, nhưng cho đến nay sự thay đổi  diễn ra rất chậm, với một ít thành công hạn chế, cho dù có đủ tiềm lực  kinh tế. Cùng với Singapore, Brunei Darussalam là nước có GDP đầu người  cao nhất Đông Nam Á và ngang ngửa với các nước phát triển trên thế giới.  Tuy nhiên, Singapore có được thành tựu này chủ yếu nhờ thể chế, chính  sách và nhân lực. Còn Brunei Darussalam chủ yếu nhờ vào nguồn tài nguyên  dầu mỏ, mặc dù nước này cũng có một nguồn nhân lực học vấn tốt.
  1.  Chiến lược tri thức và quản trị tri thức

Xương sống của bất kỳ nền kinh tế tri  thức nào là một mạng internet kết nối nhanh. Phát triển mạng cáp quang  sẽ thúc đẩy tiếp cận internet trong xã hội. Chính phủ Malaysia dưới thời  Thủ tướng Mahathir đã xây dựng Siêu Hành Lang Đa Truyền thông (Multi  Media Super Corridor) kết nối internet tốc độ cao để thu hút đầu tư công  nghệ cao nước ngoài vào Malaysia. Mạng cáp quang cũng được sử dụng ở  một số vùng thuộc Kuala Lampur và Penang, nhưng vẫn chưa phủ mạng hoàn  toàn như ở Singapore hay một số nước châu Âu. Đang khi nỗ lực như vậy  thì những phát kiến công nghệ khác như smart phone và máy tính bảng đã  ngốn ngấu hết cả không gian mạng. Thêm vào đó là cơn bão chat, video và  nhạc trực tuyến đang bành trướng rất nhanh, tạo ra vô vàn nút thắt cổ  chai trong đường truyền dữ liệu.
Như đã lập luận ở trên, tri thức đòi hỏi  tăng tốc việc tạo ra hoặc sử dụng tri thức. Phần lớn các nước ASEAN,  nhất là Singapore, Malaysia và Brunei Darussalam, đã thực hành chính  sách giáo dục cấp cao (đại học và cao học) bình đẳng. Chính sách giáo  dục và khoa học định hướng vào việc tạo ra các trung tâm chất lượng cao  (centres of excellence), như hệ thống đại học APEX ở Malaysia, hoặc như  sự chuyển hướng sang nghiên cứu và đầu tư cho nghiên cứu trong Đại học  Brunei Darussalam (UBD), đại học này đang phấn đấu vươn lên trên thang  bậc hàn lâm của khu vực và thế giới.
Suốt hơn 20 năm qua, Việt Nam cũng có sự  tăng trưởng mạnh mẽ của hệ thống đào tạo đại học và đầu tư cho sản xuất  tri thức. Nhưng khác với ba nước kể trên, khi chuyển từ cơ cấu xã hội  được gọi là “hành chính tập trung quan liêu bao cấp” sang cơ cấu xã hội  mang tính thị trường, dường như nền giáo dục cấp cao ở Việt Nam lại trở  nên bất bình đẳng hơn. Sinh viên sống và học phải dựa vào tiền túi của  gia đình, trong khi các gia đình ở Việt Nam ngày càng khác nhau xa về  thu nhập. Ngoài ra, hệ thống tuyển chọn vào làm việc và thăng tiến, trên  danh nghĩa là theo bằng cấp và năng lực, song trong thực tế, bị bóp méo  bởi yếu tố tiền bạc, quyền lực và mạng lưới quan hệ. Những đặc tính này  dẫn đến nguy cơ đất nước rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” cũng như  “bẫy tri thức.”
  1.  Xây dựng cảnh quan trí tuệ cụm tri thức

Thực ra, xây dựng nền kinh tế tri thức  không phải là một hoạt động “phát triển kinh tế” thuần túy, mà bản chất  là “phát triển xã hội”. Phát triển một nền kinh tế và xã hội dựa trên  tri thức đòi hỏi một quy hoạch vùng tổng thể. Chúng tôi sử dụng thuật  ngữ “xây dựng cảnh quan trí tuệ” (epistemic landscaping) để nhấn mạnh  đến một khía cạnh của quản trị tri thức cho đến nay thường bị coi nhẹ,  đó là phát triển một nền kinh tế và xã hội dựa trên tri thức đòi hỏi  nhiều thứ hơn là chỉ công nghệ thông tin truyền thông (ICT). Cần một  tổng thể các cơ sở ICT, những cơ sở nghiên cứu và đào tạo, những cụm và  tụ điểm tri thức kết nối mật thiết với nhau cũng như một loạt sáng kiến  của chính phủ và xã hội dân sự để tạo nên một cảnh quan trí tuệ với  những đỉnh cao sản xuất tri thức và mặt bằng giáo dục cơ bản.
Sản xuất tri thức cần có công viên khoa  học, viện nghiên cứu, đơn vị R&D, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME),  trường đại học, v.v., và chúng phải tụ với nhau trong một không gian  mật thiết. Các cụm nảy sinh “tự phát” hoặc do sáng kiến của chính phủ  ngày nay đang tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới như Thung lũng Silicon,  Hyderabad, ABC (Aachen-Bonn-Cologne), Penang, Biopolis Singapore, MSC  Malaysia, Jababeka/Jakarta, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, và có thể sắp  tới là Bandar Seri Begawan hay Jerudong ở Brunei Darussalam. Đây là  những cụm tri thức trong những cảnh quan trí tuệ trong khu vực.
Các cụm tri thức bao gồm các trường đại  học và cao đẳng, viện nghiên cứu, các think tank, các cơ sở nghiên cứu  chính phủ và các công ty sử dụng nhiều tri thức. Cụm tri thức có năng  lực tổ chức để dẫn dắt, đổi mới và tạo ra những ngành công nghiệp mới.  Cụm cũng là những trung tâm trong các cảnh quan trí tuệ, tức là trong  một cấu trúc rộng hơn của sản xuất và phổ biến tri thức.
Khi xem xét các cụm tri thức như là một  hình thái đặc thù của cụm công nghiệp, phần lớn các nghiên cứu đều giả  định rằng cụm sẽ có tính năng suất và đổi mới hơn. Việc giảm chi phí  dịch chuyển do gần gũi về khoảng cách luôn là một lập luận đầy sức mạnh  để giải thích hiện tượng hình thành cụm công nghiệp tự phát. Lập luận  này một thời được cho là không còn đúng nữa khi ICT phát triển nhanh  chóng. Một hội nghị video có thể dễ dàng kết nối các nhà quản lý của  nhiều công ty, quan chức chính phủ và nhà khoa học, bất kể họ ở nơi nào  trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế chỉ ra rằng sự gần gũi về khoảng cách  vẫn là một yếu tố quan trọng để tạo ra cách tân và sản phẩm công nghệ  cao tại Thung lũng Silicon hoặc các cụm tri thức kết hợp với công nghiệp  của Cambridge và của Massachusetts.
Hình 2. Cụm tri thức ở Malaysia
H2. Cum tri thuc o Malaysia

Ở  Malaysia nổi bật lên ba cụm tri thức dày đặc: cụm Bắc tập trung ở  Penang, Thung lũng Klang gắn với Kuala Lampur và Siêu Hành Lang Đa  truyền thông với Putrajaya và Cyberjaya, và cụm Nam ở Nam Johore gần  Singapore (Hình 2). Là một quốc gia chỉ với khoảng 400.000 dân, Brunei  Darussalam có sự kết cụm khá dày đặc. Ngoại trừ một cụm nhỏ liên quan  đến dầu mỏ gần Seria, phần lớn các tổ chức liên quan đến tri thức đều  tọa lạc trong cụm tri thức Bandar Seri Begawan (Hình 3). Nghiên cứu của  chúng tôi trong Dự án WISDOM (Water-related Information System for the  Sustainable Development of the Mekong Delta in Vietnam) cho thấy ở Nam  Bộ nổi lên cụm tri thức Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Cần Thơ  (Bauer, 2011; Bùi Thế Cường và Solvay Gerke, 2013) (Hình 4). Dĩ nhiên, ở  phía Bắc có cụm tri thức Hà Nội.

Hình 3. Cụm tri thức ở Brunei Darussalam, 2011
Nguồn: Nghiên cứu của UBD về Brunei với tính cách là tụ điểm tri thức, 2012 - 2013


Hình 4. Cụm tri thức ở Thành phố Hồ Chí Minh, 2009
Nguồn: Nghiên cứu của UBD về Brunei với tính cách là tụ điểm tri thức, 2012 - 2013.

Nguồn: Nghiên cứu của UBD về Brunei với tính cách là tụ điểm tri thức, 2012 – 2013.
Việc kết nối và chia sẻ tri thức trong  cụm và với bên ngoài có sự khác biệt đáng kể. Nghiên cứu cụm tri thức ở  Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy việc kết nối  nội bộ và chia sẻ tri thức trong hai cụm này rất thấp, nhưng kết nối của  các tổ chức trong hai cụm này với các tổ chức trong cụm tri thức Hà Nội  ở miền Bắc thì lại tốt hơn (tài liệu đã dẫn). Sản phẩm của các kết quả  nghiên cứu được công bố thấp hơn rất nhiều so với mức kỳ vọng, và ngay  cả các ấn phẩm cũng không được phổ biến trong giới nghiên cứu và quan  chức trong cụm tri thức Thành phố Hồ Chí Minh (tài liệu đã dẫn).
Có một cách đo lường mức kết nối với bên  ngoài, tuy hơi thô sơ nhưng rất tiện lợi, bằng cách sử dụng lượng ấn  phẩm hợp tác giữa các nhà nghiên cứu của các trường đại học khác nhau.  Đối với công ty, phát triển sản phẩm chung có thể là cách đo lường tốt.  Trong nghiên cứu về cụm công nghiệp Jababeka gần Jakarta (Indonesia),  tri thức chủ yếu được truyền tải dọc theo chuỗi cung cấp của ngành công  nghiệp ô tô chủ đạo, nhưng nối kết tương đối yếu ớt với các trường đại  học và viện nghiên cứu (Purwaningrum, 2013). Tình trạng ở Việt Nam dường  như khá giống với tình trạng này ở Indonesia.
Sử dụng tổ chức tri thức thông qua kết  nối quốc tế, người ta có thể tiếp cận tri thức mới và truyền dữ liệu.  Những mạng lưới này vẫn còn mất cân xứng theo nghĩa động lực chính  thường là nhân lực và kinh phí từ tổ chức của những quốc gia có mức chi  cho R&D cao hơn hoặc có sản phẩm tri thức cao hơn (thường là từ  những nước giàu hơn). Quan hệ mang tính lịch sử và mạng lưới alumni (cựu  sinh viên đại học cùng trường) tỏ ra là yếu tố bổ sung trong việc định  hình mạng lưới khoa học và nghiên cứu. Cả Malaysia và Brunei Darussalam  đều có liên hệ mạnh với Australia và Vương quốc Anh, sau đó là các nước  trong cộng đồng châu Âu, Ấn Độ và Trung Quốc. Tuy nhiên, kết nối và hợp  tác nghiên cứu trong khối ASEAN thấp một cách đáng thất vọng.
Kết hợp giữa hình thành cụm tri thức với  các tụ điểm tri thức quốc tế đã phát triển có thể đem lại kết quả là có  đầu ra cao, đo bằng số ấn phẩm và phát minh. Tuy nhiên, điều này chỉ xảy  ra nếu thỏa mãn ba điều kiện khác. Đó là:
Chia sẻ tri thức và nối mạng bên trong cụm tri thức.
– Hỗ trợ một đội ngũ nghiên cứu được đào tạo chuyên sâu bằng một chính sách tuyển chọn hợp lý và kinh phí nghiên cứu thỏa đáng.
– Có đủ thời gian để phát triển và nuôi dưỡng một nền văn hóa trí tuệ cho sản xuất tri thức.
Các cụm tri thức – tổng thể của các viện  nghiên cứu, trường đại học, cơ quan chính phủ, công ty tư vấn và chế tác  – chỉ sản xuất ra tri thức mới, nếu chúng kết nối và chia sẻ tri thức.  Các trường đại học thu lợi rất nhiều khi tọa lạc trong một không gian  cụm tri thức. Chính sách quốc gia cần thích hợp trong việc phát triển  một cảnh quan trí tuệ cân bằng của các cụm tri thức và tụ điểm tri thức.  Mở các trường đại học và viện nghiên cứu một cách cô lập và tách biệt  sẽ dẫn đến hậu quả là không thể đưa một quốc gia tiến lên một nền kinh  tế và xã hội dựa trên tri thức.
Đạt đến giai đoạn mà đầu ra tri thức sẽ  mang tính sản xuất là một quá trình lâu dài, như đã được chỉ ra trong  một nghiên cứu so sánh giữa Đại học Brunei Darussalam (UBD) và Đại học  Sains Malaysia (USM). Cả hai trường đại học này đều theo đuổi chính sách  nâng cấp cơ sở, đào tạo nhân lực và tăng cường kinh phí nghiên cứu để  chuyển thành đại học nghiên cứu. Nhưng thời gian trôi qua, USM vượt lên  với một số lượng lớn hơn nhân lực và kinh phí nghiên cứu, dẫn đầu và bảo  vệ vị trí là một trong các trường đại học hàng đầu ở Đông Nam Á. Trong  khi đó, UBD mãi đến rất gần đây mới có một vài dấu hiệu chuyển mình.
  1. Kết luận

Không ai nghi ngờ tính đúng đắn của việc  các quốc gia chậm phát triển hơn cần có chiến lược đi ngay vào xây dựng  nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức, đây là con đường để có thể sớm  bắt kịp những quốc gia đi trước. Tuy nhiên, như đã thấy trong lịch sử  phát triển nói chung, nhiều quốc gia có thể thoát khỏi bẫy đói nghèo,  nhưng phần lớn rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Tương tự, nhiều quốc  gia đã khởi đầu nền kinh tế tri thức rất ngoạn mục cách đây 10 – 20 năm,  nhưng giờ đây đang bị kẹt lại trong “bẫy tri thức”. Việc xây dựng, duy  trì thành quả các cụm tri thức, cũng như cảnh quan trí tuệ, trong cuộc  đua tốc độ ngày càng cao trên thế giới, là thách thức nổi bật để bứt phá  vượt qua “bẫy tri thức”. Đây là kinh nghiệm quý báu trong hai mươi năm  qua của một số quốc gia tiên tiến khu vực Đông Nam Á mà Việt Nam cần xem  xét, khảo nghiệm một cách nghiêm túc.
HANS-DIETER EVERS*
BÙI THẾ CƯỜNG**
Tài liệu tham khảo
Bauer, Tatjana. 2011. The Challenge of Knowledge Sharing. Practices of the Vietnamese Science Community in Ho Chi Minh City and the Mekong Delta. Berlin. LIT Publishers.
Bùi Thế Cường và Solvay Gerke (Chủ biên). 2013. Nước là nguồn chiến lược: Đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội. Nxb Từ điển Bách khoa.
Evers, Hans‐Dieter, and Solvay Gerke.  2005. Closing the Digital Divide: Southeast Asia’s Path towards a  Knowledge Society. ZEF Working Papers. No. 1. Bonn. Center for  Development Research, University of Bonn.
Evers, Hans‐Dieter, Solvay Gerke, and  Thomas Menkhoff. 2008. Tri thức và phát triển – Những chiến lược xây  dựng xã hội tri thức. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 06(118)/2008: 74-80.
Evers, Hans‐Dieter, Solvay Gerke, and  Thomas Menkhoff. 2010. Knowledge Clusters and Knowledge Hubs: Designing  Epistemic Landscapes for Development. Journal of Knowledge Management 14(5):678-89.
Evers, Hans‐Dieter, and Solvay Gerke.  2012. Globalisation of Social Science Research on Southeast Asia. Chương  5 trong: Wan Zawawi Ibrahim (Ed.). 2012. Knowledge and Social Science  in a Globalising World. Kuala Lumpur. Persatuan Sains Sosial Malaysia  (Malaysian Association of Social Sciences).
Evers, Hans‐Dieter. 2011. Knowledge  Cluster Formation as a Science Policy: Lessons Learned. Paper at  “Science, Technology and Society Workshop”, held on 23‐24 September,  2011, at University Brunei Darussalam.
Gerke, Solvay, Hans-Dieter Evers, Bui The  Cuong, Tatjana Bauer, and Judith Ehlert. 2012. Managing Knowledge for  the Development of the Mekong Delta. Trong: Fabrice Renault and Claudia  Künzer (Eds.). 2012. The Mekong Delta System. Interdisciplinary Analyses of a River Delta. Berlin. Springer Publishers.
Menkhoff, Thomas, Hans‐Dieter Evers, Yue Wah Chay, and Eng Fong Pang (Eds.). 2011. Beyond the Knowledge Trap: Developing Asia’s Knowledge‐Based Economies. New Jersey, London, Singapore, Beijing. World Scientific.
Purwaningrum, Farah. 2013. Knowledge  Transfer Within an Industrial Cluster in the Jakarta Metropolitan Area.  IAS Working Paper Series. No 5. Gadong. Institute of Asian Studies  Universiti Brunei Darussalam.
World Bank. 1999. World Development Report 1998-1999: Knowledge for Development. New York. Oxford University Press.
Nguồn: Quản trị tri thức để tránh bẫy tri thức: liên hệ so sánh giữa vài quốc gia Đông Nam Á, Tạp chí Xã hội học, Số 4 (128), 2014.
———
*    GS.TS, NCV cao cấp, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Đại học Bonn; GS  thỉnh giảng, Viện Nghiên cứu châu Á thuộc Đại học Brunei Darussalam.
**  GS.TS, NCV cao cấp, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ; GS thỉnh giảng Viện Nghiên cứu châu Á thuộc Đại học Brunei Darussalam.