Trong những năm gần đây, đau dạ dày xuất hiện ngày càng phổ biến, đặc biệt ở người trẻ. Bạn có thể từng đau dạ dày vì những ngày ôn thi đầy áp lực, căng thẳng, hay khi thưởng thức món mì cay khoái khẩu ngoài vỉa hè, cũng có thể sau bữa nhậu quá đà cùng các chiến hữu. Một số người bị đau bụng vài ngày sau đó khỏi hẳn. Nhưng một số khác bị căn bệnh này hành hạ khổ sở suốt một thời gian dài, tái đi tái lại hằng tháng, hằng năm trời, ăn uống kém dần, cơ thể suy nhược, thậm chí bị các biến chứng nặng như chảy máu tiêu hóa, thủng dạ dày hay ung thư dạ dày. Tại sao lại như vậy? Nguyên nhân gây nên bệnh dạ dày là gì? Đây từng là chủ đề tranh cãi trong giới y học. Mãi đến năm 1982, hai bác sĩ người Úc đã tìm ra một vi khuẩn có tên là Helicobacter pylori (HP) thì mọi thứ mới dần sáng tỏ và việc điều trị mang lại nhiều kết quả ngoạn mục bao gồm cả việc dự phòng ung thư dạ dày. Cùng tìm hiểu về vi khuẩn HP và bệnh dạ dày nhé!

Vài nét về bệnh dạ dày

Suốt một thời gian dài, các thầy thuốc cho rằng đau dạ dày (hay còn gọi là viêm loét dạ dày - tá tràng) là do chế độ ăn nhiều đồ cay, cuộc sống có nhiều lo lắng, căng thẳng tâm lý. Lối sống này kích thích sản xuất axit trong dạ dày quá mức, dẫn đến hình thành các vết loét. Do đó, việc điều trị thường áp dụng chế độ ăn kiêng, nghỉ ngơi trên giường và tránh lo lắng, căng thẳng.
Trong gần suốt thế kỷ 20, việc tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh dạ dày là một vấn đề tranh cãi trong giới Y học. Vào năm 1910,  Schwarzt đưa ra cơ chế gây loét dạ dày là sự mất cân bằng giữa các yếu tố bảo vệ dạ dày và các yếu tố tấn công, ông khẳng định “Không có acid thì không có loét". Từ quan điểm này đã mở ra nền tảng điều trị bệnh loét theo hướng phẫu thuật cắt bỏ vùng hang và thân vị, là vùng tiết ra axit dạ dày hoặc cắt dây thần kinh phế vị kích thích tiết ra axit cũng như sử dụng thuốc giảm tiết axit hoặc trung hòa bớt axit trong một thời gian dài. Đáng buồn thay, mặc dù những phương pháp này làm giảm các triệu chứng nhưng các vết loét có tỷ lệ tái phát cao.

Khám phá Helicobacter pylori

Tại miền tây nước Úc, trong nhiều năm, một vị bác sĩ tên là Barry Marshall đã chứng kiến nhiều người bị loét dạ dày, họ bị nặng đến nổi phải cắt bỏ dạ dày hoặc chảy máu cho đến chết. Ở trường Y, ông có cảm tưởng mình có thể biết hết và điều trị được các bệnh nhưng khi tiếp xúc thực tế với bệnh nhân, ông mới nhận ra là kiến thức mình chẳng là bao, và chừng phân nửa trường hợp là không rõ nguyên nhân. Ông luôn đau đáu đi tìm một phương pháp điều trị hiệu quả cho bệnh loét dạ dày.
Năm 1981, ông gặp bác sĩ Robin Warren, một nhà bệnh học của bệnh viện Hoàng gia Perth. Robin cho biết qua mẫu sinh thiết lấy từ dạ dày của 20 bệnh nhân nghi ngờ ung thư dạ dày trong hai năm, ông từng thấy một vài con vi khuẩn, và chúng đều giống hệt nhau. Ông đã đề nghị chàng bác sĩ trẻ Barry thử xem xét hồ sơ của họ và  tìm được điều gì đó không. Barry chú ý trong đó có một phụ nữ khoảng 40 tuổi, từng là bệnh nhân của ông, cô ấy bị buồn nôn và đau dạ dày kinh niên nhưng khi làm các xét nghiệm kiểm tra thì  không phát hiện được điều gì bất thường. Vì vậy, cô ấy đã được chuyển đến một bác sĩ tâm lý để điều trị chống trầm cảm nhưng có vẻ không hiệu quả khi giờ đây cô bị ung thư dày.
Robin Warren (trái) và Barry Marshall (phải)
Robin Warren (trái) và Barry Marshall (phải)
Một năm sau, hai người tiến hành một nghiên cứu trên 100 bệnh nhân có cùng triệu chứng đau dạ dày kinh niên để tìm xem có phải các bệnh nhân này bị nhiễm vi khuẩn trên hay không. Barry tìm cách nuôi cấy các mẫu mô lấy từ dạ dày nhưng trong một thời gian dài các bệnh nhân đầu tiên ông chẳng có kết quả gì đặc biệt, phải đến bệnh nhân thứ 35, ông mới có phát hiện thú vị. Ngày đó, ở các phòng thí nghiệm, các kỹ thuật viên sẽ loại bỏ đĩa cấy sau 2 ngày vì thường bị tạp nhiễm vi khuẩn từ môi trường xung quanh. Một sự tình cờ, sau kỳ nghỉ lễ Phục sinh dài ngày, họ đã bất ngờ tìm thấy vi khuẩn HP trên đĩa cấy, thì ra HP phát triển chậm hơn so với các vi khuẩn khác. Sau đó, ông đề nghị để môi trường nuôi cấy lâu hơn và phát hiện ra rằng có 13 bệnh nhân bị loét tá tràng đều có vi khuẩn HP. Ông quan sát thấy rằng tất cả những người bị ung thư dạ dày đều phát triển trên nền của bệnh viêm dạ dày và bất cứ khi nào bệnh nhân không bị viêm dạ dày thì họ cũng không bị nhiễm vi trùng HP. Do đó, suy luận ban đầu là HP phải là nguyên nhân quan trọng của viêm dạ dày và cả ung thư dạ dày nữa.
Bằng những quan sát đó, họ tổng hợp trường hợp trên và trình bày trong hội nghị Y học thường niên của Đại học Hoàng gia Úc nhưng chẳng ai tin vi khuẩn HP  là nguyên nhân của viêm loét dạ dày. Điều này giống như nói rằng Trái đất phẳng, các chuyên gia về bệnh tiêu hóa tin rằng vi sinh vật không thể tồn tại trong môi trường có tính axit cực cao trong dạ dày của người và chỉ cười trước báo cáo của ông. Hơn nữa, lúc đó hai người chỉ là 2 “bác sĩ quèn” nên chẳng ai tin những gì họ nói.
Để có bằng chứng thực nghiệm vững chắc, họ đã cố gắng lây nhiễm cho động vật như lợn, chuột để xem liệu chúng có bị bệnh hay không nhưng tất cả đều thất bại. Vì lý do y đức không được phép thử nghiệm trên người và để chứng minh cho lý thuyết của mình, Barry đã tự thí nghiệm lên bản thân. Ông lấy vi khuẩn HP từ dạ dày của một bệnh nhân được ông điều trị khỏi bằng thuốc kháng sinh, sau đó hòa với súp thịt bò và uống vào. Sau năm ngày, ông bị buồn nôn, nôn mửa, hơi thở hôi thối, mệt mỏi và mất ngủ. Ông đã làm nội soi để lấy mẫu mô từ dạ dày và nuôi cấy ra vi khuẩn HP, chứng minh rằng vi khuẩn này thực tế đã gây ra các triệu chứng đau dạ dày.
Robin và Barry tin tưởng rằng họ đang đứng trước một khám phá khoa học quan trọng, thay đổi hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh dạ dày và có hàng ngàn bệnh nhân đang khổ sở ngoài kia có thể được chữa khỏi bằng thuốc kháng sinh, không thể vì sự bảo thủ của giới khoa học mà bỏ cuộc. Họ kiên trì viết một bài báo khoa học nghiêm chỉnh gửi đi nhiều tập san y khoa nhưng đều bị từ chối hết lần này đến lần khác. Barry vẫn miệt mài đi báo cáo kết quả của mình tại hội nghị các nước từ Bỉ, Anh đến Mĩ. Tình cờ trong một hội nghị ở Anh, có ai đó thấy thú vị và nói lại với tập san Lancet (tập san y khoa lâu đời và uy tín hàng đầu thế giới) cho cơ hội để Barry và Robin công bố. Barry tiếp tục nghiên cứu về cách điều trị HP dù gặp nhiều khó khăn do các công ty dược từ chối tài trợ.
Mãi đến năm 1994, Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ đã chính thức công nhận mối liên hệ chặt chẽ giữa vi khuẩn HP và bệnh loét dạ dày. Sau đó, vào năm 1996, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã phê duyệt liệu pháp kháng sinh đầu tiên cho bệnh loét do HP gây ra. Cộng đồng y tế lúc này mới chấp nhận rộng rãi và ứng dụng những khám phá của hai ông.
Năm 2005, sau 23 năm kể từ khi phát hiện ra vi khuẩn Helicobacter pylori, Hội đồng Nobel Thụy Điển đã quyết định trao giải Nobel Y học cho hai bác sĩ người Úc, Robin Warren và Barry Marshall vì đã có những đóng góp và khám phá to lớn cho khoa học về vai trò của vi khuẩn Helicobacter pylori trong bệnh loét dạ dày tá tràng. Trong một thông cáo báo chí, Tổ chức Giải thưởng Nobel kết luận: “Nhờ khám phá tiên phong của Marshall và Warren, bệnh loét dạ dày tá tràng không còn là một tình trạng mãn tính, thường xuyên gây tàn phế mà là một căn bệnh có thể chữa khỏi bằng một phác đồ ngắn gồm thuốc kháng sinh và thuốc ức chế tiết axit”.
Bằng tình yêu công việc, sự quan sát tỉ mỉ, lòng dũng cảm và cả sự quyết tâm, kiên trì theo đuổi ý tưởng trong một thời gian dài trước sự thờ ơ và chế giễu của mọi người, hai nhà khoa học đã làm nên khám phá vĩ đại, cho chúng ta những bài học giá trị và đầy cảm hứng.

Vi khuẩn Helicobacter pylori (HP)

Lúc đầu, vi khuẩn được đặt tên là Campylobacter pyloridis sau đó việc giải trình tự gen cho thấy vi khuẩn không thuộc họ Campylobacter, vì vậy nó được đổi tên thành Helicobacter pylori . “Helico” có nghĩa là “xoắn ốc” hoặc “cuộn dây” trong tiếng Hy Lạp.
HP là vi khuẩn Gram âm, kích thước ngắn từ 0,2 um đến 0,5 um, hình xoắn hay hình cong giống chữ S, và có từ 4 đến 6 lông roi ở đầu. Ngoài ra, HP còn có một dạng hình cầu, một dạng ngủ đông giúp nó tồn tại lâu hơn ở môi trường bất lợi bên ngoài cơ thể như trong phân, nước và có thể chuyển thành dạng hoạt động trong điều kiện thích hợp.
Bình thường, dạ dày chứa dịch vị gồm 2 thành phần chủ yếu là axit Clohidric (HCl) và pepsin, men tiêu hóa protein. Môi trường dạ dày cực kỳ axit với pH khoảng bằng 2, có thể tiêu hóa những loại thức ăn khó nhằn và tiêu diệt hầu hết các vi khuẩn gây bệnh ăn vào nhưng lại không ảnh hưởng đến cơ thể vì có một lớp chất nhầy bảo vệ, bao phủ toàn bộ mặt trong của dạ dày. Theo đồ ăn thức uống đi vào dạ dày, vi khuẩn HP dùng các lông roi để di chuyển nhanh chóng vào lớp nhầy dạ dày. Không dừng ở đó, vi khuẩn này tiết ra men urease phân giải ure trong dạ dày thành amoniac giúp trung hòa axit dịch vị và tạo thành một vùng bảo vệ xung quanh. Sau khi xâm nhập vào lớp chất nhầy, bám dính vào bề mặt dạ dày, vi khuẩn tiết ra các men như mucolytic, protease, lipase…gây phá hủy lớp chất nhầy bảo vệ niêm mạc dạ dày, từ đó dịch vị sẽ thấm vào và tiêu hóa chính dạ dày. Bên cạnh đó, sự hiện diện của HP kích thích phản ứng miễn dịch tại chỗ của các bạch cầu, giải phóng các cytokin góp phần gây tổn thương cho dạ dày.

Diễn tiến tự nhiên khi nhiễm HP

Diễn tiến tự nhiên sau khi nhiễm HP sẽ gây viêm dạ dày cấp tính mà đa phần không có triệu chứng, chỉ có một số ít người có biểu hiện như đầy bụng, buồn nôn, chán ăn. Viêm dạ dày cấp tính hầu như luôn tiến triển thành viêm dạ dày mãn tính nhưng chỉ có khoảng 10-20 % phát triển thành loét dạ dày tá tràng và 1-2% chuyển thành ung thư dạ dày.

Con đường lây truyền

Các nghiên cứu dịch tễ học được tiến hành sau khi tìm ra HP khiến mọi người kinh ngạc vì nhiễm HP là nhiễm trùng mãn tính phổ biến nhất ở người, tìm thấy ở  mọi lứa tuổi và trên toàn thế giới. Các ước tính thận trọng cho rằng 50 phần trăm dân số thế giới bị nhiễm HP, trong đó ở các nước phát triển tỷ lệ này khoảng 25-35% còn các nước đang phát triển khoảng 40-75%. Một số nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy có trên 70% dân số bị nhiễm vi khuẩn HP.
Các yếu tố thuận lợi cho việc lây nhiễm gồm điều kiện kinh tế - xã hội thấp, vệ sinh kém, nhà ở chật chội, đông con, thiếu nước sạch. Hầu hết các trường hợp nhiễm HP từ thời trẻ nhỏ, thường dưới 10 tuổi. Con đường lây nhiễm được cho là qua thức ăn và nước uống nhiễm bẩn, hoặc qua tiếp xúc với nước bọt của người bị bệnh và các chất dịch cơ thể khác như chất nôn, phân. Có thể việc nhai cơm và mớm cơm cho con ở một số nước trong đó có Việt Nam trước đây cũng là nguyên nhân trực tiếp lây truyền HP.

 HP và ung thư dạ dày

Ung thư dạ dày là một trong những bệnh ung thư  phổ biến nhất trên thế giới. Theo Globocan 2020 tại Việt Nam, ung thư dạ dày đứng thứ 4 ở cả hai giới sau ung thư vú, ung thư gan và ung thư phổi. 
Năm 1994, Tổ chức y tế thế giới chính thức xếp vi khuẩn HP là nguyên nhân quan trọng hàng đầu (nhóm I) gây ung thư dạ dày với nguy cơ gia tăng gấp 6 lần. Nhiễm vi khuẩn HP gây ra tình trạng viêm mạn tính lâu ngày làm viêm teo các tuyến bình thường của dạ dày và được thay thế bằng biểu mô niêm mạc ruột hay còn gọi là chuyển sản ruột dẫn tới xuất hiện ung thư dạ dày. Vì vậy, khi điều trị diệt vi khuẩn HP làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày nhưng không làm mất hoàn toàn nguy cơ ung thư dạ dày. 
Việc nhiễm vi khuẩn HP sẽ chuyển sang ung thư dạ dày hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như cơ địa của từng người, chế độ ăn uống và độc tính của vi khuẩn. Một số yếu tố đã được chứng minh làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày như thức ăn có nhiều nitrat như thịt đông lạnh, xúc xích, đồ hộp; thực phẩm nhiều muối như đồ ăn ướp muối, hun khói và hút thuốc lá.

Điều trị diệt HP

Điều trị diệt HP có vai trò quan trọng trong việc giúp làm lành ổ loét dạ dày tá tràng, dự phòng loét tái phát, làm giảm chảy máu tiêu hóa do loét và quan trọng nhất là có thể làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày. Tuy nhiên, việc điều trị ngày càng có nhiều thách thức do tình trạng HP đề kháng kháng sinh xảy ra phổ biến ở khắp nơi trên thế giới.
Có khoảng 80 % người có nhiễm vi khuẩn HP không có triệu chứng cũng như không có biến chứng và vi khuẩn thường tồn tại suốt đời. Vì vậy không phải bất cứ ai cũng cần thiết phải điều trị mà có những chỉ định cụ thể, các bác sĩ sẽ cân nhắc cho từng trường hợp cũng như cần được kiểm tra lại sau khi điều trị để đảm bảo rằng không còn nhiễm HP.
Việc điều trị HP ban đầu khá đơn giản với 1 loại kháng sinh nhưng sau đó phải phối hợp 2 loại kháng sinh với 1 thuốc giảm tiết axit, hiện nay có những phác đồ có đến 3 loại kháng sinh phối hợp hoặc phải dùng các kháng sinh phổ rộng hay các thuốc kháng lao nhưng vẫn thất bại. Thời gian điều trị cũng kéo dài hơn, từ 5-7 ngày lúc đầu nay tất cả các liệu trình điều trị bắt buộc lên đến 14 ngày. Tất cả bởi vì tình trạng kháng thuốc ngày càng phổ biến trên toàn thế giới gây ra nhiều khó khăn.
Bên cạnh tình trạng đề kháng thuốc kháng sinh ở từng vùng, việc theo đuổi liệu trình điều trị kéo dài 14 ngày đòi hỏi sự kiên nhẫn của người bệnh cũng như việc uống phối hợp nhiều loại kháng sinh chưa bao giờ là trải nghiệm dễ chịu, vì vậy mà có không ít người đã bỏ dở điều trị hoặc tự ý ngưng thuốc khi hết triệu chứng, chính điều này khiến việc điều trị HP dễ thất bại, dễ bị kháng thuốc và nhiều trường hợp điều trị 3 - 4 đợt nhưng vẫn không khỏi. Biện pháp cuối cùng phải đem mẫu sinh thiết từ dạ dày để nuôi cấy xem vi khuẩn nhạy cảm với loại kháng sinh nào, điều này thường khó khăn, tốn kém và không phải khi nào cũng mang lại kết quả.

Phòng ngừa

Hiện không có vắc xin để phòng ngừa HP. Vì HP có thể lây lan qua thức ăn và nước uống nhiễm bẩn, bạn có thể ngăn ngừa nếu: 
- Rửa tay sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn.
- Ăn thức ăn được chế biến đúng cách.
- Uống nước từ nguồn nước sạch và an toàn.
Nguồn tham khảo:
Trần Thiện Trung, Bệnh dạ dày - tá tràng và nhiễm Helicobacter pylori, NXB Y học, 2008.
https://medlineplus.gov/helicobacterpyloriinfections.html