Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, NSLĐ toàn nền kinh tế theo giá hiện  hành năm 2017 ước tính đạt 93,2 triệu đồng/lao động (tương đương 4.166  USD/lao động). Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn  nền kinh tế năm 2017 tăng 6% so với năm 2016, bình quân giai đoạn  2011-2017 tăng 4,7%/năm.
NSLĐ của Việt Nam thời gian qua có sự cải  thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm[1], là quốc gia có tốc độ  tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN. Tính chung giai đoạn 10 năm  2007-2016, NSLĐ theo sức mua tương đương năm 2011 (PPP 2011) của Việt  Nam tăng trung bình hàng năm 4,2%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân  của Xin-ga-po (1,5%/năm); Ma-lai-xi-a (1,9%/năm); Thái Lan (2,5%/năm);  In-đô-nê-xi-a (3,5%/năm); Phi-li-pin (2,8%/năm).

Dữ liệu Năng suất lao động xã hội phân theo ngành kinh tế
Báo cáo Năng suất lao động của Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Năng suất lao động của Việt Nam và giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng năng suất lao động (Tham luận tại Diễn đàn CEO 2018, Hà Nội, ngày 13/4/2018) (08:57 16/04/2018)

  •  

  • TS. Nguyễn Bích Lâm
  • Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê

Cải thiện và thúc đẩy tăng năng suất lao động là một trong những vấn đề cốt lõi đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Tăng năng suất lao động (NSLĐ) chính là yếu tố quyết định tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế. NSLĐ cao đồng nghĩa với phát triển nhanh, bền vững, chống tụt hậu so với các nước trong khu vực. Để góp thêm ý kiến trong Diễn đàn hôm nay, Tổng cục Thống kê xin được đánh giá khái quát về thực trạng NSLĐ của Việt Nam và kiến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao NSLĐ.

Trước tiên, chúng ta cần hiểu rõ khái niệm và phương pháp tính Năng suất lao động. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), NSLĐ tính bằng số sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cuối cùng được tạo ra cho một đơn vị lao động tham gia vào hoạt động sản xuất. Trong đó, hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được tạo ra của nền kinh tế là Tổng sản phẩm trong nước (GDP); lao động tham gia vào hoạt động sản xuất tạo ra GDP phản ánh thời gian, công sức, kỹ năng của lực lượng lao động và thường được tính bằng lao động đang làm việc.

Ở Việt Nam, Năng suất lao động xã hội là một chỉ tiêu thuộc Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia (quy định trong Luật Thống kê), được đo bằng GDP tính bình quân trên một lao động đang làm việc trong năm. Cách tính này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế hiện nay. Chúng ta cần phân biệt NSLĐ xã hội với các chỉ tiêu phản ánh năng suất khác như năng suất các nhân tố tổng hợp, năng suất vốn hay năng suất của một cá nhân cụ thể.

1. Thực trạng NSLĐ của Việt Nam

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, NSLĐ toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2017 ước tính đạt 93,2 triệu đồng/lao động (tương đương 4.166 USD/lao động). Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2017 tăng 6% so với năm 2016, bình quân giai đoạn 2011-2017 tăng 4,7%/năm.

NSLĐ của Việt Nam thời gian qua có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm[1], là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN. Tính chung giai đoạn 10 năm 2007-2016, NSLĐ theo sức mua tương đương năm 2011 (PPP 2011) của Việt Nam tăng trung bình hàng năm 4,2%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân của Xin-ga-po (1,5%/năm); Ma-lai-xi-a (1,9%/năm); Thái Lan (2,5%/năm); In-đô-nê-xi-a (3,5%/năm); Phi-li-pin (2,8%/năm). Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực. Tính theo PPP 2011, NSLĐ của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7,0% mức năng suất của Xin-ga-po; 17,6% của Ma-lai-xi-a; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của In-đô-nê-xi-a và bằng 56,7% NSLĐ của Phi-li-pin. Đáng chú ý là chênh lệch về NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt trong việc bắt kịp mức năng suất lao động của các nước.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến NSLĐ của Việt Nam thấp và còn khoảng cách xa so với các nước trong khu vực ASEAN, trong đó phải kể đến các nguyên nhân chính sau đây:
- Thứ nhất, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuy theo hướng tích cực nhưng còn chậm,các ngành công nghiệp, dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ “mũi nhọn” như tài chính, tín dụng, du lịch còn chiếm tỷ trọng thấp. Số liệu thống kê cho thấy, năm 2016 tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP của Việt Nam là 16,3%, trong khi tỷ lệ này của Thái Lan là 8%; Ma-lai-xi-a 9%; Phi-li-pin 10%; In-đô-nê-xi-a 14%; riêng Xin-ga-po, tỷ trọng ngành nông nghiệp rất nhỏ, các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm gần 100% GDP.

- Thứ hai, lao động trong khu vực nông nghiệp còn lớn, trong khi NSLĐ ngành nông nghiệp thấp. Những năm qua, tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tuy đã giảm từ 49,5% năm 2010 xuống còn 40,3% năm 2017[2] (trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,3 điểm phần trăm), nhưng vẫn lớn hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực[3]. Đến năm 2017, nước ta vẫn còn tới 21,6 triệu lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, trong khi NSLĐ khu vực này chỉ đạt 35,5 triệu đồng/lao động, bằng 38,1% mức NSLĐ chung của nền kinh tế; bằng 29,4% NSLĐ khu vực công nghiệp, xây dựng và bằng 31,3% NSLĐ các ngành dịch vụ. Nếu tính theo số giờ thực tế làm việc bình quân, NSLĐ theo giờ khu vực này cũng cải thiện không đáng kể, chỉ bằng khoảng 43,3% mức NSLĐ chung; bằng 37,4% NSLĐ khu vực công nghiệp, xây dựng và bằng 30,3% năng suất của khu vực dịch vụ.

Thời gian qua, khu vực nông thôn đang có sự chuyển dịch lao động từ ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản sang các ngành phi nông, lâm nghiệp, thủy sản. Theo kết quả Tổng điều tra Nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016, ở khu vực nông thôn, số lao động hoạt động chính trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2016 giảm 8,24% so với năm 2011, trong khi lao động trong công nghiệp tăng 4,86%; xây dựng tăng 0,96%; vận tải tăng 0,94%. Điều này đã góp phần nâng cao NSLĐ chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế lao động di chuyển ra khỏi ngành nông nghiệp chủ yếu lại chuyển sang làm trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có năng suất thấp hay các ngành dịch vụ có thu nhập thấp. 

Ngoài ra, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp nhìn chung còn hạn chế, chưa tác động tăng năng suất nội ngành. Như vậy, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản hiện chiếm tới 40,3% lao động của cả nước nhưng khu vực này mới chỉ tạo ra 15,3% GDP. Đây có thể xem là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho NSLĐ của Việt Nam thấp.

- Thứ ba, máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu. Phần lớn doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh đang sử dụng công nghệ tụt hậu 2-3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới, trong đó 76% thiết bị máy móc, dây chuyền công nghệ nhập từ nước ngoài thuộc thế hệ những năm 1960-1970; 75% số thiết bị đã hết khấu hao; 50% thiết bị là đồ tân trang.

Lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đổi mới sáng tạo là động lực không có giới hạn của tăng trưởng, là chìa khóa giúp một số nước Đông Á vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”. Tuy nhiên, công nghệ và sáng tạo vẫn là lĩnh vực có xếp hạng thấp trong sơ đồ cạnh tranh quốc gia của Việt Nam. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017-2018, Việt Nam được xếp hạng chung là 55/137 quốc gia, trong khi các chỉ số cấu phần liên quan đến đổi mới sáng tạo lại thấp hơn nhiều (Năng lực hấp thụ công nghệ: 93; Chuyển giao công nghệ từ FDI: 89; Độ sâu của chuỗi giá trị: 106; Mức độ phức tạp của quy trình sản xuất: 87; Chất lượng của các tổ chức nghiên cứu khoa học: 90; Giáo dục và đào tạo ở cấp sau phổ thông: 68). Điều này cho thấy, Việt Nam cần tiếp tục kiến tạo môi trường thuận lợi cùng với các thể chế, chính sách mới cho khu vực doanh nghiệp để thúc đẩy quá trình nâng cao công nghệ và sáng tạo. Đây được coi là một nội dung quan trọng của sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam.

- Thứ tư, chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng lao động còn thấp. Đến cuối năm 2017, chỉ có 21,5% lao động cả nước đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ, trong đó khu vực nông thôn rất thấp, chỉ khoảng 13%. Cơ cấu lao động theo trình độ đào tạo còn bất hợp lý, thiếu hụt nhân lực là kỹ sư thực hành, công nhân kỹ thuật bậc cao. Kết nối cung cầu trên thị trường lao động còn nhiều bất cập. Tình trạng thất nghiệp ở nhóm lao động trẻ hoặc không phù hợp giữa công việc và trình độ đào tạo còn khá phổ biến. Việc khai thác, sử dụng lao động đã làm việc và học tập ở nước ngoài trở về nước còn nhiều hạn chế[4]. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành kỷ luật lao động không cao; lao động thiếu các kỹ năng mềm, trình độ ngoại ngữ hạn chế. Đây chính là rào cản lớn cho việc cải thiện NSLĐ.

- Thứ năm, trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều bất cập; năng lực quản lý, quản trị doanh nghiệp còn hạn chế; còn một số “điểm nghẽn” về cải cách thể chế và thủ tục hành chính. Tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)[5] cho tăng trưởng GDP của Việt Nam thời gian qua còn ở mức thấp, giai đoạn 2001-2010 chỉ đạt 4,3%, trong khi Hàn Quốc đạt 51,3%; Ma-lai-xi-a đạt 36,2%; Thái Lan đạt 36,1%, Trung Quốc đạt 35,2%; Ấn Độ đạt 31,1%. Trong giai đoạn 2011-2015, đóng góp của TFP được nâng lên nhưng vẫn ở mức thấp là 33,58%, trong khi đóng góp của vốn là 51,20% và đóng góp của lao động là 15,22%. Tỷ lệ đóng góp của TFP trong tăng trưởng GDP phản ánh trình độ, ý thức tổ chức và quản lý trong sản xuất kinh doanh của lao động Việt Nam còn ở mức thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.

- Thứ sáu, khu vực doanh nghiệp (khu vực có vai trò rất quan trọng trong nâng cao NSLĐ của toàn nền kinh tế) chưa thực sự là động lực quyết định tăng trưởng NSLĐ của nền kinh tế. Qua tính toán từ kết quả Điều tra doanh nghiệp cho thấy, NSLĐ bình quân toàn bộ khu vực doanh nghiệp[6] năm 2015 theo giá hiện hành đạt 254,6 triệu đồng/lao động, cao gấp 3,2 lần NSLĐ của toàn nền kinh tế nhưng tăng trưởng thấp hơn so với mức tăng NSLĐ chung: Bình quân giai đoạn 2011-2015, NSLĐ khu vực doanh nghiệp (theo giá hiện hành) tăng 5,1%/năm, trong khi năng suất lao động của toàn nền kinh tế tăng 9,5%/năm.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng năng suất lao động khu vực doanh nghiệp tăng thấp hơn tốc độ tăng của tiền lương bình quân một lao động khu vực doanh nghiệp. Theo giá hiện hành, giai đoạn 2007-2013 tiền lương bình quân một lao động khu vực doanh nghiệp tăng 16,9%/năm, trong khi năng suất lao động bình quân khu vực này chỉ tăng 12,9%/năm. Điều này cho thấy, tăng tiền lương chưa phản ánh tăng năng suất lao động; tiền lương tăng nhanh và cao hơn so với tăng năng suất lao động chủ yếu do tác động của chính sách điều chỉnh mức lương tối thiểu[7].

Thực tế quy mô doanh nghiệp Việt Nam quá nhỏ bé, số doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp của cả nước, phần lớn doanh nghiệp chưa đạt được quy mô tối ưu (50-99 lao động) để có được mức NSLĐ cao nhất. Số lượng doanh nghiệp lớn còn ít (chỉ chiếm 2,1%), doanh nghiệp chưa xâm nhập được vào các thị trường, trung tâm công nghệ của thế giới, do đó chưa thực hiện được chức năng cầu nối về công nghệ tri thức của thế giới vào thị trường trong nước.

Trình độ công nghệ của doanh nghiệp còn lạc hậu, doanh nghiệp tham gia các hoạt động liên quan đến sáng tạo còn hạn chế, trong khi qua nghiên cứu cho thấy những doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu và phát triển có mức NSLĐ cao hơn 19,3% so với các doanh nghiệp còn lại.

Doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu, các doanh nghiệp nội địa hầu như chưa kết nối được vào chuỗi giá trị toàn cầu của các công ty/tập đoàn xuyên quốc gia lớn nên chưa tận dụng được tính lan toả của tri thức, công nghệ và năng suất lao động từ các công ty/tập đoàn xuyên quốc gia vào doanh nghiệp trong nước. Qua nghiên cứu cho thấy những doanh nghiệp tham gia xuất, nhập khẩu có NSLĐ cao hơn 35% so với doanh nghiệp không có hoạt động này. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước còn chưa quan tâm, chú trọng đến vấn đề định giá tài sản trí tuệ, thương hiệu, tài sản vô hình; việc phân bổ nguồn lực của các doanh nghiệp Nhà nước còn hạn chế.

- Ngoài ra, một số yếu tố quan trọng khác ảnh hưởng đến NSLĐ của Việt Nam thời gian qua như: Xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô kinh tế còn nhỏ, quá trình đô thị hóa chậm...

2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng suất lao động


Năng suất lao động và việc làm là các yếu tố tác động đến tăng trưởng GDP. Tăng trưởng GDP dựa trên tăng việc làm thường không cao và thiếu bền vững, trong khi tăng trưởng GDP theo hướng tăng NSLĐ tuy là một thách thức nhưng có tiềm năng để tạo ra tăng trưởng cao, bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Với năng suất cao hơn, tăng việc làm cũng sẽ tạo ra “lợi ích theo cấp số nhân”. Để nâng cao NSLĐ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng bền vững, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

* Giải pháp về thể chế, chính sách


Cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, Chính phủ và các Bộ, ngành cần xác định việc tạo lập và thực thi chính sách nhằm nâng cao năng suất lao động là giải pháp quan trọng hàng đầu trong nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, theo đó:
- Chính phủ sớm thành lập Ủy ban Năng suất Quốc gia do một Phó Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch, trong đó thiết lập một cơ quan thường trực, chuyên sâu về năng suất lao động có nhiệm vụ phối hợp các động lực tăng năng suất quốc gia của Việt Nam. Cử các đoàn sang học tập kinh nghiệm của Xin-ga-po và Hàn Quốc để áp dụng vào Việt Nam.
- Xây dựng và thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về nâng cao năng suất lao động của Việt Nam với mục tiêu chung và cụ thể trong từng giai đoạn để năng suất lao động của Việt Nam bắt kịp các nước trong khu vực.
- Phát động phong trào tăng năng suất trong tất cả các khu vực của nền kinh tế; chọn một số lĩnh vực (may mặc, sản xuất máy móc thiết bị, điện tử), một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện thí điểm Chương trình thúc đẩy tăng năng suất lao động, từ đó nhân rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Chọn một tháng trong năm là “Tháng Năng suất Quốc gia” nhằm thúc đẩy phong trào tăng năng suất lao động, thể hiện sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và đồng thuận của toàn xã hội đối với việc thúc đẩy tăng năng suất lao động.
- Nghiên cứu cải cách chính sách tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường, phù hợp giữa tăng tiền lương và tăng năng suất lao động. Tăng cường chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người lao động trong các doanh nghiệp, nhất là lao động trong các khu công nghiệp.
- Nghiên cứu thấu đáo nội hàm, phương thức vận hành của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó đề xuất thực hiện cụ thể vào một số lĩnh vực ở một số địa phương để Việt Nam hòa chung vào dòng chảy của cách mạng công nghiệp 4.0.

* Giải pháp chung cho nền kinh tế


- Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
- Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp thực tế, gắn với thị trường và thích nghi biến đổi khí hậu (Theo tính toán của TCTK, bình quân 1 ha chuyển từ trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản có giá trị tăng lên gấp khoảng 4,5 lần). Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, nhất là công nghệ sinh học, phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn để chuyển nhanh lao động nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ có năng suất cao hơn.
- Phát triển mạnh ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ nhằm chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ có giá trị cao; chuyển dịch trong nội bộ ngành công nghiệp từ sản xuất dựa vào lao động sang dựa vào công nghệ, hàng hóa có giá trị gia tăng cao.
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại đã ký kết, nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
- Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đầu tư cho khoa học công nghệ; phát triển đầy đủ thị trường khoa học và công nghệ và tăng cường hiệu quả của các chợ công nghệ, chuyển giao công nghệ.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới giáo dục, đào tạo và dạy nghề theo hướng hiện đại, đáp ứng nhu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế.

* Giải pháp nâng cao NSLĐ cho khu vực doanh nghiệp


Khu vực doanh nghiệp chiếm vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế; nâng cao NSLĐ khu vực doanh nghiệp sẽ đóng vai trò quyết định tới việc nâng cao NSLĐ của nền kinh tế. Trong thời gian tới, Tổng cục Thống kê đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương cần tập trung vào các nội dung sau:
- Có giải pháp khuyến khích các doanh nghiệp sắp xếp lại để có quy mô lao động tối ưu nhằm đạt được năng suất lao động cao nhất (doanh nghiệp có quy mô từ 50-99 lao động);
- Có chính sách ưu đãi về đất đai, ưu đãi về thuế, tín dụng... đối với các doanh nghiệp sử dụng dây chuyền công nghệ cao, hiện đại; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu để tăng năng suất.
- Khuyến khích, tạo thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và đội ngũ doanh nhân. Tăng cường công tác thông tin hỗ trợ doanh nghiệp;
- Thúc đẩy nhanh và hiệu quả quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước./.

[1] NSLĐ xã hội của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2011-2017 lần lượt là: 55,2 triệu đồng/lao động; 63,1 triệu đồng/lao động; 68,7 triệu đồng/lao động; 74,7 triệu đồng/lao động; 79,4 triệu đồng/lao động; 84,5 triệu đồng/lao động; 93,2 triệu đồng/lao động.
[2] Tỷ trọng lao động khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 21,0% năm 2010 lên 25,7% năm 2017; khu vực dịch vụ từ  29,5% lên 34,0%.
[3] Năm 2016, tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm của Ma-lai-xi-a là 11,4%; Phi-li-pin là 27%; Thái Lan là 31,2%; In-đô-nê-xi-a là 31,9%.
[4] Việt Nam hiện có trên 500 nghìn lao động đang làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Bình quân hàng năm có 50-60 nghìn lao động đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài về nước.
[5] Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) phản ánh sự đóng góp của các yếu tố vô hình như kiến thức - kinh nghiệm - kỹ năng lao động, cơ cấu lại nền kinh tế hay hàng hoá - dịch vụ, chất lượng vốn đầu tư mà chủ yếu là chất lượng thiết bị công nghệ, kỹ năng quản lý... Tác động của nó không trực tiếp như năng suất bộ phận mà phải thông qua sự biến đổi của các yếu tố hữu hình, đặc biệt là lao động và vốn. Do đó, để phản ánh chính xác đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế cần phân tích, đánh giá đóng góp của TFP trong một thời kỳ (3 năm, 5 năm, 10 năm …).
[6] Giá trị tăng thêm bình quân một lao động trong khu vực doanh nghiệp (không bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm).
[7] Từ năm 2008 đến nay, hàng năm Chính phủ thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp.



 Cần làm gì để nâng cao năng suất lao động?
 Ông Nguyễn Bích Lâm cho rằng, điều cần thiết hiện nay là Chính phủ  sớm thành lập Ủy ban Năng suất Quốc gia do một Phó Thủ tướng Chính phủ  làm Chủ tịch, thiết lập một cơ quan thường trực, chuyên sâu về năng suất  lao động có nhiệm vụ phối hợp các động lực tăng năng suất quốc gia của  Việt Nam, đi học tập kinh nghiệm của Singapore và Hàn Quốc để áp dụng  vào Việt Nam.
 Bên cạnh xây dựng và thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về  nâng cao năng suất lao động của Việt Nam, cần phát động phong trào tăng  năng suất lao động trong tất cả khu vực của nền kinh tế. 
Ông Lâm đề xuất chọn một tháng trong năm là “Tháng Năng suất Quốc  gia” nhằm thúc đẩy phong trào tăng năng suất lao động, thể hiện sự quyết  tâm của cả hệ thống chính trị và đồng thuận của toàn xã hội đối với  việc thúc đẩy tăng năng suất lao động.
 Khu vực doanh nghiệp chiếm vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh  tế, do đó, Tổng cục Thống kê đề nghị có giải pháp khuyến khích các doanh  nghiệp sắp xếp lại để có quy mô lao động tối ưu nhằm đạt được năng suất  lao động cao nhất. 
 "Chúng ta phải nỗ lực mới rút ngắn được khoảng cách. Nhưng nói vậy  không có nghĩa phải cố gắng để đuổi kịp mà phải làm thế nào để tăng năng  lực nội tại của Việt Nam lên", ông Lâm cũng lưu ý.
 Ở góc nhìn của nhà đầu tư nước ngoài, ông Bang Huyn Woo, Phó tổng  giám đốc Samsung Việt Nam lại cho rằng, năng suất lao động của người  Việt Nam không hề thấp.
 Ông khẳng định, năng suất lao động ở Việt Nam bằng 99% so với năng  suất lao động tại các nhà máy mà Samsung đang hoạt động ở các nước khác.
 Tuy nhiên, tại các nhà máy của Samsung đang có hai đối tượng lao động chính là công nhân và kỹ sư.
 Tổng số lao động là công nhân tại các nhà máy Samsung ở Việt Nam là  170 nghìn lao động người Việt, còn quản lý người Hàn Quốc là 240 người,  nên có thể tưởng tượng được năng suất lao động của người Việt Nam khá  tương đồng so với các nước khác.
 Còn với nguồn lao động chất lượng cao là kỹ sư thì có thể khác biệt do cơ chế về đào tạo.
"Tôi thấy tiềm năng của người Việt Nam rất cao. Tôi không nghĩ năng suất của người Việt Nam  thấp mà chủ yếu là do quá trình đào tạo, quản lý lao động mà ở đây là  vai trò của các nhà quản lý.  Tôi có thể lấy ví dụ về tiềm năng của người Việt như chiến thắng của  tuyển thủ Việt Nam trong giải đấu vừa rồi. Họ gặp được người huấn luyện  viên tốt nên họ đã được đào tạo và chiến thắng. Nếu người lao động Việt  Nam có được sếp giỏi thì năng suất lao động người Việt cũng được nâng  lên", ông Woo nói.

Viện Năng suất  Việt Nam (Vietnam National Productivity Institute - VNPI) thành lập năm  1997 với vai trò là cơ quan năng suất quốc gia. Chức năng, nhiệm  vụ chính: Nghiên cứu, kiến nghị chính sách và các giải pháp nâng cao  năng suất quốc gia. Cung cấp dịch vụ tư vấn, đào tạo về quản lý và phát  triển doanh nghiệp. Cập nhật và chuyển giao tri thức, kinh nghiệm về  nâng cao năng suất của quốc tế vào Việt Nam.

Lãnh đạo doanh nghiệp  - CEO được coi là nhân tố quan trọng  trong việc thúc đẩy năng suất lao động tại Doanh nghiệp. Tại diễn đàn  CEO 2018, các CEOs đã cùng nhau thảo luận về vấn đề năng suất lao động  tại Việt Nam cũng như chia sẻ kinh nghiệm quản lý tại Doanh nghiệp mình,  làm thế nào để thúc đẩy nhân viên làm việc năng suất hơn , xây dựng cơ  chế lương thưởng như thế nào ...
Sự kiện diễn ra lúc 13h30, thứ Sáu ngày 13/4/2018 tại Khách sạn JW Marriott, số 8 Đỗ Đức Dục, Mễ Trì, Từ Liêm, Hà Nội.
Vừa qua, Diễn đàn CEO 2018 với chủ đề “ Nâng cao năng suất lao động,  đòn bẩy tăng trưởng kinh tế” đã diễn ra với sự tham gia của lãnh đạo Ban  Kinh tế Trung ương, các Bộ , Ban ngành; lãnh đạo các tỉnh, thành phố  dẫn đầu về thu hút FDI; đại diện đại sứ quán các quốc gia và vùng lãnh  thổ có số dự án FDI lớn nhất tại Việt Nam. Đặc biệt, sự kiện lần này có  sự tham gia của hơn 500 CEOs các Doanh nghiệp FDI và Doanh nghiệp Việt  Nam.
Các nhà hoạch định chính sách cùng CEOs các Doanh nghiệp đã cùng nhau  thảo luận về vấn đề năng suất lao động cũng như hướng đi của các nhà  quản lý trong vấn đề này. Các phiên thảo luận có sự tham gia của Bà Hà  Thu Thanh- Chủ tịch Deloitte Việt Nam; ông Nguyễn Ngọc Thủy- Chủ tịch  Hội đồng quản trị Egroup; ông Nguyễn Xuân Phú- Chủ tịch Hội đồng quản  trị Tập đoàn Sunhouse; Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền – Tổng giám đốc Công ty  May 10; ông Phạm Văn Tam- Chủ tịch Công ty điện tử Asanzo; ông Nguyễn  Văn Bình- Phó Tổng giám đốc công ty Hưng Lộc Phát; ông Bang Huyn Woo-  Phó Tổng Giám đốc Samsung Việt Nam.
 
Theo số liệu thống kê, năng suất lao động của Việt nam trong những năm  vừa qua cao hơn bình quân các nước trong khu vực. Nếu cứ theo tốc độ ấy,  khoảng cách giữa Việt Nam và các nước sẽ dần thu hẹp. Tuy nhiên, Tổng  cục trưởng Tổng cục thống kê Nguyễn Bích Lâm lại cho rằng khoảng cách  này sẽ ngày càng lớn.
 
Giải thích cho điều này, ông nhận định vấn đề cốt lõi ở đây là do xuất  phát điểm của Việt Nam còn thấp, cơ cấu kinh tế còn lạc hậu. Bên cạnh  đó, với quy mô nền kinh tế nhỏ, tăng 1% năng suất lao động cũng được coi  là tăng cao, tuy nhiên không thể so được với cùng phần trăm ấy ở những  nền kinh tế lớn. Do đó, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để thu hẹp khoảng  cách với các nước.
 
Khu vực Doanh nghiệp chiếm vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế.  Nâng cao năng suất lao động tại Doanh nghiệp sẽ góp phần nâng cao năng  suất lao động của toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, bài toán tăng năng suất  lao động tại các Doanh nghiệp Việt Nam chưa bao giờ dễ dàng khi đối mặt  với những thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Vậy các nhà  Quản lý- CEOs có cái nhìn như thế nào về vấn đề này và liệu đang làm gì  để từng bước giải bài toán trên?
 

Các CEOs tham gia thảo luận


CEOs- yếu tố then chốt

 Bà Hà Thu Thanh ( Deloitte Việt Nam) cho rằng năng suất lao động phải  gắn liền với CEO, những người thực sự lãnh đạo Doanh nghiệp. Yếu tố lãnh  đạo là yếu tố rất quan trọng, Các nhà quản lý Doanh nghiệp phải thiết  lập được Hệ thống quản trị doanh nghiệp cũng như xây dựng nên văn hóa  doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó, kỷ luật lao động cũng không thể coi nhẹ.  Người lãnh đạo cần đưa hệ thống chính sách giám sát hiệu quả lao động,  tạo lập được môi trường gắn bó hơn, từ đó có thể nâng cao ý thức, trách  nhiệm cũng như cải thiện năng suất của người lao động.
Đồng quan điểm trên, ông Nguyễn Ngọc Thủy (Egroup) nhận định “Giám đốc  phải là người chịu trách nhiệm tuyệt đối về năng suất lao động doanh  nghiệp của mình. Nói đến năng suất lao động có thể coi là kết quả mối  quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Nhìn trên góc độ  này có rất nhiều yếu tố tác động đến năng suất lao động. Tuy nhiên, quan  trọng nhất vẫn là người đứng đầu tạo được môi trường văn hoá cạnh tranh  lành mạnh, thưởng phạt phân minh, làm sao có thể thu hút người tài, giữ  người tài, phát triển người tài. Đồng thời, đầu tư xây dựng chiến lược,  hoạch định đúng về số lượng, chất lượng, điều đó quyết định phần lớn  đến năng suất lao động”
Tại phiên thảo luận, ông Bang Huyn Woo (Samsung Việt Nam)  - doanh  nghiệp có quy mô lớn nhất Việt Nam hiện nay, cho biết suất lao động Việt  Nam đạt tầm 99% so với các nước. Trên thực tế, trình độ lao động Việt  Nam có thể thấp hơn nhưng Phó TGĐ Samsung Việt Nam nhận thấy tiềm năng  của lao động Việt Nam rất lớn. “ Tôi không nghĩ năng suất của người Việt  Nam thấp là do quá trình đào tạo, quản lý lao động mà ở đây là vai trò  của các nhà quản lý. Tôi có thể lấy ví dụ về tiềm năng của người Việt  như chiến thắng của tuyển thủ Việt Nam trong giải đấu vừa rồi. Họ gặp  được người huấn luyện viên tốt nên họ đã được đào tạo và chiến thắng.  Nếu người lao động Việt Nam có được sếp giỏi thì năng suất lao động  người Việt cũng được nâng lên", ông Bang Huyn Woo chia sẻ.

Trình độ lao động - nỗi trăn trở của các CEOs

 Bà Hà Thu Thanh (Deloitte Việt Nam) khẳng định “Nếu năng suất lao động  liên quan đến năng lực cạnh tranh của quốc gia nói chung và của Doanh  nghiệp nói riêng thì rõ ràng, năng suất lao động của Việt Nam đang đi  rất sau mặc dù có những thay đổi tích cực về chỉ số tăng trưởng hay  GDP”. Tại Doanh nghiệp, nếu nói về năng suất lao động, đó là tổng hợp  của rất nhiều yếu tố mà quan trọng nhất là yếu tố con người.
Bà băn khoăn rằng, sự chuyển dịch lao động Việt Nam hiện nay chủ yếu  từ ngành nông lâm, ngư nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. Rõ ràng, chúng  ta không thể đòi hỏi nguồn lao động này có trình độ cao được. Tuy nhiên,  yếu tố con người lại liên quan đến trình độ văn hóa- năng lực tối thiểu  để thiết lập các vấn đề chuyên môn, kĩ thuật. Vậy các Doanh nghiệp, cụ  thể là Doanh nghiệp trong những khu Công nghiệp sử dụng nguồn lao động  này, họ thực sự đã đào tạo như thế nào?  
Năng lực của người lao động không được cải thiện hoặc trình độ văn hóa  ở mức độ nhất định thì năng suất lao động khó có thể tăng khi mà hạn  chế khả năng tiếp cận văn hóa, kỹ thuật tiên tiến. Đặc biệt, khi các  Doanh nghiệp, nhất là Doanh nghiệp nước ngoài bắt đầu đưa công nghệ, hạ  tầng , cơ sở sản xuất, kĩ thuật lao động và yếu tố mà Việt Nam xếp rất  thấp - đổi mới sáng tạo vào quy trình sản xuất.
 
Tại Samsung Việt Nam, lao động Việt chiếm 70% và khoảng 240 quản lý  người Hàn Quốc. Các nhà máy chia thành 2 cấp độ lao động: công nhân sản  xuất và lao động trình độ cao. Với dây chuyền sản xuất tương đồng quy  chuẩn tại Hàn Quốc nhưng hầu hết lao động Việt Nam là công nhân sản  xuất. Điều này cho thấy trình độ của lao động Việt Nam còn thấp so với  lao động nước ngoài mà có thể bắt nguồn từ sự chênh lệch về trình độ văn  hóa.

Con người và công nghệ- Giải pháp tăng trưởng cho Doanh nghiệp

Trước câu hỏi đặt ra làm thế nào để thúc đẩy tăng trưởng tại Doanh  nghiệp, các CEOs đã bày tỏ nhiều quan điểm cho vấn đề này. Dù vậy, phần  lớn đều cho rằng con người và công nghệ là hai đòn bẩy quan trọng trong  việc nâng cao năng suất lao động, qua đó thúc đẩy tăng trưởng Doanh  nghiệp.
 “ Nếu coi lao động là nguồn tài nguyên thì phải nói rằng nguồn lao  động Việt Nam rất dồi dào nhưng chúng ta đang khai thác với giá rẻ mạt”.  Ông Thủy (Egroup) bày tỏ. Việt Nam có lợi thế rất lớn đó là gần 100  triệu dân và quá nửa là dân số trẻ, chắc chắn tạo nên sức hấp dẫn cho  việc phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, giá  nhân công tại Việt Nam còn thấp so với các nước khi mà phần lớn chỉ đạt  trình độ phổ thông và tham gia vào quá trình sản xuất không đòi hỏi tay  nghề cao.
Ông Thủy cho rằng, các Doanh nghiệp nên hành động mạnh mẽ hơn, quyết  liệt hơn vào việc tập trung đào tạo nguồn nhân lực để cải thiện tay  nghề, nâng cao chuyên môn cho người lao động. Việt Nam có rất nhiều  doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đứng  đầu khu vực, môi trường lao động cũng xếp hàng đầu như Vingroup, Vietjet  hay Thế giới di động. Ông Thủy hi vọng, các Doanh nghiệp khác có thể  học hỏi để thay đổi cách thức đào tạo con người, qua đó cải thiện năng  suất lao động.
 Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền (May 10) khuyên các DN nên “tự giác, tự lực,  tự chủ, tự cường”, không đầu tư các thiết bị lạc hậu và  ngay lập tức  đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao khả năng ngoại ngữ cũng như kỹ năng sử  dụng máy móc, kỹ thuật sản xuất cao. Như tại May 10, với đặc thù ngành  nghề, công ty đã tập trung đầu tư nhiều máy móc tiên tiến. Công ty hợp  tác với nhiều công ty sản xuất máy may để đặt hàng máy móc tiên tiến  nhất nhằm nâng cao năng suất lao động.
Với tư cách là người đứng đầu Công ty Điện tử Asanzo, Ông Phạm Văn Tam  khẳng định các Doanh nghiệp phải đầu tư công nghệ, áp dụng công nghệ  vào sản xuất, tuy nhiên quản lý bộ máy con người vẫn là cái cốt lõi của  Doanh nghiệp về lâu về dài.

Kinh nghiệm thực tế về quản lý Doanh nghiệp

Ông Phạm Văn Tam (Asanzo) chia sẻ, một trong những thành công của công  ty trong vấn đề năng suất lao động đó chính là phát triển bộ máy giám  sát. Tại các Doanh nghiệp nước ngoài, bộ máy giám sát rất ít bởi công  nhân của họ có ý thức làm việc. Tuy nhiên, đại bộ phận lao động Việt Nam  vẫn có “ sức ì”, kéo theo năng suất làm việc chưa cao. Do đó, ông Tam  đã phát triển bộ máy giám sát tại công ty mình nhằm thúc đẩy năng suất  lao động, và đến nay phương pháp này vẫn phát huy tính hiệu quả.
“ Tại sao công nhân lại lười? ”. Đó là câu hỏi mà ông Nguyễn Xuân Phú  (Sunhouse) luôn trăn trở khi ông đã thử rất nhiều phương pháp thúc đẩy  năng suất lao động nhưng đều chưa đạt hiệu quả. Và sau này, ông nhận ra  rằng cần tập trung vào thay đổi vấn đề gốc rễ. Lao động làm việc chăm  chỉ sẽ nhận được gì, và ngược lại, năng suất thấp sẽ bị phạt gì… Do đó,  điều cốt lõi là Doanh nghiệp cần xây dựng được cơ chế đồng lợi ích giữa  nhà quản lý và người lao động.
Nếu chỉ tập trung thúc đẩy người lao động tăng năng suất, hiệu quả làm  việc mà không nghĩ đến chế độ lương thưởng cho họ thì chắc chắn, Doanh  nghiệp không thể nào phát triển lâu dài.
Tại Sunhouse, lãnh đạo áp dụng chính sách “Bù giá vào lương”, xác định  mức độ làm phát cùng với năng suất lao động để xác định lương. Ví dụ,  lạm phát tăng 4%, năng suất lao động tăng 9% thì mức lương tăng không  quá 13%. Đây là cách công ty khống chế mức lương trần cho nhân viên. Bên  cạnh đó, những người tham gia xây dựng chính sách sẽ được hưởng cơ chế  theo lợi nhuận còn những người không tham gia sẽ được hưởng theo quỹ  lương. Tất nhiên, mức lương cứng sẽ theo thị trường, còn lại sẽ trích  lương thưởng cho bộ máy quản lý.  Nếu năng suất lao động cao, họ sẽ được  thưởng nhiều. Cơ chế thưởng được công khai minh bạch, tuy nhiên con số  cụ thể sẽ không được tiết lộ.
Tại Hưng Lộc Phát, công ty áp dụng quỹ lương, quỹ thưởng tương ứng   30-40% quỹ lương. Công ty đánh giá nhân lực và có mức lương cho từng vị  trí cụ thể. Thông qua KPI, công ty cũng có chế độ khen thưởng riêng cho  nhân viên tùy vào năng suất lao động của họ. Đồng thời có chính sách  khen thưởng kịp thời tạo động lực cho những công việc hoàn thành xuất  sắc cũng như xây dựng phong trào thi đua cho nhân viên. Công ty cũng sẽ  công khai về mức thưởng cho nhân viên.
Với Generali Việt Nam, công ty xây dựng mức lương từ cao nhất đến thấp  nhất. Bên cạnh đó, nhà quản lý cố gắng  tạo sự cân bằng giữa tăng  trưởng doanh thu và tăng lương. Tại Việt nam, mức lương tối thiểu điều  chỉnh hằng năm cũng là cơ sở để công ty xây dựng chế độ lương một cách  hiệu quả.
 Đặc thù là một công ty sản xuất, Asanzo xây dựng mức lương dựa theo  doanh số, tất cả bộ phận ăn theo sản phẩm bán được. Asanzo sẽ công khai  mức thưởng theo từng bộ phận.
 Dẫu vậy Doanh nghiệp muốn phát triển lâu dài cần có sự đồng hành của  Nhà nước. Do đó, các CEOs mong muốn Nhà nước hỗ trợ như có chính sách hỗ  trợ vốn vay cho các Doanh nghiệp chuyển đổi Công nghệ với lãi suất ưu  đãi. Đồng thời, lãnh đạo Doanh nghiệp hy vọng Nhà nước có thể xây dựng  cơ chế đồng lợi ích giữa Nhà nước và Doanh nghiệp.
 
Những chia sẻ trên đây của những người lãnh đạo vô cùng hữu ích với  những Doanh nghiệp đang gặp vấn đề như làm thế nào nâng cao năng suất  lao động, chế độ lương thưởng đã thực sự hiệu quả, đảm bảo quyền lợi của  người lao động hay chưa... Nếu chính phủ Việt Nam đặt ra mục tiêu nâng  cao năng suất- đòn bẩy tăng trưởng kinh tế thì ngay tại chính Doanh  nghiệp, các nhà quản lý cần nghiêm túc nhìn nhận câu chuyện năng suất  lao động tại Doanh nghiệp mình bởi xét cho cùng, năng suất Doanh nghiệp  tăng sẽ kéo năng suất nền kinh tế tăng theo.
VNPI- Mai Linh


Đăng ký: http://brvn.net/olymworld-productivity  Tổng giá trị bạn nhận được bằng tổng năng suất bạn tạo ra. Tài sản lớn  nhất của bạn là khả năng kiếm tiền và tài nguyên lớn nhất của bạn là  thời gian. Hãy dùng tài nguyên lớn nhất đó để tối đa hóa tài sản của  bạn, thông qua những bài học tuyệt vời về “Tối đa hóa Năng suất làm  việc” - những bài học có thể giúp bạn tiết kiệm hàng năm tháng lãng phí  và sử dụng thời gian sai lầm và đầy “quán tính” của mình.