Thời nguyên thủy, con người di chuyển qua các vùng đất để kiếm ăn bằng việc hái thực vật, săn động vật, những loài sống và sinh sản tự nhiên mà không có bất kì sự can thiệp nào của con người. 
Trong quá trình săn bắt và hái lượm, họ có thể gặp trở ngại thời tiết hoặc thú dữ, điều kiện ngoại cảnh nguy hiểm như vậy buộc con người phải liên tục đưa ra những quyết định để tìm kiếm sự an toàn “ngắn hạn”: trốn trong hang hốc, leo lên cây, thậm chí đối mặt với kẻ thù, thú dữ nếu cần thiết. 
Việc “đưa ra quyết định nhanh để có kết quả ngay lập tức” in sâu vào não bộ, trở thành bản năng sinh tồn của con người cho tới tận ngày hôm nay. 
Nguồn: vietjack.me
Nguồn: vietjack.me
Đến thời kì Cách mạng Công nghiệp, con người bắt đầu định cư tại một vùng đất để trồng thực vật, nuôi thú vật, khi này sự sinh sản và phát triển của động thực vật được kiểm soát cả về quy trình lẫn số lượng. 
Việc canh tác tại một khu vực buộc họ phải sống gần khu đất, bãi cỏ đó: để canh chừng những mối nguy gây hại cho động thực vật như thời tiết, côn trùng hay thú dữ; để tiện lợi cho việc nuôi trổng và thu hoạch và đương nhiên; là sinh hoạt cá nhân hàng ngày. 
Do đó, một ngôi nhà ra đời, đủ lớn cho tất cả thanh viên và đủ rộng cho việc tích trữ thức ăn sau những vụ mùa thu hoạch.  
Vậy tại sao lại có sự thay đổi trong suy nghĩ từ việc đi săn bắt nay đây mai đó, thành việc định cư lâu dài tại một vùng đất với công việc đồng áng từ sáng tới tối? 
Đó là vì họ nghĩ mình sẽ có cuộc sống tốt đẹp, an cư lạc nghiệp hơn. Thử so sánh nào:  
Nếu săn bắt hái lượm chỉ đủ ăn cho qua ngày, thì trồng trọt và nuôi cấy không chỉ đủ ăn, mà còn dư thừa thức ăn cho nhiều ngày tiếp theo, nhất là khi điều kiện thời tiết  không thuận lợi để đi hái lượm. 
Nếu trốn trong hang hốc, leo lên cây chỉ đủ tránh thời tiết, thú dữ tạm thời thì một ngôi nhà vững chắc với hàng rào cũng chắc chắn không kém sẽ giúp họ cư trú lâu hơn và an toàn hơn. 
Nếu di chuyển từ vùng đất này đến vùng đất khác tốn nhiều công sức thì việc định cư tại một khu vực, sẽ chẳng cần phải tốn công đi đâu cả. 
Với một viễn cảnh hết sức tươi đẹp và ổn định đó, con người bắt đầu dành nhiều thời gian với việc trồng trọt và thu hoạch. Họ trở thành những người nông dân, và từ đó cách mạng nông nghiệp ra đời. 
Nguồn: Wiki
Nguồn: Wiki
Người nông dân bắt đầu quan sát thời tiết kĩ hơn, chuẩn bị đất để canh tác, đào kênh mương để tích trữ, tính toán xem với điều kiện này nên trồng loại cây nào, nuôi con gì, quy trình ra sao. Càng ngày, họ lao động cực khổ từ sáng tới tối với mong ước hướng tới cuộc sống ngày một no đủ và sung túc.  
Tuy nhiên, bản năng “đưa ra quyết định nhanh để có kết quả ngay lập tức” đã ăn sâu vào chúng ta từ rất lâu trước khi nông nghiệp ra đời. Việc có những người lao động hăng say không đồng nghĩa với việc tất cả mọi người đều sẽ lao đông hăng say. Có những người “muốn có thức ăn mà không phải mất thời gian canh tác”, đó là kẻ đi cướp thức ăn dư thừa từ những người nông dân. Nếu họ có sức mạnh thể chất đủ để đàn áp người lao động, họ tận dụng điều đó để sinh tồn mà không cần phải lao động. 
Những người nông dân vẫn cực nhọc ra đồng và ngày càng vất vả hơn vì phải cống nạp cho kẻ khác. Kẻ bóc lột sống bằng công sức của người bị bóc lột, và rồi giai cấp xã hội ra đời, dẫn đến sự hình thành của hệ thống xã hội, chính trị, thuế…  mà chúng ta đã từng biết trong lịch sử. 
Có thể nói, bản chất sinh tồn của con người là không thay đổi, nó chỉ “linh động” theo các thời kì và dẫn đến sự hình thành của những sự vật, sự việc liên quan khác. 
P/s: Bài viết được lấy cảm hứng từ phần 2 - Cách mang nông nghiệp của cuốn sách Sapiens - Lược sử loài người, tác giả Yuval Noah Harari.